Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Các lớp từ trong từ vựng Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.29 KB, 9 trang )

Các lớp từ trong từ vựng
A. Phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc
-

Trên thực tế, hầu như không có từ vựng của ngôn ngữ nào chỉ hình thành,
xây dựng bằng con đường “tự nó”, mà chúng vẫn được vay mượn từ các
ngôn ngữ khác.

-

Từ vựng tiếng Việt chia làm hai lớp từ
Từ vựng tiếng Việt
Lớp từ bản ngữ (lớp từ
thuần)

Lớp từ có nguồn gốc khác
(lớp từ ngoại lai)

Lớp các từ ngữ gốc Hán

Lớp các từ ngữ gốc Ấn Âu

1. Các từ ngữ gốc Hán
-

Có thể chia quá trình tiếp xúc Hán – Việt thành hai giai đoạn lớn: một là
giai đoạn từ đầu công nguyên đến đầu đời Đường (đầu TK VIII); hai là giai
đoạn từ đời Đường (TK VIII – X) trở về sau.

a. Từ Hán cổ là từ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn một.
Những từ này đã được đồng hóa mạnh nên hiện nay không còn xa lạ với


người Việt nữa.
VD. Chè, chén, buồng, buồn, mùi, mùa…
b. Từ Hán Việt du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn hai: trà, trọng, nam, nữ,
mã…
-

Tên gọi “từ Hán Việt” bao gồm cả những từ vốn không phải là gốc Hán, mà
do người Hán mượn một ngôn ngữ khác, rồi nghười Việt vay mượn lại, đọc
theo âm Hán Việt.

VD. Những từ xuất thân nguồn gốc Nhật Bản: trường hợp, phục tùng, phục vụ,
kinh tế, mĩ thuật…


-

Từ Hán Việt còn gồm những từ do người Việt tạo ra nhưng sử dụng yếu tố
cấu tạo có nguồn gốc Hán như: đặc công, công an, ca hát, hiểm nghèo, tàu
thủy…

c. Nhóm từ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt thông qua con đường khẩu
ngữ. Nhóm này có số lượng không nhiều và không đem lại cho tiếng Việt
ảnh hưởng đáng kể nào.
VD. Mì chính, vằn thắn, lẩu, tào phớ…
 Kết luận:
-

Từ gốc Hán đã được Việt hóa, cải tổ về mặt ngữ âm.
• Có hàng loạt từ được Việt hóa hai lần, dẫn đến hai cách đọc: một là
cách đọc Hán Việt, hai là cách đọc Hán Việt Việt hóa. Cách đọc thứ

hai làm mờ hẳn nguồn gốc của chúng.
VD. Can – gan, quả - góa, kiếm – gươm…
• Rút ngắn từ lại: cử nhân – cử, tú tài – tú, tiểu đồng – tiểu…

-

Về năng lực hoạt động: nhiều từ có khả năng hoạt động độc lập, tự do đến
mức không mấy ai để ý hay cảm thấy nguồn gốc Hán của chúng nữa.

VD. Tuyết, thánh, tiên, Phật, ông, bà, cao thấp…
-

Về ý nghĩa: không phải từ gốc Hán nào trong tiếng Việt cũng giữ nguyên
cái nghĩa vốn có của nó. Một số từ chỉ còn dùng với một hoặc một vài
nghĩa trong số nhiều nghĩa của chúng. Cũng có từ đổi hẳn nghĩa của nó đi.

VD. Từ “nhất” có hơn 10 nghĩa nhưng khi đi vào tiếng Việt, nó chỉ giữ lại
nghĩa “thứ tự trên hết” khi hoạt động tự do: giải nhất, hạng nhất…
Tử tế (kĩ lưỡng -> tốt bụng), sung sướng (đầy đủ, thông suốt -> sướng,
hạnh phúc)…
2. Các từ ngữ gốc Ấn Âu
-

Bộ phận từ ngữ này vào Việt Nam khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược
(giữa TK XIX), vừa bằng con đường khẩu ngữ, vừa qua con đường chính
thức trong giáo dục nhà trường và giao tiếp hành chính).


-


Khi du nhập vào tiếng Việt, sự biến đổi về nghĩa của các đơn vị từ ngữ
nguồn gốc Ấn Âu không rõ rệt và không làm nảy sinh những đối lập, khác
biệt quan trọng như từ gốc Hán.

