Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Đánh giá thực trạng công tác Quản Lý Nhà Nước về đất đai trên địa bàn TP.Hà Giang – Tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.3 KB, 90 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để bài đồ án đạt kết quả tốt, trước hết em xin gửi lời chúc sức khỏe tới
toàn thể thầy cô giáo trong khoa Quản lý đất đai lời chúc sức khỏe và lời cảm ơn
sâu sắc nhất. Với sự quan tâm dạy dỗ sự chỉ bảo tận tình của thầy cô giáo, nay
em đã có thể hoàn thành đồ án tốt nghiệp, đề tài: “ Đánh giá thực trạng công
tác Quản Lý Nhà Nước về đất đai trên địa bàn TP.Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang”. Để có được kết quả này em xin đặc biệt cảm ơn chân thành nhất tới Ths.
Nguyễn Lê Vinh đã quan tâm giúp đỡ, tận tình hướng dẫn em hoàn thành đồ án
trong thời gian qua.
Em xin chân thành cảm ơn các cô, các chú cán bộ viên chức của phòng tài
nguyên Thành Phố Hà Giang đã tạo điều kiện cho em được làm việc, học hỏi
thêm kiến thức và hoàn thành đồ án tốt nghiệp.
Với điều kiện thời gian có hạn bản thân em đã cố gắng học hỏi, nhưng
kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên thực tập, nên đồ án sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các
thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn để em có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức,
kiến thức của mình. Em mong nhận được sự giúp đỡ của thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2015

Sinh viên

Trần Thị Mai


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt


QLNN
UBND
MTTQ
BTNMT
GCN
TT
TCĐC

CP
CT
QH
CN - TCN

Giải thích
Quản lý nhà nước
Ủy ban nhân dân
Mặt trận tổ quốc
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Giấy chứng nhận
Thông tư
Tổng cục địa chính
Nghị định
Chính phủ
Chỉ thị
Quốc hội
Công nghiệp – Tiểu công nghiệp


DANH MỤC BẢNG
STT


Ký hiệu
bảng

1

Bảng 3.1

2

Bảng 3.2

3

Bảng 3.3

4

Bảng 3.4

5

Bảng 3.5

6

Bảng 3.6

7


Bảng 3.7

7

Bảng 3.8

9

Bảng 3.9

10

Bảng 3.10

11

Bảng 3.11

12

Bảng 3.12

13

Bảng 3.13

14

Bảng 3.14


15

Bảng 3.15

16

Bảng 3.16

17

Bảng 3.17

18

Bảng 3.18

Tên bảng
Hiện trạng sử dụng đất Thành phố Hà giang – Tỉnh Hà
Giang năm 2014
Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp Tp. Hà giang –
Tỉnh Hà Giang năm 2014
Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp Tp. Hà giang –
Tỉnh Hà Giang năm 2014
Biến động diện tích đất đai theo mục đích sử dụng
Kết quả cấp GCN của Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà Giang
giai đoạn 2009 – 2014 đối với hộ gia đình, cá nhân
Kết quả cấp GCN đất sản xuất nông nghiệp Tp.Hà Giang
– Tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 – 2014
Kết quả cấp GCN đất lâm nghiệp – Tp. Hà Giang – Tỉnh
Hà Giang giai đoạn 2009 – 2014 đối với HGĐ, CN

Kết quả đăng ký, cấp GCN đất nông nghiệp Tp. Hà
Giang – Tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 – 2014
Kết quả cấp GCN đối với đất ở Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang giai đoạn 2009 – 2014 đối với HGĐ, CN
Thống kê những trường hợp chưa được cấp giấy chứng
nhận đất ở của Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà Giang giai đoạn
2009 – 2014
Kết quả thống kê đất đai của Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang năm 2009
Kết quả thống kê đất đai của Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang năm 2011
Kết quả thống kê đất đai của Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang năm 2012
Kết quả thống kê đất đai của Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang năm 2013
Kết quả thống kê đất đai của Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang năm 2014
Kết quả kiểm kê đất đai của Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang năm 2010
Kết quả biến động đất đai giai đoạn 2009 - 2014 của
Tp.Hà Giang – Tỉnh Hà Giang
Kết quả thanh tra đất đai của Tp. Hà Giang giai đoạn
2009 -2014

Trang


DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Cơ cấu kinh tế của Thành phố Hà Giang – Tỉnh Hà Giang năm 2014
Hình 3.2. Cơ cấu các loại đất của Thành phố Hà Giang – Tỉnh Hà Giang năm

2014.
Hình 3.3. Kết quả cấp GCN Thành phố Hà Giang – Tỉnh Hà Giang giai đoạn
2009 – 2014.
Hình 3.4. Kết quả cấp GCN đất nông nghiệp Thành phố Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang giai đoạn 2009 - 2014


