Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Đặc điểm của thế và ý nghĩa pháp lý của việc xác định đặc điểm của thế trong việc xây dựng hệ thống pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.09 KB, 5 trang )

Đặc điểm của thuế và ý nghĩa pháp lý của việc xác định đặc điểm của
thuế trong việc xây dựng hệ thống pháp luật hiện hành
Thuế là phạm trù lịch sử, là một tất yếu khách quan xuất hiện từ
nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước. Với mỗi cách tiếp cận
khác nhau, các nhà nghiên cứu sẽ đưa ra khái niệm riêng phục vụ
cho mục đích nghiên cứu của mình về thuế. Tuy nhiên, thuế sẽ
phải có những đặc tính nhất định để phân biệt với các khoản phí,
lệ phí và các khoản đóng góp tự nguyện khác, để hiểu rõ bản chất
của thuế, khi nghiên cứu chúng ta cùng làm rõ các đặc điểm của
thuế.
“Thuế là khoản thu bắt buộc mang tính cưỡng chế bằng sức mạnh
của nhà nước mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải nộp vào
ngân sách nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Các
khoản thu này không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp cho
người nộp thuế”.
Từ định nghĩa trên, ta có thể chỉ ra được các đặc điểm của thuế
như sau:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách.

Vì không ai tự nguyện từ bỏ quyền lợi của mình để nộp thuế cho
nhà nước. Hơn nữa, để nhà nước tồn tại, nguồn thu từ thuế phải
thường xuyên và ổn định. Nếu tự nguyện nộp thì không thể thường
xuyên và ổn định được. Tính bắt buộc được thể hiện dưới 2 khía
cạnh sau:


Đối với các cơ quan thu thuế: Thu thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối với
cán bộ, cơ quan thu thuế. Cán bộ cơ quan thu thuế không được
quyền lựa chọn đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ
tính thuế… Khoản 1 Điều 8 Luật Quản lý Thuế quy định: Trách
nhiệm của cơ quan quản lý thuế là “Tổ chức thực hiện thu thuế


theo quy định của pháp luật”, lấy pháp luật làm căn cứ duy nhất
để thực hiện.
Đối với người nộp thuế: Đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ
cho nhà nước khi có đủ điệu kiện do pháp luật thuế quy định mà
không phải quan hệ thanh toán trong hợp đồng hay ngoài hợp
đồng. Dù được thực hiện dưới hình thức nào, thuế vẫn thể hiện tính
chất bắt buộc, đối tượng nộp thuế không có quyền trốn thuế hoặc
mong muốn tự mình ấn định hay thoả thuận mức đóng góp của
mình mà chỉ có quyền chấp thuận. Những đối tượng nộp thuế vi
phạm luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm
hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật để buộc họ
phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế. Đây là điểm khác biệt giữa thuế
với các khoản đóng góp mang tính chất tự nguyện.
Thứ hai, thuế gắn với yếu tố quyền lực.
Thuế do quốc hội lập ra dưới hình thức là một đạo luật – là hình
thức văn bản có tính pháp lý cao nhất do cơ quan quyền lực cao
nhất, cơ quan lập pháp đặt ra. Đây là một điểm giúp phân biệt
thuế và các khoản phí, lệ phí. Tuy cũng là những khoản thu có tính
chất bắt buộc nhưng phí và lệ phí được thực hiện dựa theo các văn
bản dưới luật.


Có thể thấy, thuế và quyền lực nhà nước là hai phạm trù không thể
tách rời: Nhà nước là chủ thể duy nhất đặt ra các khoản thuế và
ngược lại thuế là phương tiện vật chất chủ yếu để duy trì quyền lực
nhà nước. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước tạo ra cho thuế tình
cố định, sự tuân thủ của dối tượng nộp thuế. Vì vậy, chỉ gắn với
yếu tố quyền lực nhà nước, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm
vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho nhà nước.
Theo quy định của pháp luật, thuế được đảm bảo thực hiện bằng

sức mạnh cưỡng chế: nhà nước có thể sử dụng các biện pháp
cưỡng chế hành chính hoặc cưỡng chế hình sự (quy định tại điều
161 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009). Qua đó nhà nước đã
gián tiếp đảm bảo tính ổn định trong việc xác định nguồn thu nhập
tài chính của nhà nước và đảm bảo tính ổn định của thuế.
Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp.
Khác với khoản vay; phí và lệ phí, thuế không hoàn trả trực tiếp
cho người nộp thuế (tuy nhiên, một phần thuế được hoàn trả gián
tiếp cho người nộp thuế thông qua các khoản phúc lợi xã hội, phúc
lợi công cộng). Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện ở cả
trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, Nhà nước không hề
cung ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho người nộp thuế. Sau khi
thu thuế, Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho
người nộp thuế. Bởi vì kết quả của việc sử dụng các khoản thu từ
thuế chủ yếu là các sản phẩm công (những lợi ích không thể xác
định chính xác được theo giá trị vật chất).
Thuế được thu nhằm đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của Nhà nước,
nên thuế không có đối khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở chỗ


nguồn thu từ mỗi loại thuế không được quy định gắn với mục đích
chi tiêu cụ thể nào cả mà đều được sử dụng để đáp ứng nhu cầu
chi tiêu chung của Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước. Vì thế, khi xem xét khái niệm thuế cũng
phải hiểu thuế trên hai góc độ: thuế vừa là công cụ huy động
nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và thuế vừa
là công cụ giúp Nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội
hay công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Thứ tư, Thuế có phạm vi áp dụng rộng. So với phí, lệ phí thì thuế
có phạm vi áp dụng rộng hơn.

Phạm vi áp dụng của thuế không có giới hạn, khác biệt giữa các
địa phương, vùng lãnh thổ. Hầu như mọi đối tượng hàng hóa dịch
vụ (được phép lưu thông và hợp pháp), mọi tổ chức, cá nhân (có tư
cách chủ thể) đều chịu sự điều chỉnh của thuế. Bởi vì thuế là khoản
thu có tính chất bắt buộc đối với tất cả các tổ chức, cá nhân khi có
đủ những điều kiện nhất định.
Ý nghĩa pháp lý của việc xác định đặc điểm của thuế trong việc
xây dựng hệ thống pháp luật hiện hành:
Việc nghiên cứu các đặc điểm này của thuế giúp cho các nhà làm
luật lựa chọn sự điều chỉnh pháp luật một cách phù hợp đối với
thuế, mặt khác giúp cho các đối tượng có liên quan thực hiện đầy
đủ chức trách và nhiệm vụ của mình. Quy định nội dung các loại
thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, các biện
pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế.


Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế được
áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều
chỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn
thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội.
Việc nghiên cứu các đặc điểm sẽ giúp các nhà làm luật nghiên cứu
các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi
đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế...qua đó giúp Nhà
nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế.



×