Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai tại quận Ba Đình, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.1 KB, 76 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
1 Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là tư liệu sản
xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được của ngành sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là các
nguồn lợi tự nhiên như khí hậu, thời tiết, nước, không khí, khoáng sản nằm
trong lòng đất, sinh vật sống trên bề mặt trái đất thậm chí cả sinh vật sống
trong lòng đất.
Đồng thời đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, có vị trí cố
định trong không gian. Chính vì vậy, đất đai cần được quản lý một cách hợp
lý, sử dụng một cách có hiệu quả, tiết kiệm và bền vững.
Hơn nữa, quá trình phát triển kinh tế, quá trình đô thị hoá ở làm cho
mật độ dân cư ngày càng tăng. Chính sự gia tăng dân số, sự phát triển đô thị
và quá trình công nghiệp hoá làm cho nhu cầu về nhà ở cũng như đất xây
dựng các công trình công cộng, khu công nghiệp trong cả nước vốn đã “bức
xúc” nay càng trở nên “nhức nhối” hơn. Đây là vấn đề nan giải không chỉ với
nước ta mà còn với các nước đang phát triển và phát triển trên thế giới. Để
giải quyết vấn đề này, mỗi quốc gia đều xây dựng cho mình những chương
trình, kế hoạch, chiến lược riêng phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của mình
để sử dụng đất đai được hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm. Đặc biệt là đối với nước
ta - một đất nước mà quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá
đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp cả nước.
Từ năm 1945 khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho
đến nay, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, Nhà nước ta luôn quan tâm thích
đáng đến vấn đề đất đai và đã ban hành, đổi mới Luật đất đai: Luật đất đai
1988, Luật đất đai năm 1993; Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật
đất đai 1993 năm 1998, năm 2001; Luật đất đai năm 2003; Luật đất đai năm
1


2003 sửa đổi và bổ sung năm 2009. Đặc biệt, Luật đất đai năm 2013 chính


thức có hiệu lực ngày 01/7/2014 đã từng bước đưa pháp luật đất đai phù hợp
với thực tế quản lý và sử dụng đất. Các văn bản, Thông tư, Nghị định…đi
kèm đã giúp rất nhiều cho việc nắm chắc, quản lý chặt chẽ quỹ đất đai của
quốc gia cũng như phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong
thời kỳ đổi mới.
Công tác quản lý Nhà nước về đất đai với 15 nội dung được ghi nhận
tại điều 22 của Luật đất đai năm 2013, đây là cơ sở pháp lý để Nhà nước nắm
chắc, quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên của quốc gia cũng như để người sử
dụng đất yên tâm sử dụng và khai thác tiềm năng từ đất mang lại.
Nghiên cứu công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn quận Ba
Đình giúp chúng ta có cái nhìn chi tiết về tình hình quản lý, sử dụng đất, cơ
cấu đất đai của từng loại đất, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường
công tác quản lý Nhà nước về đai đai.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên cũng như tính cấp bách của công tác
quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung, quận
Ba Đình nói riêng. Được sự phân công của khoa Quản lý đất đai - Trường Đại
học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy
giáo ThS. Chu Hồng Sơn, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai tại quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội”.
2 Mục đích và yêu cầu
* Mục đích
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và những căn cứ pháp lý của công tác quản
lý Nhà nước về đất đai.

2


- Đánh giá công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn quận Ba
Đình, thành phố Hà Nội theo 15 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai quy

định tại Luật đất đai năm 2013.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy các vấn đề tích cực, hạn chế
các vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý sử dụng đất đai, giúp cơ quan
quản lý Nhà nước quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên đất.
* Yêu cầu
- Nắm được các quy định của Nhà nước đối với công tác quản lý Nhà
nước về đất đai. Đặc biệt là 15 nội dung quy định tại điều 22 Luật đất đai.
- Hiểu và vận dụng tốt các quy trình, quy phạm, văn bản pháp luật về
công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
- Các số liệu điều tra, thu thập chính xác, đầy đủ phản ánh trung thực
khách quan công tác quản lý Nhà nước về đất đai ở địa phương
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất phù hợp với thực tế, mang tính khả
thi cao.

