Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa hai quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.16 KB, 5 trang )

Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa hai quốc gia có phải
điều ước quốc tế
Đề bài:
Năm 1970, quốc gia A gửi cho quốc gia B văn bản đề nghị xác định biên giới trên
biển giữa quốc gia B và vùng lãnh thổ thuộc địa C mà quốc gia A đang khai thác và
đại diện trong quan hệ quốc tế. Trong thư đó, quốc gia A có nêu rõ nguyên tắc, cách
thức phân định và có bản đồ phân định đính kèm. Trong thư trả lời, quốc gia B bày
tỏ quan điểm đồng ý với đề nghị của quốc gia A.
Tuy nhiên, tranh chấp đến biên giới trên biển lại nảy sinh khi C trở thành quốc gia
độc lập, có chủ quyền. Quốc gia C cho rằng: thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn
bản giữa quốc gia A và quốc gia B không phải là điều ước quốc tế có giá trị ràng
buộc giữa các bên. Hơn nữa, với tư cách quốc gia mới ra đời sau cách mạng giải
phóng, quốc gia C không phải kế thừa tất cả các điều ước quốc tế mà A đã đại diện
ký kết. Hãy cho biết:
- Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và B có phải điều ước
quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên hay không? Tại sao?
- Quốc gia C có nghĩa vụ phải kế thừa tất cả các thỏa thuận quốc tế mà quốc gia A
đã đại diện ký kết, trong đó có thỏa thuận xác định biên giới trên biển hay không?
Tại sao?
1. Thoả thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và B có phải điều ước
quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên hay không? Tại sao.
Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và B về vấn đề xác định
biên giới trên biển giữa quốc gia B và vùng lãnh thổ thuộc địa C mà A đang khai


thác và đại diện trong quan hệ quốc tế có thể xem là điều ước quốc tế và có giá trị
ràng buộc ở thời điểm C vẫn là vùng lãnh thổ thuộc địa của A.
Theo điểm a khoản 1 Luật công ước Viên năm 1969, Điều ước quốc tế dùng để
chỉ“một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được
pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc
trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là


gì”. Thoả thuận quốc tế sẽ trở thành điều ước quốc tế và có giá trị ràng buộc khi nó
đảm bảo các trình tự tạo nên một điều ước quốc tế, cụ thể như phải đảm bảo các giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn hình thành các văn bản điều ước: Trong giai đoạn này, các
bên sẽ thực hiện các hành vi như: đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều
ước. Thực hiện xong các hành vi này, điều ước quốc tế vẫn chưa phát sinh hiệu lực,
tuy nhiên nếu thiếu các hành vi này thì một điều ước quốc tế không thể được hình
thành.
Giai đoạn 2: giai đoạn thực hiện các hành vi nhằm thể hiện sự ràng buộc của quốc
gia với điều ước quốc tế và có giá trị tạo ra hiệu lực thi hành của điều ước đó. Giai
đoạn này có 4 hành vi được thực hiện đó là: hành vi ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia
nhập điều ước quốc tế.[ Theo “Luật Quốc tế” Ts. Ngô Hữu Phước]
Các thoả thuận giữa các quốc gia chưa thể trở thành một điều ước quốc tế khi thiếu
các trình tự trên.
Tuy nhiên, các quy định tại công ước Viên năm 1969 chỉ bắt đầu có hiệu lực từ năm
1980. Trước khi công ước Viên năm 1969 có hiệu lực, trong quan hệ quốc tế, điều
ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các quốc gia – có thể bằng hình thức văn bản hoặc
là sự thỏa thuận bằng miệng – thỏa thuận này được gọi là “điều ước quân tử”


