Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT ĐẦU TƯ 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 112 trang )

HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRUNG ƯƠNG
________________________

ĐẶC SAN
TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT
Số: 4/2015

CHỦ ĐỀ

GIỚI THIỆU LUẬT ĐẦU TƯ 2014

1


2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ST

TỪ VIẾT TẮT

TỪ ĐẦY ĐỦ

1.

BCC

Hợp đồng hợp tác kinh doanh


2.

BKHĐT

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

3.

BOT

Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao

4.

BT

Hợp đồng xây dựng – chuyển giao

5.

BTO

Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh

6.

CTCP

Công ty cổ phần


7.

GCNĐKĐT

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư

8.

GCNĐT

Giấy chứng nhận đầu tư

9.

PPP

Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công – tư

10.

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

11.

UBND

Ủy ban nhân dân


T

3


PHẦN I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, HÌNH THỨC, QUY TRÌNH VÀ CÁC LOẠI
HÌNH DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư là một khái niệm có từ khá sớm, đã từng xuất hiện trong bộ cổ
luật Hamurabi (khoảng 1700 năm Trước Công Nguyên). Bộ luật này có quy
định về hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư, và tạo ra một phương tiện cho
việc cầm cố tài sản bằng việc pháp điển hóa quyền của chủ nợ và con nợ đối
với đất đai bị cầm cố (như vậy, hoạt động đầu tư ở đây được hiểu là giá trị các
quyền tài sản mà chủ nợ có được đối với tài sản của bên vay, vốn là tài sản
cầm cố thế chấp để đảm bảo cho khoản vay).
Vào đầu những năm 1900, những người mua cổ phần, trái phiếu và các
chứng khoán khác được mô tả trên các phương tiện truyền thông hay trong giới
học thuật và doanh thương là những kẻ “đầu cơ”. Đến những năm 1950, thuật
ngữ đầu tư bắt đầu được dùng phổ biến để chỉ những hoạt động mua bán, trao
đổi với khoản đầu vào thấp hơn đầu ra và với mục đích là tạo ra lợi ích thương
mại trên thương trường.
Trong nền kinh tế thị trường, khái niệm đầu tư được sử dụng tương đối
rộng rãi và phổ biến. Đầu tư cũng là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống
nói chung và trong nền kinh tế nói riêng. Với tầm quan trọng của mình, đầu tư
được xem xét ở rất nhiều góc độ khác nhau. Hoạt động đầu tư thực chất là quá
trình sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và

các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung.

4


Dưới góc độ kinh tế, đầu tư được xem là việc sử dụng các điều kiện hay
nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã được sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Các nguồn lực được sử dụng để đầu tư bao gồm nhân lực, vật lực, tài nguyên
thiên nhiên, trí tuệ, v…v… Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể tiến hành
hoạt động đầu tư có thể là các tổ chức hoặc các cá nhân, thực hiện hoạt động
này vì mục đích sinh lợi hoặc đạt được các kết quả xác định như: tăng sản vật,
tăng các giá trị vật chất (tiền, tài sản…) hoặc để gia tăng nguồn nhân lực cho
sự phát triển ổn định lâu dài.
Dưới góc độ chính trị - xã hội, đầu tư được hiểu là “việc bỏ nhân lực, tài
lực, vật lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội”.
Với khái niệm này, đầu tư được hiểu một cách rất rộng rãi. Ở góc độ xã hội,
một ví dụ điển hình là bố mẹ “đầu tư” tiền của, công sức để con cái học hành
nên người hay nhà nước đầu tư, chi ngân sách cho “giáo dục”, đầu tư vào “con
người” với mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Như vậy, xem xét
đầu tư ở góc độ chính trị - xã hội, có thể thấy hoạt động đầu tư khá đa dạng, là
việc lấy những gì đang có làm nền tảng tạo nên sự phát triển cho tương lai.
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật
chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn

lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương
lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Nói tóm lại,
có rất nhiều khái niệm về đầu tư được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy
vậy, ở góc độ tổng quát, khái niệm về đầu tư được đưa ra một cách tương đối
như sau: “đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật
5


chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong một thời gian
tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế, xã hội”.
Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư, bao gồm các tổ chức cá
nhân, bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để
thực hiện hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận hoặc lợi ích về kinh tế, xã
hội. Hoạt động đầu tư có thể có thể có tính chất kinh doanh hoặc không vì mục
đích kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý cũng như
trong các thực tiễn xây dựng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư
chủ yếu được đề cập là hoạt động đầu tư, kinh doanh với bản chất là “sự chi
phí của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi
nhuận trong tương lai”.
2. Các đặc điểm của đầu tư
Từ mỗi góc độ tiếp cận khác nhau sẽ có các quan niệm khác nhau về đầu
tư, nhưng một quan niệm hoàn chỉnh về đầu tư phải bao gồm các đặc trưng chủ
yếu sau đây:
Thứ nhất, công việc đầu tư đòi hỏi phải bỏ vốn ban đầu: Yếu tố then
chốt, đầu tiên của đầu tư chính là khoản vốn mà nhà đầu tư phải bỏ ra để thực
hiện hoạt động sinh lợi của mình. Vốn cho hoạt động đầu tư rất đa dạng, có thể
bằng tiền mặt, bằng hiện vật khác như vàng, đá quý, máy móc thiết bị…Có khi
vốn bỏ ra ban đầu là sản phẩm trí tuệ vô hình như phương pháp quản lý kinh
doanh, bí mật công nghệ…nhưng có thể định lượng thành các giá trị thương
mại nhất định.