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá và nằm trong nhóm tài nguyên hạn
chế của mỗi quốc gia. Nó là điều kiện không thể thiếu trong mọi quá trình phát
triển. Vì đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là cơ sở không gian của mọi quá
trình sản xuất, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bố
khu dân cư, xây dựng các công trình văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng.
Đất đai là điều kiện cần thiết để tồn tại và tái sản xuất và các thế hệ tiếp
theo của loài người. Do đó, đất đai phải dụng một cách hợp lý, triệt để và có hiệu
quả kinh tế cao nhất. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay áp lực đối với đất đai
càng lớn. Trong những năm gần đây thì cùng với sự gia tăng dân số, quá trình đô
thị hóa và công nghiêp hóa tăng nhanh đã làm cho nhu cầu sử dụng đất ngày một
tăng cao trong khi đó tài nguyên đất đai thì có hạn chính vì thế mà đã gây sức ép
rất lớn lên quỹ đất hiện có. Liên tục trong nhiều năm qua, câu chuyện đất đai
luôn là thời sự nóng với người dân cũng như với các nhà hoạch định chính sách.
Các hiện tượng tranh chấp đất đai xảy ra nhiều, vấn đề giao đất, cho thuê đất, lấn
chiếm đất đai, sử dụng đất đai sai mục đích, trái thẩm quyền diễn ra phổ biến;
việc sử dụng đất lãng phí, thiếu tính khoa học và thiếu đồng bộ xảy ra ở hầu hết
các địa phương. Do đó cần có những biện pháp giải quyết hợp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của các đối tượng trong quan hệ đất đai nên công tác
Quản lý Nhà nước về đất đai là hết sức quan trọng.
Được sự đồng ý của khoa Quản Lý Đất Đai, dưới sự hướng dẫn của Ths.
Nguyễn Lê Vinh, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá thực trạng công

tác Quản Lý Nhà Nước về đất đai trên địa bàn TP.Hà Giang – Tỉnh Hà
Giang”.
5


2. Mục đích, yêu cầu
2.1. Mục đích
- Tìm hiểu cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý về công tác QLNN về đất đai
theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Tìm hiểu thu thập số liệu về công tác QLNN về đất đai, cụ thể 3 nội
dung: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá nhân; thống kê kiểm kê đất đai;
thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý
vi phạm pháp luật về đất đai.
- Từ kết quả nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu
quả công tác quản lý đất đai trên địa bàn Thành phố.
2.2. Yêu cầu
- Số liệu đưa ra phải phản ánh trung thực, khách quan thực trạng quản lý
và sử dụng đất đai của thành phố.
- Phân tích số liệu thu thập được một cách khách quan, khoa học.
- Đề xuất giải pháp cụ thể phải có tính khả thi phù hợp nhằm giải quyết
khó khăn, vướng mắc, tồn tại trong công tác QLNN về đất đai.

6


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Khái niệm và vai trò của đất đai
a) Khái niệm về đất đai

Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa như sau: Đất đai
là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất bao gồm tất cả các cấu thành của môi
trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó bao gồm: Khí hậu bề mặt, thổ
nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (sông suối hồ, đầm lầy) các lớp trầm tích sát bề
mặt cùng với các mạch nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực
vật và động vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả của con người
trong quá khứ và hiện tại để lại.
Như vậy đất đai là một khoảng không gian giới hạn theo chiều thẳng đứng
và theo chiều nằm ngang có vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt
động sản xuất cũng như trong cuộc sống của xã hội loài người.
b) Vai trò đất đai
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện
tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật trên trái đất.
Đất đai là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc, các công trình
công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, các công trình phúc lợi khác, các cánh đồng để
con người trồng trọt chăn nuôi…
Đất đai đóng vai trò quan trọng và quyết định cho sự tồn tại, phát triển của
loài người. Nếu không có đất đai thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất
nào, cũng như không thể có sự tồn tại của loài người.
Luật đất đai năm 1993 của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
ghi: “ Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt,
7


là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các
khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…”
1.1.2. Quan niệm cơ bản của Đảng và Nhà nước về đất đai
a) Từ khi thành lập Đảng đến năm 1945
Những năm thập niên 20, đất nước ta bị kẻ thù thực dân Pháp xâm lược và
bè lũ bọn vua quan thối nát, đất nước ta chìm trong màn đêm nô lệ, đời sống của