3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Tổng quan về nội dung quản lý nhà nước về đất đai
1.1.1 Cơ sở lý luận chung
- Vấn đề sử dụng đất
Sử dụng đất liên quan đến chức năng hoặc mục đích của loại đất được
sử dụng. Việc sử dụng đất có thể được định nghĩa là: “ những hoạt động của
con người có liên quan trực tiếp tới đất, sử dụng nguồn tài nguyên đất hoặc có
tác động lên chúng”. [2]
Số liệu về quá trình và hình thái các hoạt động đầu tư (lao động, vốn,
nước, phân hoá học ...), kết quả sản lượng (loại nông sản, thời gian, chu kỳ
mùa vụ ...) cho phép đánh giá chính xác việc sử dụng đất, phân tích tác động
môi trường và kinh tế, lập mô hình những ảnh hưởng của việc biến đổi sử

dụng đất hoặc việc chuyển đổi việc sử dụng đất này sang mục đích sử dụng
đất khác.
Phạm vi sử dụng đất, cơ cấu và phương thức sử dụng đất một mặt bị chi
phối bởi các điều kiện và quy luật sinh thái tự nhiên, mặt khác bị kiềm chế bởi
các điều kiện, quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Vì vậy có thể
khái quát một số điều kiện và nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất.
Điều kiện tự nhiên: khi sử dụng đất đai, ngoài bề mặt không gian như
diện tích trồng trọt, mặt bằng xây dựng..., cần chú ý đến việc thích ứng với
điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố
bao quanh mặt đất như: yếu tố khí hậu, yếu tố địa hình, yếu tố thổ nhưỡng.
Điều kiện kinh tế - xã hội: bao gồm các yếu tố như chế độ xã hội, dân
số, lao động, thông tin, các chính sách quản lý về môi trường, chính sách đất
đai, yêu cầu về quốc phòng, sức sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp, giao thông, vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ
4


thuật, trình độ quản lý, sử dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất
cho công tác phát triển nguồn nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Yếu tố không gian: đây là một tính chất “đặc biệt” khi sử dụng đất do
đất đai là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại ngoài ý chí và nhận thức của con
người. Đất đai hạn chế về số lượng, có vị trí cố định và là tư liệu sản xuất
không thể thay thế được khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội. [1]
- Vấn đề quản lý nhà nước về đất đai:
* Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà
nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và
hành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội,
trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. [4]
* Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai

Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước
đối với đất đai; đó là các hoạt động nắm chắc tình hình sử dụng đất; phân phối
và phân phối lại quỹ đất đai theo quy hoạch, kế hoạch; kiểm tra giám sát quá
trình quản lý và sử dụng đất; điều tiết các nguồn lợi từ đất đai. [4]
Quản lý đất đai bao gồm những chức năng, nhiệm vụ liên quan đến
việc xác lập và thực thi các quy tắc cho việc quản lý, sử cho thuê hoặc thu
thuế) và giải quyết những tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử
dụng đất.
Quản lý đất đai là quá trình điều tra mô tả những tài liệu chi tiết về thửa
đất, xác định hoặc điều chỉnh các quyền và các thuộc tính khác của đất, lưu
giữ, cập nhật và cung cấp những thông tin liên quan về sở hữu, giá trị, sử
dụng đất và các nguồn thông tin khác liên quan đến thị trường bất động sản.
Quản lý đất đai liên quan đến cả hai đối tượng đất công và đất tư bao gồm các
5


hoạt động đo đạc, đăng ký đất đai, định giá đất, giám sát và quản lý sử dụng
đất đai, cơ sở hạ tầng cho công tác quản lý.
Nhà nước phải đóng vai trò chính trong việc hình thành chính sách đất
đai và các nguyên tắc của hệ thống quản lý đất đai bao gồm pháp Luật đất đai
và pháp luật liên quan đến đất đai. Đối với công tác quản lý đất đai, Nhà nước
xác định một số nội dung chủ yếu: Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước;
tập trung và phân cấp quản lý; vị trí của cơ quan đăng ký đất đai; vai trò của
lĩnh vực công và tư nhân; quản lý các tài liệu địa chính; quản lý các tổ chức
địa chính, quản lý nguồn nhân lực; nghiên cứu; giáo dục và đào tạo; trợ giúp
về chuyên gia tư vấn và kỹ thuật; hợp tác quốc tế.
1.1.2 Tình hình quản lý đất đai ở một số nước trên thế giới
1.1.2.1 Nước Thụy Điển
Ở Thuỵ Điển, phần lớn đất đai thuộc sở hữu tư nhân nhưng việc quản