Thứ hai, đầu tư luôn gắn liền với rủi ro, mạo hiểm: đây cũng là điểm đặc
thù của hoạt động đầu tư mặc dù không phải lúc nào nhà đầu tư cũng nhận thức
được hết các rủi ro sẽ xảy ra khi tiến hành đầu tư. Do vậy các nhà đầu tư phải
nhìn nhận trước những khó khăn, phân tích, đánh giá và có biện pháp đối phó,
phòng ngừa với rủi ro. Một trong các nguyên tắc cơ bản của đầu tư là rủi ro
càng cao thì lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
6


Thứ ba, mục tiêu của đầu tư là lợi nhuận và hiệu quả: Khi tiến hành hoạt
động đầu tư, thông thường nhà đầu tư kì vọng vào kết quả thu được từ hoạt
động đó. Mục đích cuối cùng cần nhắm tới của hầu hết các hoạt động đầu tư là
hiệu quả cùng với kết quả thu được qua việc đầu tư một cách có hiệu quả đó.
Nhưng ở những vị trí khác nhau, người ta cũng nhìn nhận vấn đề hiệu quả
không giống nhau. Các doanh nghiêp là chủ đầu tư thường chỉ thiên về hiệu
quả kinh tế, tối đa hoá lợi nhuận. Còn đối với nhà nước thì hiệu quả mong
muốn là phát triển kinh tế phải gắn liền với lợi ích xã hội. Trong nhiều trường
hợp lợi ích xã hội được đặt lên hàng đầu.
3. Hình thức đầu tư
Ở góc độ phổ biến nhất, đầu tư được phân làm hai hình thức gồm (1)
Đầu tư trực tiếp và (2) Đầu tư gián tiếp.
3.1. Đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là sự đầu tư thông qua sản xuất, cung cấp dịch vụ, buôn
bán tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này thường dẫn đến sự thành lập
một pháp nhân riêng như công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài
hay chi nhánh công ty nước ngoài. Đầu tư trực tiếp góp phần làm tăng tổng sản
phẩm quốc nội, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và phương thức
quản lý, kinh doanh tiên tiến, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề việc làm tại
nước nhận đầu tư. Các loại hình đầu tư trực tiếp phổ biến bao gồm:
a) Đầu tư thông qua hợp đồng

Đầu tư thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh (“Business Cooperation
Contract” hay “BCC”) là loại hình đầu tư mà nhà đầu tư thực hiện thông qua
một cơ chế hợp tác duy nhất: hợp đồng. Trong hợp đồng này, các bên liên quan
(các nhà đầu tư) thỏa thuận cụ thể về mục tiêu, vốn đầu tư, quyền và nghĩa vụ
của các bên liên quan, phân chia lợi nhuận, hạn chế rủi ro, cách thức ra quyết
định…

7


BCC là một mô hình đầu tư không hoàn thiện do các nhà đầu tư chỉ có
thể ràng buộc trách nhiệm của mình qua một hợp đồng chứ không phải là một
pháp nhân có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, chẳng hạn như một công ty. Do đầu tư
thông qua BCC không tạo ra một pháp nhân, nên các bên tham gia khó có thể
thảo luận và quản lý công việc đầu tư một cách hiệu quả, giải quyết được
những xung đột hay giao kết với các bên thứ ba để triển khai dự án đầu tư nếu
không định ra được một cơ chế phối hợp hoàn chỉnh.
Ngoài hình thức đầu tư BCC, nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng có
thể lựa chọn các mô hình đầu tư khác thông qua hợp đồng để thực hiện dự án
của mình, bao gồm: Hợp đồng xây dựng, kinh doanh, chuyển giao (“BOT”),
Hợp đồng xây dựng, chuyển giao, kinh doanh (“BTO”) hoặc Hợp đồng xây
dựng, chuyển giao (“BT”). Một mô hình đầu tư thông qua hợp đồng mới phát
triển trên thế giới trong thời gian gần đây là đầu tư theo hình thức hợp đồng đối
tác công – tư (“PPP”). Theo mô hình này, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án ký
kết hợp đồng PPP với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu
tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công
trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Các hình thức đầu tư thông
qua hợp đồng đều có thể coi là hình thức “đầu tư có điều kiện” và chủ yếu
được thực hiện trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc các lĩnh vực yêu cầu vốn lớn
hoặc yêu cầu giải pháp, công nghệ mà nhà đầu tư Việt Nam chưa thể đáp ứng

được.
b)Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Đi theo mô hình này, nhà đầu tư sẽ bỏ vốn để thành lập một tổ chức kinh
tế mà thông qua đó, các hoạt động đầu tư được thực hiện và được quản lý tốt
hơn. Tổ chức kinh tế đứng ra triển khai hoạt động đầu tư thường là một doanh
nghiệp do các nhà đầu tư thỏa thuận lập ra. Toàn bộ hoạt động đầu tư và quản
lý hiệu quả các hoạt động đó đều được thực hiện qua doanh nghiệp mà nhà đầu
tư thành lập. Tổ chức kinh tế được thành lập để tiến hành các hoạt động đầu tư
có thể là doanh nghiệp liên kết giữa nhiều nhà đầu tư khác nhau, bao gồm nhà
8