nhân dân ta vô cùng cơ cực. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 Đảng ta ra đời, mặc dù
hoạt động trong điều kiện vô cùng sáng suốt trong đó có chủ trương và chính
sách về ruộng đất hết sức kịp thời. Đảng ta đã nêu lên khẩu hiệu“ Tịch thu ruộng
đất của bọn địa chủ ngoại quốc, bổn sứ và các giáo hội, giao ruộng đất cho
trung và bần nông”. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, cách mạng ruộng đất
được đặt thành một trong những nhiệm vụ quan trọng gắn liền với công cuộc giải
phóng dân tộc.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành được thắng lợi, chúng ta có thể nói
là chủ trương đường lối ruộng đất đúng đắn của Đảng đã trở thành vũ khí, sức
mạnh sắc bén góp phần đắc lực đưa cách mạng đi đến thành công.
b) Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1993
Đất đai là một trong hai mục tiêu quan trọng nhất của cuộc Cách mạng
Dân tộc Dân chủ Nhân dân do Đảng ta lãnh đạo: “đánh đuổi thực dân để giải
phóng đất nước và đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến đem lại ruộng đất cho
dân cày”. Ngày 03/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh: “Toàn dân
tăng gia sản xuất nông nghiệp” và “khẩn cấp chấn hưng nông nghiệp” để chống
đói, giải quyết tình hình trước mắt cho nhân dân, hàng loạt Thông tư, Nghị định
của Bộ Quốc dân Kinh tế và Sắc lệnh của Chủ tịch Nước đã ban hành nhằm tăng

8


cường hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Nhân dân ta đã sử dụng đất thuộc các
đồn điền vắng chủ, khai khẩn đất hoang để tăng gia sản xuất cứu đói.
Ngày 18/6/1949, thành lập Nha Địa chính trong bộ Tài chính và tập trung
làm thuế nông nghiệp phục vụ cho kháng chiến.
Ngày 14/12/1953 Quốc hội đã thông qua “Luật cải cách ruộng đất” thực
hiện triệt để khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Theo Hiến pháp 1946, quyền sở
hữu đất đai được đảm bảo, ruộng đất chia đều cho dân cày, người cày được canh
tác trên thửa đất của mình. Trong giai đoạn 1955–1959, cơ quan quản lý đất đai

ở Trung ương được thành lập ( ngày 3 tháng 7 năm 1958 ) thuộc Bộ Tài chính
với chức năng chủ yếu là quản lý diện tích ruộng đất để thu thuế nông nghiệp.
Ngày 05/5/1958 có Chỉ thị 334/TTg của Thủ tướng chính phủ cho tái lập hệ
thống địa chính trong Bộ Tài chính và UBND các cấp để làm nhiệm vụ đo đạc
lập bản đồ giải thửa và hồ sơ địa chính.
Vào năm 1979 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định thành lập Tổng
cục Quản lý Ruộng đất thuộc Chính phủ và các cơ quan quản lý ruộng đất ở địa
phương trực thuộc Ủy ban nhân dân các cấp.
Giai đoạn 1980 – 1991 được mở đầu bằng Hiến Pháp 1980, trong đó đảm
bảo thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần kinh tế: Kinh
tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể.
Hiến pháp đã quy định toàn bộ đất đai và tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu
toàn dân được Nhà nước thống nhất quản lý bằng pháp luật và quy hoạch. Thủ
tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 về việc triển khai đo
đạc giải thửa nhằm nắm lại quỹ đất trên toàn quốc, đáp ứng nhu cầu quản lý và
sử dụng đất đai trong giai đoạn mới.

9


Đầu năm 1981, Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao
động trong hợp tác xã nông nghiệp. Tiếp theo, Đại hội Đảng khóaVI năm 1986
đã đưa vấn đề lương thực - thực phẩm trở thành một trong ba chương trình mục
tiêu đổi mới kinh tế. Năm 1987 Luật Đất đai lần đầu tiên của nước ta được ra
đời, có hiệu lực từ năm 1988. Dấu mốc tiếp theo có ý nghĩa quan trọng đối với
phát triển kinh tế nông nghiệp là Nghị Quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
5/4/1989, một văn kiện quyết định nhằm đổi mới chế độ sử dụng đất nông
nghiệp. Nghị Quyết đã khẳng định việc chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp
theo hướng sản xuất hàng hóa. Đây là những bước đi có tính then chốt nhằm

phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn trên cơ sở Nhà nước giao đất cho hộ
gia đình cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài.
Để triển khai Luật Đất đai 1987, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VII, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã phê chuẩn hai Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành một Nghị định, Thủ
tướng Chính phủ đã có một Chỉ thị. Tổng cục Quản lý Ruộng đất đã ban hành
một số Quyết định và Thông tư hướng dẫn.
Hiến pháp 1992 ra đời, trong đó quy định rõ chế độ sở hữu và quản lý đất
đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân ” (Điều 17), “ Nhà nước thống nhất quản lý
toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và
có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng
tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định
của pháp luật ” (Điều 18).