-

Vấn đề cải tổ bộ mặt ngữ âm:
• Đọc (nói) theo cách của người Việt: các từ được phân chia thành các
âm tiết tách rời và phát âm theo cơ cấu ngữ âm của âm tiết tiếng
Việt, thêm thanh điệu cho các âm tiết, chuyển âm này thành âm khác
cho phù hợp với cách phát âm của người Việt.
VD. Cafe – cà phê, carrotte – cà rốt…
• Rút ngắn bớt độ dài của các từ gốc Ấn Âu. Với từ ngắn thì chỉ cấu
trúc hóa lại cho thành một âm tiết theo kiểu Việt: gare – ga, boy –
bồi… Ngược lại những từ dài thường được rút ngắn bớt: creme –
kem, cravate – ca vát…

-

Những từ vốn là từ đơn tiết hoặc được đơn tiết hóa thì khả năng nhập vào
tiếng Việt rất mạnh: xăng, lốp, len, phanh, bốt…

-

Những từ đa tiết vốn được mượn thông qua con đường sách vở, thì dấu ấn
ngoại lai còn rất rõ: xà phòng, may ô, bê tông, xích đu, ki lô…

3. Lớp từ thuần Việt
-


Là cốt lõi của từ vựng tiếng Việt, chi phối sự hoạt động của mọi lớp từ
khác.

-

Cơ sở hình thành là các từ gốc Nam phương: gồm cả Nam Á và Tày Thái.

-

Nhiều nhóm của lớp từ thuần Việt có những tương ứng, quan hệ hết sức
phức tạp với nhiều ngôn ngữ và nhóm ngôn ngữ trong vùng: Việt – Mường,
Việt – Tày Thái, Môn – Khmer…

B. Phân lớp từ ngữ theo phạm vi sử dụng
1. Thuật ngữ


-

Là những từ ngữ làm tên gọi cho các khái niệm, các đối tượng được xác
định một cách chặt chẽ, chuẩn xác trong mỗi ngành, lĩnh vực khoa học
chuyên môn.

VD. Trong ngôn ngữ học: âm vị, hình vị, từ, nguyên âm, phụ âm…
-

So với từ ngữ thông thường, thuật ngữ có ngoại diên hẹp hơn nhưng nội
hàm sâu hơn và biểu thị một cách logic, chặt chẽ hơn.

-


Thuật ngữ không bao giờ biểu thị những sắc thái phụ như thái độ đánh giá
của người nói, khen – chê, kính trọng – xem thường…

-

Đặc điểm:
• Tính chính xác: chính xác và chuẩn tắc về nội dung khái niệm do nó
biểu thị.
• Tính hệ thống: mỗi thuật ngữ nằm trong một hệ thống nhất định và
hệ thống ấy phải chặt chẽ về cả nội dung và hình thức biểu hiện.
• Tính quốc tế: nội dung khái niệm của một ngành khoa học trong các
nước là không lệch nhau.

2. Từ ngữ địa phương
-

Là những từ thuộc một phương ngữ nào đó của ngôn ngữ dân tộc và chỉ
phổ biến trong phạm vi lãnh thổ của địa phương đó.

-

Các con đường dẫn tới sự hình thành những kiểu từ địa phương khác nhau:

• Do sự vật được gọi tên chỉ có ở một vài địa phương nhất định nên tên gọi
của chúng trở thành từ địa phương.
VD. Sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, tram bầu – phương ngữ Nam Trung Bộ
và Nam Bộ
• Có những từ cùng gọi tên một sự vật, hiện tượng với từ trong từ vựng
chung nhưng hai từ khác nhau hoàn toàn về mặt ngữ âm.

VD. Rú – núi, nhủ - bảo, má – mẹ, lượm – nhặt…


• Những từ vốn là dạng cổ của từ tương ứng trong từ vựng chung hiện nay.
Dạng cổ được bảo toàn trong một địa phương, còn dạng mới, dạng hậu kì
của chúng thì đi vào từ vựng chung.
VD. Gấy – gái, chí – chấy, ví – với…
• Những từ đồng âm với từ trong từ vựng chung.
VD. ốm: có bệnh (nghĩa chung) – gầy (phương ngữ Nam Bộ)
3. Từ nghề nghiệp
-

Là một lớp từ bao gồm những đơn vị từ ngữ được sử dụng phổ biến trong
phạm vi những người cùng làm một nghề nào đó.