đầu tư trong và ngoài nước, thường gọi là liên doanh; nhưng cũng có trường
hợp các nhà đầu tư có cùng thành phần như nhau, hoặc là toàn bộ nhà đầu tư
trong nước hay toàn bộ nhà đầu tư nước ngoài. Trong những trường hợp này,
họ có thể thành lập các công ty 100% vốn trong nước hoặc nước ngoài để thực
hiện triển khai dự án của mình.
Ưu điểm của hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là các nhà đầu tư
có cơ chế thảo luận rất rõ ràng (thông qua các cơ quan quản lý nội bộ của tổ
chức nư ban điều hành, hội đồng quản trị, đại hội đồng cổ đông…). Ngoài ra,
thông qua tổ chức kinh tế, là doanh nghiệp, họ có phương tiện thực hiện hoạt
động đầu tư một cách thuận tiện, có cơ chế để kiểm soát chi phí và phân bổ lợi
nhuận cho các nhà đầu tư dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, việc quản lý hoạt động
đầu tư, với một doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn nhiều so với chỉ một hợp đồng,
như mô hình đầu tư BCC.
c)Đầu tư phát triển kinh doanh
Đầu tư phát triển kinh doanh là hoạt động đầu tư thực hiện thông qua mở
rộng quy mô, tăng công suất, cải tiến năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm ô nhiễm môi trường. Các hoạt động đầu
tư này có thể diễn ra trong nội bộ tổ chức kinh tế (vốn là công cụ của nhà đầu

tư) và là sự kế thừa, phát huy những cái đã có sẵn để nâng tầm phát triển về
sau.
d)Đầu tư thông qua mua cổ phần, mua phần vốn góp và sáp nhập
Hình thức đầu tư này không còn quá mới mẻ trong nền kinh tế thị trường
khi các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư được coi là hàng hóa có thể trao đi
đổi lại nhằm tạo ra các giá trị thặng dư. Nhà đầu tư có thể thực hiện hoạt động
đầu tư thông qua việc mua lại phần vốn góp, mua cổ phần tại các công ty, các
chi nhánh tại Việt Nam để thâu tóm, quản lý và để thu lợi trong một kế hoạch
dài hạn. Nhà đầu tư cũng có thể thực hiện hoạt động đầu tư bằng việc sáp nhập,
mua lại các công ty, chi nhánh tại Việt Nam. Việc sáp nhập doanh nghiệp cũng
được quy định tại Luật doanh nghiệp hiện hành và được hiểu là một hoặc một
9


số công ty (công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (công ty
nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ hợp pháp
sang công ty nhận sáp nhập đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp
nhập. Sáp nhập doanh nghiệp là một hình thức đầu tư không còn quá xa lạ tại
Việt Nam khi các công ty lớn thực hiện mở rộng mạng lưới, thị trường và
khách hàng bằng cách nhận sáp nhập hoặc mua lại các công ty mục tiêu tiềm
năng. Ở chiều ngược lại, các công ty tiềm năng cũng có điều kiện để trở thành
một phần của công ty nhận sáp nhập.
3.2. Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là sự đầu tư thông qua việc buôn bán cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ và các giấy tờ có giá trị, gọi chung là chứng khoán. Hình
thức đầu tư này không dẫn đến việc thành lập pháp nhân riêng và mang tính
đầu cơ nên có thể thu lãi rất lớn thông qua sự biến động giá chứng khoán (điều
này lại liên quan đến nhiều yếu tố khác như tình hình chính trị, phát triển kinh
tế, chính sách điều hành vĩ mô, v.v...), nhưng cũng chính vì thế mà có thể phải
chịu những rủi ro khó lường trước.

Đối với nước nhận đầu tư, hình thức đầu tư gián tiếp thông qua thị
trường chứng khoán, thị trường tài chính nội địa góp phần giải quyết sự khan
hiếm vốn, nhưng khi các nhà đầu tư đồng loạt rút đi (bằng cách bán lại chứng
khoán) sẽ dễ dẫn đến những biến động trên thị trường tiền tệ, ảnh hưởng không
nhỏ tới nền kinh tế. Các hoạt động đầu tư gián tiếp điển hình bao gồm: (i) mua
cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác, (ii) thực hiện đầu tư
thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và (iii) thực hiện đầu tư thông qua các định
chế tài chính trung gian khác.
4. Quy trình, thủ tục đầu tư
Nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài muốn triển khai các hoạt
động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư phải thực hiện đầy đủ các quy trình, thủ
tục đầu tư theo luật pháp của quốc gia này. Tùy vào pháp luật từng quốc gia,
10


nhà đầu tư phải trải qua tuần tự nhiều công đoạn để đưa dự án đầu tư đi vào
hoạt động chính thức. Ở góc độ khái quát, các trình tự, thủ tục sau đây cần
được thực hiện:
4.1. Chọn địa điểm
Điều quan trọng đầu tiên cho nhà đầu tư khi tiến hành triển khai dự án là
phải có địa điểm đầu tư. Để có địa điểm đầu tư phù hợp, nhà đầu tư phải tiến
hành khảo sát địa điểm theo các tiêu chí đánh giá của mình. Việc chọn địa
điểm được thực hiện thông qua trao đổi hoặc giao kết hợp đồng với người sở
hữu địa điểm. Trong nhiều trường hợp, cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp
nhận đầu tư sẽ giới thiệu địa điểm và làm thủ tục cho phép nhà đầu tư thuê địa
điểm hoặc giao đất, giao địa điểm để nhà đầu tư thực hiện dự án trên cơ sở thu
tiền thuê địa điểm hoặc tiền sử dụng đất. Ở các dự án khác, nhà đầu tư chỉ cần
thuê địa điểm làm trụ sở để thực hiện việc quản lý điều hành các hoạt động đầu
tư kinh doanh của mình.
4.2. Xin cấp phép