10


c) Thời kỳ từ 1993 đến nay
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai năm 1993 ( bao gồm cả
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001 ) là một trong những đạo luật quan
trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Những kết quả đạt
được trong việc thực hiện Luật Đất đai năm 1993 là tích cực, thúc đẩy phát triển
kinh tế, góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Tuy nhiên trước tình hình phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội, pháp
luật về đất đai đã bộc lộ những hạn chế như: Pháp luật đất đai chưa xác định nội
dung cốt lõi của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước thống nhất quản
lý, vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân của Nhà nước chưa xác định trong Luật
Pháp luật đất đai chưa theo kịp tiến trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, chưa có đủ các
chế định cần thiết về định giá đất, về điều tiết địa tô chênh lệch, về điều tiết lợi
nhuận qua việc chuyển nhựơng quyền sử dụng đất, về bồi thường khi thu hồi đất,
về đấu thầu, đấu giá quyền sử dụng đất v.v…
Để khắc phục những thiếu sót nêu trên, thực hiện Nghị quyết số:
12/2001/QH11 về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh cúa Quốc hội khóa XI
(2002 – 2007), tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Đất đai
2003 và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/07/2004. Luật đã khẳng định: “Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
Vai trò của QLNN về đất đai được nâng lên một bậc, việc phân cấp quyền hạn,
chức năng QLNN của từng cấp được xác định rõ ràng hơn. Đất đai được quản lý
chặt chẽ và sử dụng hợp lý hơn, mang lại hiệu quả kinh tế hơn.
Đất đai là tài nguyên đặc biệt, trước hết bởi đất đai có nguồn gốc tự nhiên,
11


là tặng vật tự nhiên dành cho con người, tiếp đến mới là thành quả do tác động
khai phá của con người. Cái tính chất vô cùng đặc biệt của đất đai là ở chỗ tính
chất tự nhiên và tính chất xã hội đan quyện vào nhau; nếu không có nguồn gốc tự
nhiên, thì con người dù có tài giỏi đến đâu cũng không tự mình (dù là sức cá
nhân hay tập thể) tạo ra đất đai được. Con người có thể làm ra nhà máy, lâu đài,
công thự và sản xuất, chế tạo ra muôn nghìn thứ hàng hoá, sản phẩm, nhưng
không ai có thể sáng tạo ra đất đai. Do đó, quyền sở hữu, định đoạt, sử dụng đất
đai, dù Nhà nước hay người dân cũng cần phải hiểu đặc điểm, hết sức đặc biệt
ấy.
Đất đai quý giá còn bởi con người không thể làm nó sinh sản, nở thêm,
ngoài diện tích tự nhiên vốn có của quả đất. Khi chúng ta nói đất đai là hàng hoá,
dù có thêm hai chữ đặc biệt vào đó, thì cũng không lột tả được hết tính chất đặc
biệt của đất đai cả về phương diện tự nhiên cũng như xã hội. Vì thế, sự ứng xử
với vấn đề đất đai trong hoạt động quản lý không thể được đơn giản hoá, cả

trong nhận thức cũng như trong hành động ( Trích trong bài viết “Quản lý đất
đai - những khía cạnh đặc thù”- của Đ/C Phạm Quang Nghị: Uỷ viên Bộ chính
trị, Bí thư Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam ).
1.1.3. Khái niệm QLNN về đất đai
Quản lý là sự tác động có định hướng lên một hệ thống bất kỳ, nhằm trật
tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy định nhất định.
Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi của nhà nước, đó là sự tác động có
tổ chức và điều khiển quyền lực của nhà nước bằng pháp luật đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì phát triển các mối
quan hệ xã hội, trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ

12


trong công cuộc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc của các
cơ quan nhà nước trong hệ thống từ Trung ương đến địa phương.
Quản lý nhà nước về đất đai là nghiên cứu toàn bộ những đặc trưng cơ bản
của đất đai nhằm nắm chắc về số lượng, chất lượng từng loại đất ở từng vùng,
từng địa phương theo đơn vị hành chính ở mỗi cấp để thống nhát về quy hoạch
kế hoạch, sử dụng khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên đất đai trong cả
nước từ Trung ương tới địa phương làm cho người sử dụng đất hiểu được pháp
luật và thực hiện nghiêm túc, đúng pháp luật về đất đai.
Quản lý nhà nước về đất đai là sự tác động có tổ chức và điều khiển quyền
lực của Nhà nước bằng pháp luật đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người trong lĩnh vực đất đai, nhằm duy trì phát triển các mối quan
hệ xã hội, trật tự pháp luật đất đai và thực hiện tốt những chức năng, nhiệm vụ
QLNN về đất đai trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
1.1.4. Mục đích, yêu cầu, nguyên tắc QLNN về đất đai
a) Mục đích
- Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng.

- Bảo đảm sử dụng vốn đất hợp lý của nhà nước.
- Tăng cường hiệu quả kinh tế sử dụng đất.
- Bảo vệ đất, cải tạo đất và bảo vệ môi trường sống.
b) Yêu cầu
Phải đăng ký thống kê đất để nhà nước nắm chắc được toàn bộ diện tích,
chất lượng đất đai ở mỗi đơn vị hành chính.