lý và sử dụng đất đai là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Vì vậy, toàn bộ
pháp luật và chính sách đất đai luôn đặt ra vấn đề hàng đầu là có sự cân bằng
giữa lợi ích riêng của chủ sử dụng đất và lợi ích chung của Nhà nước.
Bộ Luật đất đai của Thụy Điển là một văn bản pháp luật được xếp vào
loại hoàn chỉnh nhất, nó tập hợp và giải quyết các mối quan hệ dất đai và hoạt
động của toàn xã hội với 36 đạo luật khác nhau.
Các hoạt động cụ thể về quản lý sử dụng đất như quy hoạch sử dụng
đất, đăng ký đất đai, bất động sản và thông tin địa chính đều được quản lý bởi
ngân hàng dữ liệu đất đai và đều được luật hoá. Pháp luật và chính sách đất
đai ở Thuỵ Điển về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về đất đai và kinh
tế thị trường, có sự giám sát chung của xã hội.
Pháp luật và chính sách đất đai ở Thuỵ Điển từ năm 1970 trở lại đây
gắn liền với việc giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật bất động sản tư
nhân. Quy định các vật cố định gắn liền với bất động sản, quy định việc mua
6


bán đất đai, việc thế chấp, quy định về hoa lợi và các hoạt động khác như vấn
đề bồi thường, quy hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, đăng ký quyền sở hữu đất
đai và hệ thống đăng ký… [5]
1.1.2.2 Nước Trung Quốc
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đang thi hành chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa về đất đai, đó là chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập
thể của quần chúng lao động. Mọi đơn vị, cá nhân không được xâm chiếm,
mua bán hoặc chuyển nhượng phi pháp đất đai. Vì lợi ích công cộng, Nhà
nước có thể tiến hành trưng dụng theo pháp luật đối với đất đai thuộc sở hữu
tập thể và thực hiện chế độ quản chế mục đích sử dụng đất.
Tiết kiệm đất, sử dụng đất đai hợp lý, bảo vệ thiết thực đất canh tác là
quốc sách cơ bản của Trung Quốc.
Đất đai ở Trung Quốc được phân thành 3 loại

- Đất dùng cho nông nghiệp là đất trực tiếp sử dụng vào sản xuất nông
nghiệp bao gồm đất canh tác, đất rừng, đồng cỏ, đất dùng cho các công trình
thuỷ lợi và đất mặt nước nuôi trồng.
- Đất xây dựng gồm đất xây dựng nhà ở đô thị và nông thôn, đất dùng
cho mục đích công cộng, đất dùng cho khu công nghiệp, công nghệ, khoáng
sản và đất dùng cho công trình quốc phòng.
- Đất chưa sử dụng là đất không thuộc hai loại đất trên
Ở Trung Quốc hiện có 250 triệu hộ nông dân sử dụng trên 100 triệu ha
đất canh tác, bình quân khoảng 0,4ha/hộ gia đình. Vì vậy Nhà nước có chế độ
bảo hộ đặc biệt đất canh tác.
Nhà nước thực hiện chế độ bồi thường đối với đất bị trưng dụng theo
mục đích sử dụng đất trưng dụng. Tiền bồi thường đối với đất canh tác bằng 6
đến 10 lần sản lượng bình quân hàng năm của 3 năm liên tiếp trước đó khi bị
trưng dụng. Tiêu chuẩn hỗ trợ định cư cho mỗi nhân khẩu nông nghiệp bằng
7


từ 4 đến 6 lần giá trị sản lượng bình quân của đất canh tác/đầu người thuộc
đất bị trưng dụng, cao nhất không vượt quá 15 lần sản lượng bình quân của
đất bị trưng dụng 3 năm trước đó. Đồng thời nghiêm cấm tuyệt đối việc xâm
phạm, lạm dụng tiền đề bù đất trưng dụng và các loại tiền khác liên quan đến
đất bị trưng dụng để sử dụng vào mục đích khác. [5]
1.1.2.3 Nước Pháp
Các chính sách quản lý đất đai ở Cộng hoà Pháp được xây dựng trên
một số nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch không gian, bao gồm cả chỉ đạo quản lý
sử dụng đất đai và hình thành các công cụ quản lý đất đai.
Nguyên tắc đầu tiên là phân biệt rõ ràng không gian công cộng và
không gian tư nhân. Không gian công cộng gồm đất đai, tài sản trên đất thuộc
sở hữu Nhà nước và tập thể địa phương. Tài sản công cộng được đảm bảo lợi
ích công cộng có đặc điểm là không thể chuyển nhượng, tức là không mua,