Sau khi đã lựa chọn được địa điểm đầu tư phù hợp, nhà đầu tư phải trải
qua một thủ tục bắt buộc là xin cấp giấy phép cho dự án đầu tư của mình. Thủ
tục cấp phép được áp dụng cho hầu hết các dự án đầu tư, trừ một số trường hơp
theo luật định nhà đầu tư được miễn xin giấy phép. Để xin cấp phép, nhà đầu
tư phải tiến hành lập dự án đầu tư, tức là chi tiết hóa các thông số của dự án và
tính toán mọi khả năng lỗ, lãi, khả năng thu hồi vốn cũng như tính khả thi của
dự án. Thông thường có hai vấn đề lớn nhất mà nhà đầu tư phải quan tâm ở
giai đoạn này, bao gồm:
a) Chứng minh năng lực tài chính
Để được cấp phép, nhà đầu tư phải chứng minh được năng lực tài chính của
mình, ít nhất là đủ để thực hiện dự án. Chứng minh năng lực tài chính được
thực hiện thông qua việc nhà đầu tư nộp các báo cáo tài chính (thông thường là
trong hai năm gần nhất) với thời điểm đầu tư. Báo cáo tài chính phải cho kết
11


quả kinh doanh tốt với lượng vốn sẵn có để thực hiện hoạt động đầu tư. Nhà
đầu tư cũng có thể chứng minh năng lực tài chính của mình bằng việc cung cấp
các văn bản xác nhận số dư tiền gửi ngân hàng hay văn bản cấp vốn của một
ngân hàng hay một định chế tài chính cam kết hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự
án.
b)Chứng minh năng lực quản trị
Ngoài việc phải chứng minh năng lực tài chính, nhà đầu tư cũng thường
phải chứng minh năng lực quản trị phù hợp để được cấp phép. Năng lực quản
trị thể hiện qua các kinh nghiệm thực hiện các dự án tương tự hay khả năng
quản trị kinh doanh, nguồn nhân lực dự kiến để thực hiện dự án. Đôi khi nhà
đầu tư cũng phải chứng minh năng lực chuyên môn, bằng cấp và kinh nghiệm
của người quản lý dự án để đảm bảo dự án chắc chắn sẽ được thực hiện một
cách phù hợp.
4.3. Các thủ tục khác

Sau khi được cấp phép đầu tư dự án, tùy thuộc vào từng trường hợp, nhà
đầu tư còn phải thực hiện một số quy trình, thủ tục đầu tư bổ sung để hoàn
thiện cơ sở pháp lý cho dự án. Có một số thủ tục phải được thực hiện sau khi
cấp phép nhưng nhìn chung hai quy trình quan trọng phổ biến là (i) Xin cấp
phép về môi trường và (ii) Xin cấp phép về xây dựng.
a) Xin cấp phép về môi trường
Với các dự án có ảnh hưởng đến môi trường, pháp luật nước tiếp nhận
đầu tư thường yêu cầu nhà đầu tư giải trình về việc xử lý chất thải, đảm bảo vệ
sinh môi trường nơi thực hiện dự án đầu tư, đảm bảo môi trường xung quanh
dự án được an toàn, không phá vỡ cảnh quan và không gây hại đến môi trường
xung quanh. Nhà đầu tư có thể phải trải qua một thủ tục bắt buộc là lập và giải
trình báo cáo đánh giá tác động môi trường để được các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường chấp thuận.
b)Xin cấp phép về xây dựng
12


Trong nhiều dự án đầu tư, việc xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà máy, nhà
xưởng sản xuất, khu văn phòng và các tiện ích khác là bắt buộc. Nhà đầu tư
phải thực hiện thủ tục xin phép các cơ quan quản lý có thẩm quyền phê duyệt
kế hoạch xây dựng và xin cấp giấy phép xây dựng. Việc xây dựng phải phù
hợp với quy hoạch của địa phương đã được phê duyệt.
c)Thủ tục quyền sử dụng đất
Nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài muốn có địa điểm rộng,
đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình có thể làm việc với cơ
quan quản lý nhà nước ở địa phương để làm các thủ tục liên quan đến quyền sử
dụng đất. Cụ thể, nhà đầu tư có thể giải trình về nhu cầu sử dụng đất cho dự án
và thực hiện đăng ký giới thiệu địa điểm. Căn cứ vào yêu cầu của nhà đầu tư,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ giới thiệu địa điểm phù hợp với nguyện
vọng của nhà đầu tư. Sau khi được giới thiệu địa điểm, nhà đầu tư sẽ thực hiện

các thủ tục pháp lý để thuê đất hoặc được giao đất từ phía cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Hợp đồng thuê đất hoặc quyết định giao đất sẽ là cơ sở để nhà đầu
tư thực hiện tiếp thủ tục pháp lý là xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