13


c) Nguyên tắc
Đối tượng quản lý đất đai là tài nguyên đất đai cho nên quản lý nhà nước
về đất đai phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Phải quản lý toàn bộ vốn đất đai hiện có của quốc gia, không được quản
lý lẻ tẻ từng vùng.
- Nội dung tài liệu quản lý không phụ thuộc vào mục đích sử dụng.
- Số liệu quản lý đất đai phải bao hàm cả số lượng, chất lượng, loại, hạng
phục vụ cho múc đích sử dụng của loại đó.
- Quản lý đất đai phải thể hiện theo hệ thống và phương pháp thống nhất
trong toàn quốc.
- Những quy định biểu mẫu phải được thống nhất trong cả nước, trong
ngành địa chính.
- Số liệu so sánh không chỉ theo từng đơn vị nhỏ mà phải được thống nhất
so sánh trong cả nước.
- Tài liệu trong quản lý phải đơn giản phổ thông trong cả nước.
- Những điều kiện riêng biệt phải được tổng hợp ở phần phụ lục để nhà
nước đầu tư cái chung và cái riêng của mỗi vùng.
- Quản lý đất đai phải khách quan chính xác, đúng những kết quả số liệu
nhận được từ thực tế.
- Tài liệu quản lý đất đai phải đảm bảo tính pháp luật, phải đầy đủ, đúng

thực tế.
- Quản lý nhà nước về đất đai phải dựa trên cơ sở pháp luật, luật đất đai,
các biểu mẫu, văn bản quy định hướng dẫn của nhà nước và cơ quan chuyên
môn từ trung ương đến cơ sở.

14


- Quản lý đất đai phải tuân theo nguyên tắc tiết kiệm mang lại hiệu quả
kinh tế cao.
1.1.5. Các nội dung QLNN về đất đai
Là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước về đất đai. Đó là các
hoạt động trọng việc nắm và quản lý tình hình sử dụng đất đai, trong việc phân
bổ đất đai vào các mục đích sử dụng đất theo chủ trương của Nhà nước, trong
việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất đai.
Muốn đạt được mục tiêu quản lý, Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống cơ
quan quản lý đất đai có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng để thực thi có hiệu quả
trách nhiệm được Nhà nước phân công, đồng thời ban hành các chính sách, chế
độ, thể chế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước đáp ứng được nội
dung quản lý nhà nước về đất đai. Điều này thể hiện chức năng của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa là quản lý mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội trong đó có quản lý đất
đai. Mục đích cuối cùng của Nhà nước và người sử dụng đất là làm sao khai thác
tốt nhất tiềm năng của đất đai để phục vụ cho các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất
nước. Vì vậy, đất đai cần phải được thống nhất quản lý theo quy hoạch và pháp
luật.
a) Luật Đất đai 1987
Ra đời đánh dấu bước tiến quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về
đất đai ở Việt Nam. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai của Luật này được
quy định tại Điều 9, bao gồm:
- Điều tra, khảo sát, đo đạc, phân hạng đất đai và lập bản đồ địa chính.

- Quy hoạch, kế hoạch hóa việc sử dụng đất.
- Quy định các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực
hiện các chế độ, thể lệ ấy.
15


- Giao đất và thu hồi đất.
- Đăng ký đất đai, lập và giữ sổ địa chính, thống kê đất đai, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
- Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai.
- Giải quyết tranh chấp đất đai.
Luật Đất đai 1987 mới chỉ giải quyết mối quan hệ hành chính về đất đai
giữa Nhà nước (tư cách là chủ sở hữu) với người sử dụng đất. Do đó, nội dung
quản lý nhà nước về đất đai không có những nội dung về đánh giá đất, kinh tế
đất, cho thuê đất... Do không thừa nhận đất có giá nên Nhà nước nghiêm cấm
chuyển dịch đất đai dưới mọi hình thức. Những quy định này làm cho quan hệ
đất đai không được vận động theo hướng tích cực.
b) Luật Đất đai 1993
Ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/1993. Đây là một trong
những luật quan trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện Luật Đất đai 1993 là tích cực, thúc
đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội của đất nước.
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai được quy định tại Luật Đất đai 1993
bao gồm:
- Điều tra, khao sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất, lập bản đồ địa
chính.
- Quy hoạch, kế hoạch hóa việc sử dụng đất.
- Ban hành các văn bản về đất đai và tổ chức thực hiện.
- Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
- Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, quản lý các hợp đồng sử

dụng đất, thống kê, kiểm kê đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
16


- Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai.
- Giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo vi phạm về quản lý, sử
dụng đất đai.
Luật đất đai 1993 đã thừa nhận đất có giá và cho phép được chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, đồng thời Nhà nước đã xây dụng hệ thống các văn
bản pháp quy, tạo hành lang pháp lý cho quan hệ đất đai vận động tích cực.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong giai đoạn công nghiệp
hóa – hiện đại hóa, đất đai đã trở thành nguồn nội lực quan trọng tạo nên hiệu
quả nền kinh tế đất nước. Nội dung của Luật Đất đai 1993 chưa đủ cơ sở pháp lý
để phù hợp với hoàn cảnh mới.
c) Luật Đất đai năm 2003
Ra đời có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2004 và hiện nay gọi là Luật
Đất đai hiện hành. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai gồm 13 nội dung được
quy định tại khoản 2 Điều 6:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và
tổ chức thực hiện các văn bản đó.
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính,
lập bản đồ hành chính.
- Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất, lập bản đồ địa chính, bản đồ
hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất.
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất.
- Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
17