-

Lớp từ nghề nghiệp tập trung chủ yếu ở những nghề mà xã hội ít quen như
nghề làm giấy, làm đồ gốm, sơn mài…

-

Ở nước nông nghiệp như Việt Nam, những nghề thủ công nghiệp hoặc tiểu
công nghiệp phân tán và không tiếp xúc rộng rãi với toàn xã hội. Những từ
thuộc phạm vi này có nhiều từ nghề nghiệp hơn cả.

VD. Nghề hát tuồng: đào, kép, mụ ác, mụ lành, kép phong tình, kép trắng…
4. Tiếng lóng
-


Là một bộ phận từ ngữ do những nhóm, những lớp người trong xã hội dùng
để gọi tên những sự vật, hiện tượng… vốn đã có tên gọi trong vốn từ vựng
chung, nhằm giữ bí mật trong nội bộ nhóm mình.

VD. Sinh viên: phao, chết (thi hỏng), tạch…
-

Tiếng lóng có tính thời sự và mốt của nó. Khi tính bí mật của một từ tiếng
lóng bị giải tỏa, tính chất mốt bị mất đi, thì nó cũng bị xóa bỏ. Do đó, tiếng
lóng ít khi đi vào vốn từ vựng chung.

5. Lớp từ chung
-

Gồm những từ ngữ mà toàn dân, mọi người, mọi nơi, mọi lúc đều có thể sử
dụng một cách rộng rãi.

-

Có khối lượng từ ngữ lớn nhất, đóng vai trò làm nền tảng.

C. Phân lớp từ ngữ tích cực và tiêu cực


-

Tích cực và tiêu cực được hiểu là từ ngữ có đóng vai trò tích cực trong đời
sống giao tiếp hay không, tức là chúng có thường xuyên được sử dụng hay
không.


-

Những từ thường xuyên xuất hiện trong giao tiếp, luôn được mọi người sử
dụng thuộc lớp từ tích cực.

-

Những từ ngữ ít được sử dụng, hoặc chỉ sử dụng trong bối cảnh giao tiếp
nào đó thì thuộc lớp từ tiêu cực.

-

Lớp từ ngữ tích cực là thành phần cơ bản, trụ cột của từ vựng.

-

Lớp từ tiêu cực có ba bộ phận càn xét kĩ: từ cổ, từ lịch sử và từ mới.

1. Từ cổ
-

Là những từ bị đẩy ra ngoài hệ thống từ vựng hiện đại, bởi trong quá trình
phát triển, biến đổi đã xảy ra những xung đột về đồng nghĩa hoặc đồng âm,
hoặc bị từ khác thay thế.

-

Có 2 dạng:

• Những từ đã mất hẳn trong từ vựng hiện đại. Muốn tìm và hiểu những từ

này phải lùi lại những tài liệu ghi chép được trong quá khứ để khảo sát và
phân tích.
• Những từ đã bị đẩy khỏi vị trí vốn có của chúng nhưng vẫn còn để lại dấu
vết của mình.
VD. Âu (lo âu), lệ (e lệ), nàn (phàn nàn)…
2. Từ lịch sử
-

Là những từ bị đẩy ra ngoài phạm vi từ vựng chung, tích cực bởi các
nguyên nhân lịch sử và xã hội. Khi đối tượng từ biểu thị, gọi tên bị gạt ra
ngoài đời sống thì tên gọi của nó cũng mất dầm vị trí vốn có trước đây.

VD. Thái thú, tú kép, nghè, thám hoa, thượng thư…
3. Từ mới
-

Khi một từ mới xuất hiện, chưa có nhiều người trong phạm vi toàn xã hội
biết đến nên nó nằm trong lớp từ ngữ tiêu cực. Sau đó, từ này được chấp


nhận và phổ biến trong xã hội thì nó lại nhanh chóng đi vào lớp từ vựng
tích cực.
VD. Tin học, phần cứng, phần mềm, đầu ra, đầu vào… (hiện nay – 10 năm
trước)
-

Từ mới phải luôn được xét trong một thời gian cụ thể, một tình trạng từ
vựng cụ thể.

-


Thời gian để một từ mới có đi vào lớp từ tích cực hay không thường ngắn
hoặc rất ngắn.