13


Bảng mô phỏng quy trình, thủ tục đầu tư dự án thông thường
5. Các loại hình doanh nghiệp
Ngoại trừ các hình thức đầu tư thông qua hợp đồng, các hình thức đầu tư
phát triển kinh doanh, góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp khác hay
đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán, hình thức đầu tư trực tiếp sử dụng
14


công cụ đầu tư là một tổ chức kinh tế đặt ra yêu cầu cho nhà đầu tư là phải lựa
chọn một loại hình doanh nghiệp phù hợp. Tùy vào tính chất sở hữu vốn, quy
mô dự án mà nhà đầu tư có các lựa chọn mô hình doanh nghiệp khác nhau. Hai
loại hình doanh nghiệp được nhà đầu tư lựa chọn nhiều nhất tại Việt Nam hiện
nay là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Mặc dù vậy các loại
hình doanh nghiệp khác cũng thể hiện được đặc tính riêng của mình, và phù
hợp với từng đối tượng nhà đầu tư.
5.1. Công ty trách nhiệm hữu hạn
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, công ty trách nhiệm
hữu hạn (“công ty TNHH”) là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở Việt
Nam hiện nay. Mặc dù Luật đầu tư không đề cập đến loại hình doanh nghiệp vì
vấn đề này được đề cấp trong Luật doanh nghiệp nhưng để thực hiện hoạt động
đầu tư, nhà đầu tư phải cân nhắc lựa chọn pháp nhân kinh doanh phù hợp với
dự án của mình. Pháp luật Việt Nam quy định có hai loại hình công ty TNHH
là công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên.

Công ty TNHH có các đặc điểm như sau:
(i) Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực thể pháp lý
riêng biệt. Trước pháp luật, công ty là pháp nhân, chủ sở hữu công ty là thể
nhân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với quyền sở hữu công ty;
(ii) Công ty chịu TNHH, tức là các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn cam
kết góp vào công ty;
(iii) Công ty TNHH không được quyền phát hành cổ phần để huy động
vốn;
(iv) Với bản chất là công ty dạng “đóng”, việc chuyển nhượng vốn góp
của thành viên công ty TNHH bị hạn chế, các thành viên công ty TNHH khi

15


muốn chuyển nhượng vốn góp trước hết phải ưu tiên chuyển nhượng cho các
thành viên khác của công ty;
và (v) Trên bảng hiệu hóa đơn chứng từ và các giấy tờ giao dịch khác
của công ty phải ghi rõ tên công ty kèm theo.
a) Công ty TNHH hai thành viên trở lên
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong đó: (i)
Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá 50;
(ii) Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp; và (iii) Phần vốn góp của thành
viên chỉ được chuyển nhượng theo trình tự, thủ tục nhất định.
Công ty TNHH hai thành viên trở lên có cơ cấu tổ chức khá hoàn chỉnh,
cơ chế ra quyết định khá chặt chẽ và thường được nhóm các nhà đầu tư
(thường là từ hai trở lên) lựa chọn. Công ty TNHH hai thành viên trở lên cho
phép các chủ đầu tư đều là đồng chủ sở hữu công ty.

b) Công ty TNHH một thành viên
Về mặt khái niệm và đặc điểm, công ty TNHH một thành viên là doanh
nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty TNHH một thành viên cũng có tư
cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
không được quyền phát hành cổ phần.
Về cơ bản, quy định về công ty TNHH một thành viên trong Luật Doanh
nghiệp 2014 cũng như các luật cũ trước đây đều giản lược hơn nhiều so với
quy định về công ty TNHH hai thành viên trở lên do tính chất sở hữu và cơ cấu
tổ chức gọn nhẹ của loại hình doanh nghiệp này. Công ty TNHH một thành
viên rất phù hợp với nhà đầu tư nước ngoài muốn sở hữu 100% công ty con tại
Việt Nam và nắm quyền chủ sở hữu duy nhất đối với công ty và dự án mà họ
thực hiện tại Việt Nam.
16


5.2. Công ty cổ phần
Không giống với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần
(“CTCP”) là loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn, vốn sở hữu cao, có cơ cấu
quản lý và vận hành khá phức tạp. Xét về bản chất, CTCP là doanh nghiệp,
trong đó: (i) vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
(ii) cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa; (iii) cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp; (iv) cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
cho người khác, ngoại trừ một số trường hợp hạn chế nhất định; CTCP có tư
cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
(v) CTCP có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn.
5.3. Công ty hợp danh

Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp không mấy phổ biến tại Việt
Nam. Về mặt khái niệm và đặc điểm, công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong
đó: (i) phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng
nhau kinh doanh dưới một tên chung (thành viên hợp danh). Ngoài các thành
viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn; (ii) thành viên hợp
danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty; (iii) thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp
danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Với những đặc thù kể trên, công ty hợp danh thường được thành lập bởi
nhóm cá nhân, hay những nhà đầu tư có liên hệ chặt chẽ và rất gần gũi, tin
tưởng lẫn nhau. Các công ty lựa chọn mô hình hợp danh, không chỉ ở Việt
Nam mà trên thế giới, chủ yếu là các công ty luật. Thực chất thì đây là loại
hình doanh nghiệp hỗn hợp vừa chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên hợp danh)
vừa chịu trách nhiệm hữu hạn (với các thành viên góp vốn).
17