- Thống kê, kiểm kê đất đai.
- Quản lý tài chính về đất đai.
- Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất
động sản.
- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai
và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
- Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm
trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
- Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
d) Luật Đất đai 2013
Ra đời có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2014. Luật này chi tiết hơn và đưa
ra nhiều nội dung đổi mới. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai gồm 15 nội
dung được quy định tại Điều 22:
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ
chức thực hiện văn bản đó.
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính,
lập bản đồ hành chính.
- Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và
bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây
dựng giá đất.
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất.
18



- Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất.
- Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Thống kê, kiểm kê đất đai.
- Xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
- Quản lý tài chính về đất đai và giá đất.
- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy định
của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
- Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai.
- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản
lý và sử dụng đất đai.
- Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai.
So với các Luật Đất đai trước đây, nội dung quản lý nhà nước về đất đai
của Luật Đất đai 2013 được bổ sung, đổi mới ở các nội dung.
1.1.6. Vai trò của QLNN về đất đai trong chế độ sở hữu toàn dân ở nước ta
Quản lý Nhà nước về đất đai có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển
kinh tế, xã hội, và đời sống nhân dân. Cụ thể là:
- Thông qua hoạch định chiến lược, quy hoạch, lập kế hoạch phân bổ đất
đai có cơ sở khoa học nhằm phục vụ cho mục đích kinh tế, xã hội của đất nước;
bảo đảm sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm, đạt hiệu quả cao. Giúp cho Nhà nước
quản lý chặt chẽ đất đai, giúp cho người sử dụng đất cú cỏc biện pháp hữu hiệu
để bảo vệ và sử dụng đất đai có hiệu quả.

19


- Thông qua công tác đánh giá phân hạng đất, Nhà nước quản lý toàn bộ
đất đai về số lượng và chất lượng để làm căn cứ cho các biện pháp kinh tế - xã

hội có hệ thống, có căn cứ khoa học nhằm sử dụng đất có hiệu quả.
- Thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai (văn bảo
luật và dưới luật) tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi chính đánh của các tổ
chức kinh tế, các doanh nghiệp, cá nhân trong những quan hệ về đất đai.
- Thông qua việc ban hành và thực hiện hệ thống chính sách về đất đai như
chính sách giá, chính sách thuế, chính sách đầu tư ... Nhà nước kích thích các tổ
chức, các chủ thể kinh tế, các cá nhân sử dụng đầy đủ, hợp lý, tiết kiệm đất đai
nhằm nâng cao khả năng sinh lợi của đất, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của cả nước và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Thông qua việc kiểm tra, giảm sát quản lý và sử dụng đất, Nhà nước nắm
chắc tình hình sử dụng đất đai, phát hiện những vi phạm và giải quyết những vi
phạm pháp luật về đất đai.
- Nhà nước thiết lập hệ thống quản lý nhà nước về đất đai thống nhất trong
cả nước. Mô hình này tạo được ổn định xã hội, xác lập được tính công bằng
trong hướng sử dụng đất và đảm bảo được nguồn lực đất đai cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1.Tình hình quản lý và sử dụng đất của một sô nước trên thế giới
a) Thụy Điển
Ở Thuỵ Điển, phần lớn đất đai thuộc sở hữu tư nhân nhưng việc quản lý
và sử dụng đất đai là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Vì vậy, toàn bộ pháp
luật và chính sách đất đai luôn đặt ra vấn đề hàng đầu là có sự cân bằng giữa lợi
20


ích riêng của chủ sử dụng đất và lợi ích chung của Nhà nước.
Bộ Luật đất đai của Thụy Điển là một văn bản pháp luật được xếp vào loại
hoàn chỉnh nhất, nó tập hợp và giải quyết các mối quan hệ dất đai và hoạt động
của toàn xã hội với 36 đạo luật khác nhau.
Các hoạt động cụ thể về quản lý sử dụng đất như quy hoạch sử dụng đất,