Thứ hai, xét đến yếu tố chủ thể tham gia trong thỏa thuận này là quốc gia A và quốc
gia B – đều là chủ thể của luật quốc tế. Thỏa thuận này được hình thành dựa trên sự
đồng ý của 2 quốc gia (Quốc gia A gửi đề nghị và quốc gia B ngỏ ý đồng ý).
Như vậy, căn cứ theo phân tích trên, thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa
quốc gia A và B có thể xem là điều ước quốc tế và có giá trị ràng buộc giữa A và B.
2. Quốc gia C có nghĩa vụ kế thừa tất cả các thoả thuận quốc tế mà quốc gia A đã
đại diện ký kết, trong đó có thỏa thuận xác định biên giới trên biển hay không? Tại
sao?
Với thỏa thuận quốc tế, quốc gia C không có nghĩa vụ kế thừa tất cả các thỏa thuận
quốc tế mà quốc gia A đã đại diện ký kết (nghĩa là quốc gia A có thể tiếp tục thực

hiện các ngĩa vụ đó hoặc không) những với thỏa thuận xác định biên giới trên biển,
C vẫn phải tiếp tục tôn trong và thực hiện thỏa thuận quốc tế này. Vì các lý do như
sau:
Thứ nhất: Theo luật quốc tế hiện hành, các quốc gia mới thành lập không có nghĩa
vụ phải tiếp tục thực hiện các điều ước quốc tế do quốc gia để lại thừa kế ký kết.
Căn cứ vào cơ sở pháp lý tại điều 16 và điều 28 công ước Viên năm 1978:
“Điều 16: Đối với những điều ước của các quốc gia tiền nhiệm, Quốc gia mới độc
lập không bị ràng buộc việc duy trì hiệu lực hoặc phải trở thành thành viên của bất
ký điều ước nào với lý do điều ước vẫn còn hiệu lực đối với lãnh thổ được ký kết
vào thời điểm kế thừa”.
“Điều 28: Điều ước song phương: Điều ước song phương vẫn đang còn hiệu ước
hoặc tạm thời áp dụng đối với lãnh thổ được thừa kế vào thời điểm thừa kế sẽ vẫn
còn hiệu lực giữa hai bên quốc gia độc lập mới hình thành hoặc quốc gia kia khi:
+ Hai bên khẳng định rõ ràng sự chấp thuận


+ Hai bên bằng hành vi thể hiện sự chấp thuận
Như vậy, đối với các điều ước quốc tế các quốc gia để lại kế thừa, có hai trường
hợp:
Trường hợp 1: Quốc gia mới giành được độc lập không phải tiếp tục thực hiện các
điều ước quốc tế trước đây vẫn thi hành tại lãnh thổ quốc gia mới đó.
Trường hợp 2: Đối với các điều ước mà trước đây quốc gia A đã kí kết, quốc gia C
có thể thỏa thuận các điều kiện áp dụng điều ước với quốc gia A. Hoặc C sẽ kí kết
với A các điều ước đặc biệt, trong những điều ước lại này có ghi nhận việc C sẽ kế
thừa tất cả các điều ước còn hiều lực thi hành do A đã kí kết với B về lãnh thổ vốn
là thuộc địa của A trước đây.
Thứ hai, trong trường hợp này C vẫn phải kế thừa điều ước quốc tế xác định biên
giới trên biển giữa A và B bởi: những điều ước biên giới về lãnh thổ thường có giá
trị rất bền vững và mang tính ổn định dù hai bên có mất tư cách chủ thể thì quốc gia
mới vẫn buộc phải thừa kế. Căn cứ theo quy định tại điều 11, 15 và 30 của Công

ước Viên năm 1969:
Điều 11: Sự kế thừa quốc gia không ảnh hương đến tới:
a. Một đường biên giới đã được xác định bởi một hiệp định, hay
b. Các quyền và nghĩa vụ đã được xác định bởi một hiệp định liên quan đến thể chế
biên giới.
Điều 15: Khi một phần lãnh thổ nhà nước hoặc khi bất cứ phần lãnh thổ nào mà
không còn là lãnh thổ của quốc gia đó hoặc trở thành một phần lãnh thổ của quốc


gia khác thì: a, Điều ước của quốc gia để lại sẽ ngừng có hiệu lực với phần lãnh thổ
mà quốc gia thừa kế có liên quan, kể từ ngày quốc gia thừa kế ra đời.
Như vậy, với các điều ước quốc tế khác, Quốc gia C không có nghĩa vụ tiếp tục
thực hiện các điều ước này và có thể hiện nó hay không nhưng với thỏa thuận quốc
tế về biên giới, quốc A buộc phải tôn trọng thực hiện.



×