5.4. Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là một hình thức “công ty không đầy đủ”. Sở dĩ
nói không đầy đủ là vì dù hoạt động như một công ty nhưng doanh nghiệp tư
nhân không có tư cách pháp lý, không có sự tách bạch về tài sản của chủ doanh
nghiệp với tài sản của chính doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp tư nhân thường có
mô hình kinh doanh nhỏ lẻ, được phát triển từ các hộ kinh doanh. Theo quy
định tại Luật Doanh nghiệp 2014, Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do
một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành
bất kỳ loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh
nghiệp tư nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ

kinh doanh, thành viên công ty hợp danh. Doanh nghiệp tư nhân không được
quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp
danh, công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Mô hình doanh nghiệp tư nhân chỉ
phù hợp với những hộ gia đình hay những cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ, những
nhà đầu tư trong nước.
5.5. Hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp
nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của Luật Hợp tác xã. Đây là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có tư
cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong
phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo
quy định của pháp luật.
Đại hội xã viên có quyền quyết định cao nhất của hợp tác xã. Ban quản
trị hợp tác xã là bộ máy quản lý hợp tác xã do đại hội xã viên bầu trực tiếp,
gồm Trưởng ban quản trị và các thành viên khác. Số lượng thành viên Ban
quản trị do Điều lệ hợp tác xã quy định. Ban kiểm soát là bộ máy giám sát và
kiểm tra mọi hoạt động của hợp tác xã theo đúng pháp luật và Điều lệ hợp tác
xã, do Đại hội xã viên bầu trực tiếp. Cũng giống như mô hình doanh nghiệp tư
18


nhân, hợp tác xã phù hợp với mô hình đầu tư và nguồn vốn kinh doanh vừa và
nhỏ, là loại hình doanh nghiệp chủ yếu được các nhà đầu tư nhỏ lẻ trong nước
lựa chọn.
II. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM
Thực tế, khái niệm về đầu tư và khung pháp luật về hoạt động đầu tư của
Việt Nam mới chỉ xuất hiện sau thời điểm đất nước thống nhất năm 1975, đặc
biệt là trong giai đoạn phải đặt ra yêu cầu xây dựng nền kinh tế thời bình sau
chiến tranh. Đến năm 1986, khi Việt Nam thực hiện quá trình đổi mới, mở cửa

nền kinh tế và nhất là đến đầu những năm 1990 khi đất nước đã khôi phục về
cơ bản tầng lớp tư thương, thì yêu cầu xây dựng hành lang pháp lý về đầu tư,
kinh doanh mới được chú trọng triệt để. Tuy nhiên quá trình xây dựng khung
pháp lý về đầu tư kinh doanh là một quá trình kéo dài tới nay đã gần 30 năm,
với nhiều đợt chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện.
1. Khái niệm pháp luật đầu tư
Pháp luật đầu tư là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động đầu tư kinh
doanh trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng liên quan
đến các khoản vốn bắt nguồn từ Việt Nam. Trong hệ thống pháp luật về kinh
doanh thương mại, pháp luật đầu tư có vị trí rất quan trọng, là công cụ pháp lý
hữu hiệu, thúc đẩy các hoạt động đầu tư cả trong và ngoài nước, nhằm thu hút
các nguồn vốn, tạo công ăn việc làm, góp phần phát triển nền kinh tế - xã hội.
Pháp luật đầu tư có vị trí quan trọng trong hệ thống các quy định pháp
luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh, thương mại nói chung và hoạt động đầu
tư nói riêng. Từ Luật đầu tư, có thể mở rộng khái niệm theo chiều dọc và theo
chiều ngang. Theo chiều dọc, pháp luật về đầu tư bao gồm các điều khoản
trong hiến pháp quy định về các hoạt động đầu tư, Luật đầu tư do Quốc hội

19


thông qua và các văn bản dưới luật do Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và
chính quyền địa phương ban hành để cụ thể hóa các quy định của Luật đầu tư. 1
Theo chiều ngang, pháp luật về đầu tư bao gồm các văn bản pháp luật về
các lĩnh vực đối nội và đối ngoại khác áp dụng cho cả nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài, trong đó có các quy định về những vấn đề liên quan đến hoạt động
đầu tư như đất đai (Luật đất đai), thuế (các loại Luật thuế), ngoại hối (các quy
định pháp luật về ngoại hối), hoặc các lĩnh vực kinh tế xã hội liên quan đến
hoạt động đầu tư như ngân hàng (Luật các tổ chức tín dụng), giáo dục (Luật

giáo dục) .v..v...
Theo quá trình xây dựng và phát triển, trải qua nhiều thời kỳ trong lịch
sử, có nhiều Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước
được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế nhau. Toàn bộ các văn bản
đó cũng nằm trong khái niệm pháp luật về đầu tư cần được nghiên cứu. Tuy
nhiên, ở góc độ khái quát nhất, luật đầu tư là tổng hợp các quy phạm pháp luật
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện và quản lý hoạt động đầu tư kinh
doanh.
2. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật đầu tư tại Việt nam
Cần phải nhìn nhận thực tế là nền kinh tế Việt Nam trước năm 1975 là
nền kinh tế khép kín, mang tính chất “tự cung tự cấp” với sự viện trợ rất lớn từ
các nước xã hội chủ nghĩa. Với tình trạng chiến tranh thường trực, các hoạt
động kinh doanh, thương mại và đặc biệt là “đầu tư” hầu như không diễn ra
trong giai đoạn này, vì vậy chuyên đề này chủ yếu tập trung vào quá trình xây
dựng pháp luật đầu tư của Việt Nam chỉ cho giai đoạn từ 1975 cho đến nay.
a) Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977
Sau năm 1975 Việt Nam chuyển sang giai đoạn củng cố và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp thực sự cản trở hoạt
1 “Pháp luật về đầu tư”, Khoa Kinh tế - Luật, Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh

20


động đầu tư, kinh doanh, thương mại của cả nước, kéo theo tình trạng yếu kém,
trì trệ trong suốt một thời gian dài.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng cộng sản lần thứ IV năm 1976 khẳng
định “việc đẩy mạnh quan hệ phân chia và hợp tác song phương trong lĩnh vực
kinh tế và phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nước khác có một vai trò
vô cùng quan trọng”. Ngày 18/04/1977, Chính phủ đã ban hành Nghị định

115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, một tín hiệu cho quá
trình giao thương và làm bạn với các nước trên thế giới, đồng thời mở ra thời
kì đổi mới của Việt Nam sau chiến tranh.
Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 mặc dù đặt nền móng sơ khai cho
hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhưng ở thời điểm ra đời
còn khá sơ lược, chỉ tập trung quy định về một số vấn đề cơ bản nhất cho hoạt
động đầu tư nước ngoài bao gồm: quy trình góp vốn đầu tư, hình thức và lĩnh
vực đầu tư, các loại thuế và thời hạn đầu tư. Theo quy định của điều lệ, bên
nước ngoài được phép đầu tư tại Việt Nam có thể là “xí nghiệp, công ty, tổ
chức tư nhân, tổ chức nhà nước, tổ chức quốc tế hoặc từng cá nhân, nếu đáp
ứng đủ các điều kiện về đầu tư”. Điều lệ cũng quy định ba hình thức đầu tư chủ
yếu bao gồm: (i) Hợp tác sản xuất chia sản phẩm, (ii) Xí nghiệp hoặc công ty
hỗn hợp, (iii) xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu.
Có thể nói, Điều lệ đầu tư nước ngoài 1977 đã tạo cơ sở cho việc xây
dựng một hành lang pháp lý đầy đủ và đặt nền móng cho các hoạt động đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, nhược điểm của Điều lệ này là quy định
còn khá khái quát, thiếu các quy định cụ thể mang tính hướng dẫn thi hành, văn
bản luật được xây dựng chưa lô-gic, chưa thật chính xác, thời hạn đầu tư quá
ngắn trong khi thuế lợi tức lại quá cao. Điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu là
thu hút đầu tư của Việt Nam trong những năm đầu sau mở cửa còn nhiều hạn
chế, nhà đầu tư còn do dự khi ra quyết định đầu tư...
b) Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987
21


Ngày 31/12/1987 Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam với 6 Chương và 42 Điều, quy định về nguyên tắc, hình thức và các biện
pháp bảo đảm đầu tư, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân đầu tư nước
ngoài và cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
Về cơ bản, Luật đầu tư nước ngoài 1987 là sự cụ thể hóa của Điều lệ đầu

tư nước ngoài năm 1977, đặc biệt bổ sung thêm các lĩnh vực đầu tư để nhà đầu
tư lựa chọn. Ngoài ra, Luật đầu tư nước ngoài 1987 cũng quy định kỹ hơn về
“đối tác đầu tư nước ngoài” và hoàn thiện ba mô hình đầu tư chủ đạo bao gồm:
(i) Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh, (ii) Xí nghiệp
hoặc công ty liên doanh (đều gọi chung là xí nghiệp liên doanh), và (iii) Xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Có thể nói, Luật đầu tư nước ngoài 1987 đã mở đường cho hoạt động
thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nội dung pháp lý luật cũng có nhiều
tiến bộ, lô-gic, cụ thể hơn nhiều so với Điều lệ đầu tư 1977, cơ chế bảo đảm
hoạt động đầu tư được cam kết và khẳng định, các mô hình đầu tư được cải
thiện, lĩnh vực đầu tư được mở rộng, thuế lợi tức được giảm... Tuy nhiên, ở
góc độ hạn chế, có thể thấy rằng Luật đầu tư nước ngoài 1987 còn giới hạn đối
tượng hợp tác kinh doanh, chưa đề ra cơ chế quản lý các loại hình đầu tư, chưa
đề cập đến các vấn đề bảo vệ môi trường, tuyển dụng lao động...
c) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1990
Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa 8 ngày 30/6/1990 Quốc hội đã thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1987. Luật sửa đổi, bổ sung năm 1990 chỉ tập trung vào ba vấn đề
trọng yếu là (i) Cho phép các tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân
được hợp tác đầu tư nước ngoài, (ii) Bổ sung hình thức liên doanh nhiều bên và
(iii) Cho phép trả lương và các khoản phụ cấp của người lao động Việt Nam
bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài.
22


d)Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1992
Bước vào đầu những năm 1990, Việt Nam dần thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng trì trệ ban đầu do cơ chế quản lý tập trung, “quan liêu bao cấp”,