đăng ký dất đai, bất động sản và thông tin địa chính đều được quản lý bởi ngân
hàng dữ liệu đất đai và đều được luật hoá. Pháp luật và chính sách đất đai ở Thuỵ
Điển về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về đất đai và kinh tế thị trường,
có sự giám sát chung của xã hội
Pháp luật và chính sách đất đai ở Thuỵ Điển từ năm 1970 trở lại đây gắn
liền với việc giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật bất động sản tư nhân.
Quy định các vật cố định gắn liền với bất động sản, quy định việc mua bán đất
đai, việc thế chấp, quy định về hoa lợi và các hoạt động khác như vấn đề bồi
thường, quy hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, đăng ký quyền sở hữu đất đai và hệ
thống đăng ký
b) Nước Trung Quốc
Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đang thi hành chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa về đất đai, đó là chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể
của quần chúng lao động. Mọi đơn vị, cá nhân không được xâm chiếm, mua bán
hoặc chuyển nhượng phi pháp đất đai. Vì lợi ích công cộng, Nhà nước có thể tiến
hành trưng dụng theo pháp luật đối với đất đai thuộc sở hữu tập thể và thực hiện
chế độ quản chế mục đích sử dụng đất.
Tiết kiệm đất, sử dụng đất đai hợp lý, bảo vệ thiết thực đất canh tác là
quốc sách cơ bản của Trung Quốc.
Đất đai ở Trung Quốc được phân thành 3 loại:
21


- Đất dùng cho nông nghiệp là đất trực tiếp sử dụng vào sản xuất nông
nghiệp bao gồm đất canh tác, đất rừng, đồng cỏ, đất dùng cho các công trình
thuỷ lợi và đất mặt nước nuôi trồng.
- Đất xây dựng gồm đất xây dựng nhà ở đô thị và nông thôn, đất dùng cho
mục đích công cộng, đất dùng cho khu công nghiệp, công nghệ, khoáng sản và
đất dùng cho công trình quốc phòng.
- Đất chưa sử dụng là đất không thuộc hai loại đất trên

Ở Trung Quốc hiện có 250 triệu hộ nông dân sử dụng trên 100 triệu ha đất
canh tác, bình quân khoảng 0,4ha/hộ gia đình. Vì vậy Nhà nước có chế độ bảo
hộ đặc biệt đất canh tác.
Nhà nước thực hiện chế độ bồi thường đối với đất bị trưng dụng theo mục
đích sử dụng đất trưng dụng. Tiền bồi thường đối với đất canh tác bằng 6 đến 10
lần sản lượng bình quân hàng năm của 3 năm liên tiếp trước đó khi bị trưng dụng.
Tiêu chuẩn hỗ trợ định cư cho mỗi nhân khẩu nông nghiệp bằng từ 4 đến 6 lần giá
trị sản lượng bình quân của đất canh tác/đầu người thuộc đất bị trưng dụng, cao
nhất không vượt quá 15 lần sản lượng bình quân của đất bị trưng dụng 3 năm
trước đó. Đồng thời nghiêm cấm tuyệt đối việc xâm phạm, lạm dụng tiền đề bù
đất trưng dụng và các loại tiền khác liên quan đến đất bị trưng dụng để sử dụng
vào mục đích khác.
c) Nước Pháp
Các chính sách quản lý đất đai ở Pháp được xây dựng trên một số nguyên
tắc chỉ đạo quy hoạch không gian, bao gồm cả chỉ đạo quản lý sử dụng đất đai và
hình thành các công cụ quản lý đất đai.
Nguyên tắc đầu tiên là phân biệt rõ ràng không gian công cộng và không
gian tư nhân. Không gian công cộng gồm đất đai, tài sản trên đất thuộc sở hữu
22


Nhà nước và tập thể địa phương. Tài sản công cộng được đảm bảo lợi ích công
cộng có đặc điểm là không thể chuyển nhượng, tức là không mua, bán được.
Không gian công cộng gồm các công sở, trường học, bệnh viện, nhà văn hoá,
bảo tàng...
Không gian tư nhân song song tồn tại với không gian công cộng và đảm
bảo lợi ích song hành. Quyền sở hữu tài sản là bất khả xâm phạm và thiêng liêng,
không ai có quyền buộc người khác phải nhường quyền sở hữu của mình. Chỉ có
lợi ích công cộng mới có thể yêu cầu lợi ích tư nhân nhường chỗ và trong trường
hợp đó, lợi ích công cộng phải thực hiện bồi thường một cách công bằng và tiên

quyết với lợi ích tư nhân.
Ở Pháp, chính sách quản lý sử dụng đất canh tác rất chặt chẽ để đảm bảo
sản xuất nông nghiệp bền vững và tuân thủ việc phân vùng sản xuất. Sử dụng đất
nông nghiệp, luật pháp quy định một số điểm cơ bản sau:
Việc chuyển đất canh tác sang mục đích khác, kể cả việc làm nhà ở cũng
phải xin phép chính quyền cấp xã quyết định. Nghiêm cấm việc xây dựng nhà
trên đất canh tác để bán cho người khác.
Thực hiện chính sách miễn giảm thuế, được hưởng quy chế ưu tiên đối với
một số đất đai chuyên dùng để gieo hạt, đất đã trồng hoặc trồng lại rừng, đất mới
dành cho ươm cây trồng.
Khuyến khích việc tích tụ đất nông nghiệp bằng cách tạo điều kiện thuận
lợi để các chủ đất có nhiều mảnh đất ở các vùng khác nhau có thể đàm phán với
nhau nhằm tiến hành chuyển đổi ruộng đất, tạo điều kiện tập trung các thửa đất
nhỏ thành các thửa đất lớn.
Việc mua bán đất đai không thể tự thực hiện giữa người bán và người
mua, muốn bán đất phải xin phép cơ quan giám sát việc mua bán. Việc bán đất
23


