Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Cấu thành tội phạm tăng nặng tội cố ý gây thương tích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.05 KB, 2 trang )

Cấu thành tội phạm tăng nặng tội cố ý gây thương tích
a. Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự 2009 : Khái niệm tội phạm
"3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc
biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười
lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình."
Theo định nghĩa này, các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi cả dấu hiệu
về mặt nội dung chính trị, xã hội và cả dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lí. Dấu hiệu về
mặt nội dung, chính trị, xã hội là tính nguy hiểm cho xã hội, dấu hiệu về mặt hậu
quả pháp lí là tính phải chịu hình phạt. Tính nguy hiểm cho xã hội được cụ thể hoá
ở tội ít nghiêm trọng là tính gây nguy hại không lớn cho xã hội; ở tội nghiêm trọng
là tính gây nguy hại lớn cho xã hội; ở tội rất nghiêm trọng là tính gây nguy hại rất
lớn cho xã hội; và ở tội đặc biệt nghiêm trọng là tính gây nguy hại đặc biệt lớn cho
xã hội. Tương ứng và phù hợp với bốn mức độ nguy hiểm cho xã hội đã được phân
hoá như vậy cũng có bốn mức độ cao nhất của khung hình phạt: Đến 3 năm tù; đến
7 năm tù; đến 15 năm tù và trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Ta có thể thấy chỉ vì mâu thuẫn mà A đã cố ý đâm B , hành vi của A là dùng dao
nhọn là hung khí nguy hiểm đâm vào B. Đây là hành vi gây nguy hại lớn cho xã
hội, gây nguy hại đến tính mạng của B. Khung hình phạt cao nhất trong khoản 2
Điều 104 BLHS là bảy năm. Đối chiếu với khoản 3 Điều 8 BLHS thì trường hợp
phạm tội của A theo khoản 2 Điều 104 về tội cố ý gây thương tích thuộc vào loại tội
phạm nghiêm trọng.


b. Hành vi phạm tội của A chiếu theo khoản 2 Điều 104 BLHS thuộc trường hợp
cấu thành tội phạm tăng nặng, vì:
CTTP tăng nặng là CTTP mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản


ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể
(so với trường hợp bình thường).
Khoản 1 Điều 104 BLHS chỉ có dấu hiệu mô tả tội phạm là hành vi cố ý gây thương
tích hay tổn hại cho sức khỏe của người khác và dấu hiệu định tội là tỷ lệ thương
tật. Những dấu hiệu này cho phép chúng ta phân biệt được tội cố ý gây thương tích
với các tội khác. Do đó khoản 1 Điều 104 là CTTP cơ bản. Khoản 2 Điều 104
BLHS có dấu hiệu mô tả tội phạm giống như khoản 1 Điều 104 BLHS nhưng hậu
quả gây ra lại không giống nhau. Tỷ lệ thương tật do hành vi cố ý gây thương tích
được quy định tại khoản 2 Điều 104 là từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%. Còn
tỷ lệ thương tật do hành vi cố ý gây thương tích được quy định tại khoản 1 Điều 104
BLHS là 11% đến 30% hoặc dưới 11% . Rõ ràng hành vi gây thương tích được quy
định tại khoản 2 Điều 104 BLHS gây ra hậu quả lớn hơn, do đó hành vi đó mang
tính chất nguy hiểm cho xã hội hơn hành vi gây thương tích được qui định tại khoản
1 Điều 104 BLHS. Như vậy, khoản 2 Điều 104 BLHS thuộc trường hợp CTTP tăng
nặng.



×