D. Phân lớp từ ngữ theo phong cách sử dụng
1. Lớp từ khẩu ngữ
-

Về cấu trúc hình thức: khi đi vào giao tiếp, các từ ngữ thuộc lớp này ít
nhiều có thể “tự do, phóng túng” nếu điều kiện cho phép, tức là chúng có
nhiều khả năng biến đổi cấu trúc vốn có của mình.
• Tách rời và chen thêm các yếu tố khác vào
VD. Người ngợm – người với chả ngợm
• Tăng cường các dạng láy hoặc lặp lại từ
VD. Đàn ông – đàn ông đàn ang

-

Có sắc thái đánh giá cực đại theo chiều nào đó để cường điệu sự đánh giá
của người nói, lôi cuốn sự chú ý của người nghe.

VD. Chạy ở hơi tai, cười đứt ruột…
-

Chấp nhận cách xưng hô mang đậm màu sắc bày tỏ thái độ và những từ ngữ
có sắc thái thông tục.

VD. Thằng cha, con mẹ, ngu, tồi, chẳng ra chó gì…
-


Ưa dùng quán ngữ, thành ngữ để đưa đẩy, rào đón, hoặc diễn tả cho sinh
động.

2. Lớp từ ngữ thuộc phong cách viết


-

Là những từ ngữ chỉ dùng trong sách vở, báo chí, có chọn lọc, trau dồi, gắn
với chuẩn tắc nghiêm ngặt.

-

Một số phong cách chức năng cụ thể:

• Phong cách khoa học: gắn với các thuật ngữ khoa học, các từ ngữ chuyên
môn hóa.
• Phong cách hành chính sự vụ: dùng trong văn bản pháp lí, ngoại giao, hành
chính như “công văn, công ước, tố tụng, biên bản…”
• Phong cách chính luận báo chí: dùng trong văn bản chính luận, bày tỏ thái
độ, quan điểm như “cộng sản, vô sản, đế quốc, thực dân, vũ trang…”
• Phong cách văn học nghệ thuật
-

Đặc điểm:

• Không mang tính thông tục
• Chủ yếu gồm các thuật ngữ, từ ngữ chuyên môn hóa của các lĩnh vực
• Nội dung mang tính khái quát, trừu tượng hoặc gợi cảm, hình tượng
• Phần nhiều là từ gốc Hán và gốc Ấn Âu được du nhập

3. Lớp từ ngữ trung hòa về phong cách
-

Trừ những từ ngữ mang dấu hiệu đặc trưng của lớp từ khẩu ngữ và lớp từ
vựng thuộc phong cách viết, số còn lại được gọi là lớp từ vựng trung hòa.


Phương pháp so sánh lịch sử: nghiên cứu sự biến đổi ngôn ngữ và quan hệ
giữa các ngôn ngữ về cội nguồn.
• Thu thập ngữ liệu từ các ngôn ngữ được giả định có quan hệ cội
nguồn với nhau.
• Phát hiện có/ không có mối quan hệ tương ứng về mặt ngữ âm của từ
nào đó giữa quan hệ ngôn ngữ với nhau.
• (Khi so sánh phải so sánh từ vựng “cơ bản”, tức là những từ có sớm,
gắn bó với con người nhất)
• Những từ giống nhau giữa hai ngôn ngữ không chứng tỏ về nguồn
gốc mà có thể chỉ là quan hệ tiếp xúc, vay mượn giữa hai ngôn ngữ.
• Tìm ra quy luật tương ứng, biến đổi để chứng minh quan hệ nguồn
gốc.
-

Bằng việc so sánh các sự kiện, hiện tượng ngôn ngữ trong quá khứ lịch sử
trước đây với thời kì muộn hơn về sau hoặc hiện tại, người ta có thể xác
định được những ngôn ngữ nào đó có quan hệ với nhau về mặt nguồn gốc
hay không và nếu có thì ở mức độ nào.

VD. Tiếng Việt có quan hệ bà con họ hàng gần nhất với tiếng Mường -> các
ngôn ngữ thuộc nhóm Việt – Mường.
-


NNH so sánh lịch sử sẽ xác lập được phổ hệ của các ngôn ngữ, quy chúng
vò các nhóm, các tiểu chi và chi, các ngành khác nhau thuộc các ngữ hệ
khác nhau.



×