nông nghiệp phải nộp thuế đất và thuế trước bạ. Đất này được ưu tiên bán cho
những người láng giềng để tạo ra các thửa đất có diện tích lớn hơn.
Ở Pháp có cơ quan giám sát việc mua bán đất để kiểm soát hoạt động mua
bán, chuyển nhượng đất đai. Cơ quan giám sát đồng thời làm nhiệm vụ môi giới
và trực tiếp tham gia quá trình mua bán đất. Văn tự chuyển đổi chủ sở hữu đất
đai có Toà án Hành chính xác nhận trước và sau khi chuyển đổi.
Đối với đất đô thị mới, khi chia cho người dân thì phải nộp 30% chi phí
cho các công trình xây dựng hạ tầng, phần còn lại là 70% do kinh phí địa phương
chi trả.
Ngày nay, đất đai ở Pháp ngày càng có nhiều luật chi phối theo các quy
định của các cơ quan hữu quan như quản lý đất đai, môi trường, quản lý đô thị,

quy hoạch vùng lãnh thổ và đầu tư phát triển.
d) Nước Australia
Australia có lịch sử hình thành từ thuộc địa của Anh, nhờ vậy Australia có
được cơ sở và hệ thống pháp luật quản lý xã hội nói chung và quản lý đất đai nói
riêng từ rất sớm. Trong suốt quá trình lịch sử từ lúc là thuộc địa đến khi trở thành
quốc gia độc lập, pháp luật và chính sách đất đai của Australia mang tính kế thừa
và phát triển một cách liên tục, không có sự thay đổi và gián đoạn do sự thay đổi
về chính trị. Đây là điều kiện thuận lợi làm cho pháp luật và chính sách đất đai
phát triển nhất quán và ngày càng hoàn thiện, được xếp vào loại hàng đầu của
thế giới, vì pháp Luật Đất đai của Australia đã tập hợp và vận dụng được hàng
chục luật khác nhau của đất nước.
Luật Đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia là đất thuộc sở hữu
Nhà nước và đất thuộc sở hữu tư nhân. Australia công nhận Nhà nước và tư nhân
có quyền sở hữu đất đai và bất động sản trên mặt đất. Phạm vi sở hữu đất đai theo
24


luật định là tính từ tâm trái đất trở lên, nhưng thông thường Nhà nước có quyền
bảo tồn đất ở từng độ sâu nhất định, nơi có những mỏ khoáng sản quý như vàng,
bạc, thiếc, than, dầu mỏ…( theo sắc luật về đất đai khoáng sản năm 1993).
Luật đất đai Australia bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở
hữu đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế
theo di chúc mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích luỹ đất đai. Tuy nhiên,
luật cũng quy định Nhà nước có quyền trưng thu đất tư nhân để sử dụng vào mục
đích công cộng, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội và việc trưng thu dó gắn liền
với việc Nhà nước phải thực hiện bồi thường thoả đáng.
1.2.2 Tình hình quản lý và sử dụng đất tại Việt Nam
Bất kỳ một quốc gia nào, nhà nước nào cũng có một quỹ đất nhất định
được giới hạn bởi biên giới quốc gia mà thiên nhiên ban tặng.Bất kỳ một nhà
nước nào , chế độ chính trị nào ở thời kỳ lịch sử nào cũng cần có đất. Đất đai là

vấn đề sống còn của mỗi quốc gia vì vậy nhà nước muốn tồn tại và phát triển thì
phải quản chặt nắm chắc tài nguyên đất đai đó. Mỗi thời kỳ lịch sử với giai cấp
khác nhau, chế độ chính trị khác nhau đều có chính sách quản lý đất đất đai đặc
trưng cho thời kỳ lịch sử đó. Ở chế độ nô lệ thì ở nước ta triều đại Hùng Vương
kéo dài hàng nghìn năm, xã hội Việt Nam đang ở thời kỳ công xã nguyên thuỷ
tan rã.Vì vậy ruộng đất đang chuyển từ tay tập thể công xã sang giai cấp chủ nô.
Các chủ nô nắm quyền quản lý đất đai và cả nô lệ. Sang thời kỳ phong kiến thì
đất đai chủ yếu tập trung vào tay của tầng lớp thống trị và bọn địa chủ. Nhân dân
không có ruộng đất, phải làm thuê hoặc mướn ruộng đất để sản xuất. Đối với chế
độ thực dân phong kiến thì từ khi tới xâm lược nước ta thực dân pháp đã điều
chỉnh mối quan hệ đất đai theo luật pháp của nước Pháp. Công nhận quyền sở
hữu tư nhân tuyệt đối về đất đai.Khác với luật lệ nhà Nguyễn.Thực dân pháp
25


×