nền kinh tế đã bắt đầu có bước hồi phục sau thời kỳ suy thoái “trầm trọng” từ
sau thời điểm đất nước thống nhất. Trước nhu cầu đổi mới từng bước nền kinh
tế, nhà nước cũng chủ động đổi mới hệ thống pháp luật, chú trọng trước mắt
vào cơ chế quản lý hoạt động đầu tư, kinh doanh để đảm bảo thị trường phát
triển ổn định, tạo nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
Trong bối cảnh đó, ngày 23/12/1992 Quốc hội đã thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với năm vấn
đề chính bao gồm: (i) Doanh nghiệp tư nhân được hợp tác trực tiếp với nước
ngoài, (ii) Bên Việt Nam có thể góp vốn bằng tiền nước ngoài có thể tăng dần
tỉ trọng góp vốn theo thỏa thuận, (iii) Bổ sung quy định về hình thức đầu tư
mới là xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), (iv) Nhà nước đảm bảo
quyền lợi nhà đầu tư khi có thay đổi về pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của nhà đầu tư và (v) Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi về thuế
cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
e)Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996
Năm 1996 Việt Nam bước vào giai đoạn đẩy mạnh “công nghiệp hóa”,
“hiện đại hóa” đất nước đồng thời hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Cũng trong giai đoạn này, với số dân trẻ chiếm tỉ lệ cao, đặc biệt mới mở
cửa thị trường cho giao thương khu vực và thế giới, Việt Nam thực sự là một
điểm đến lý tưởng cho đầu tư nước ngoài.
Tuy vậy, hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, thương mại của Việt
Nam còn nhiều lạc hậu, bất cập, cần thiết phải được khắc phục để đảm bảo một
môi trường lành mạnh, thu hút nhân lực, vật lực từ các hoạt động đầu tư, đặc
biệt từ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với bối cảnh đó, Quốc hội khóa 9 kỳ họp
thứ 10 đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài 1996 ngày 12/11/1996 để thay thế
23


Luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam ngày 29/12/1987, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 30/6/1990, Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày
23/12/1992.
Đây có thể coi là một bước tiến quan trọng trong quá trình kiện toàn hệ
thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 1996 đã cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh tại
Việt Nam, là động lực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và là công cụ
hữu hiệu của nhà nước giúp hạn chế các sơ hở, khiếm khuyết trong quản lý các
hoạt động đầu tư, kinh doanh, tiến tới hoàn chỉnh hành lang pháp lý về đầu tư
tại Việt Nam.
Tuy nhiên, hạn chế của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996
là chưa đa dạng hóa các hình thức đầu tư; cơ chế chuyển đổi hình thức đầu tư,
các chế tài xử lý tranh chấp, phá sản, thanh lý và giải thể doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài còn chưa rõ ràng; việc tổ chức điều hành doanh nghiệp liên
doanh còn nhiều bất hợp lý; các thủ tục hành chính còn nặng cơ chế “xincho”...Chính vì vậy, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 vẫn cần
phải cải thiện hơn nữa để hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động đầu tư kinh
doanh.
f) Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994 (sửa đổi,
bổ sung năm 1998)
Bên cạnh việc chú trọng xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động đầu
tư nước ngoài, Việt Nam cũng từng bước xây dựng khung pháp lý cho hoạt
động đầu tư trong nước với quan điểm thu hút và phát triển nội lực, tạo ra lợi
thế cạnh tranh để khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước phát triển. Với
việc ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 (sửa đổi, bổ
sung năm 1990, 1992), nhu cầu phải có một bộ luật quy định về đầu tư trong
nước để tránh tình trạng bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư là khá cấp thiết.
Ngày 22/06/1994 Luật khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc hội thông
24


qua, bao gồm 7 Chương, 24 Điều, điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nước

và áp dụng với nhà đầu tư Việt Nam.
Đây là một văn bản luật riêng rẽ trong hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh
doanh, thương mại của Việt Nam, tập trung điều chỉnh các hoạt động đầu tư
trong nước, với đối tượng chịu sự điều chỉnh chỉ là các tổ chức, cá nhân Việt
Nam. Hình thức đầu tư theo luật này bao gồm: (i) Đầu tư thành lập cơ sở sản
xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, (ii) Đầu tư mở rộng quy mô,
nâng cao năng lực sản xuất, nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ của
các cơ sở sản xuất, kinh doanh hiện có; (iii) Mua cổ phần của các doanh
nghiệp, góp vốn vào các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước được
phép đa dạng hóa hình thức sở hữu.
Về cơ bản, Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 gần như là
một “bản sao” của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhưng được ban hành
để áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư trong nước. Tuy nhiên, điểm
khác biệt cơ bản là Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 cung cấp
một cơ chế ưu đãi đầu tư rất chi tiết cho các dự án được nhà đầu tư Việt Nam
thực hiện.
Ngoài các lĩnh vực đầu tư được ưu đãi như chế biến nông sản, lâm sản,
thuỷ sản; các dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu... thì luật còn hướng đến việc
khuyến khích đầu tư ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng
khó khăn khác và khuyến khích đầu tư thành lập cơ sở sản xuất sử dụng công
nghệ hiện đại, cơ sở sản xuất sử dụng nhiều lao động.
g) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 2000
Nhằm tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam, thu hút nguồn ngoại tệ để phát triển kinh tế xã hội trong tình hình
mới, ngày 09/06/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật đầu tư nước ngoài năm 2000. Với lần sửa đổi này, Luật đầu tư
25



×