bán được. Không gian công cộng gồm các công sở, trường học, bệnh viện,
nhà văn hoá, bảo tàng ...
Không gian tư nhân song song tồn tại với không gian công cộng và
đảm bảo lợi ích song hành. Quyền sở hữu tài sản là bất khả xâm phạm và
thiêng liêng, không ai có quyền buộc người khác phải nhường quyền sở hữu
của mình. Chỉ có lợi ích công cộng mới có thể yêu cầu lợi ích tư nhân nhường
chỗ và trong trường hợp đó, lợi ích công cộng phải thực hiện bồi thường một
cách công bằng và tiên quyết với lợi ích tư nhân.
Ở Pháp, chính sách quản lý sử dụng đất canh tác rất chặt chẽ để đảm
bảo sản xuất nông nghiệp bền vững và tuân thủ việc phân vùng sản xuất. Sử
dụng đất nông nghiệp, luật pháp quy định một số điểm cơ bản sau:
Việc chuyển đất canh tác sang mục đích khác, kể cả việc làm nhà ở
cũng phải xin phép chính quyền cấp xã quyết định. Nghiêm cấm việc xây
dựng nhà trên đất canh tác để bán cho người khác.
8


Thực hiện chính sách miễn giảm thuế, được hưởng quy chế ưu tiên đối
với một số đất đai chuyên dùng để gieo hạt, đất đã trồng hoặc trồng lại rừng,
đất mới dành cho ươm cây trồng.
Khuyến khích việc tích tụ đất nông nghiệp bằng cách tạo điều kiện
thuận lợi để các chủ đất có nhiều mảnh đất ở các vùng khác nhau có thể đàm
phán với nhau nhằm tiến hành chuyển đổi ruộng đất, tạo điều kiện tập trung
các thửa đất nhỏ thành các thửa đất lớn.
Việc mua bán đất đai không thể tự thực hiện giữa người bán và người
mua, muốn bán đất phải xin phép cơ quan giám sát việc mua bán. Việc bán
đất nông nghiệp phải nộp thuế đất và thuế trước bạ. Đất này được ưu tiên bán
cho những người láng giềng để tạo ra các thửa đất có diện tích lớn hơn.
Ở Pháp có cơ quan giám sát việc mua bán đất để kiểm soát hoạt động
mua bán, chuyển nhượng đất đai. Cơ quan giám sát đồng thời làm nhiệm vụ

môi giới và trực tiếp tham gia quá trình mua bán đất. Văn tự chuyển đổi chủ
sở hữu đất đai có Toà án Hành chính xác nhận trước và sau khi chuyển đổi.
Đối với đất đô thị mới, khi chia cho người dân thì phải nộp 30% chi phí
cho các công trình xây dựng hạ tầng, phần còn lại là 70% do kinh phí địa
phương chi trả.
Ngày nay, đất đai ở Pháp ngày càng có nhiều luật chi phối theo các quy định
của các cơ quan hữu quan như quản lý đất đai, môi trường, quản lý đô thị, quy
hoạch vùng lãnh thổ và đầu tư phát triển. [5]
1.1.2.4 Nước Australia
Australia có lịch sử hình thành từ thuộc địa của Anh, nhờ vậy Australia
có được cơ sở và hệ thống pháp luật quản lý xã hội nói chung và quản lý đất
đai nói riêng từ rất sớm. Trong suốt quá trình lịch sử từ lúc là thuộc địa đến
khi trở thành quốc gia độc lập, pháp luật và chính sách đất đai của Australia
mang tính kế thừa và phát triển một cách liên tục, không có sự thay đổi và
9


gián đoạn do sự thay đổi về chính trị. Đây là điều kiện thuận lợi làm cho pháp
luật và chính sách đất đai phát triển nhất quán và ngày càng hoàn thiện, được
xếp vào loại hàng đầu của thế giới, vì pháp Luật đất đai của Australia đã tập
hợp và vận dụng được hàng chục luật khác nhau của đất nước.
Luật đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia là đất thuộc sở
hữu Nhà nước và đất thuộc sở hữu tư nhân. Australia công nhận Nhà nước và
tư nhân có quyền sở hữu đất đai và bất động sản trên mặt đất. Phạm vi sở hữu
đất đai theo luật định là tính từ tâm trái đất trở lên, nhưng thông thường Nhà
nước có quyền bảo tồn đất ở từng độ sâu nhất định, nơi có những mỏ khoáng
sản quý như vàng, bạc, thiếc, than, dầu mỏ …( theo sắc luật về đất đai khoáng
sản năm 1993).
Luật đất đai Australia bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của chủ
sở hữu đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp, thừa

kế theo di chúc mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích luỹ đất đai. Tuy
nhiên, luật cũng quy định Nhà nước có quyền trưng thu đất tư nhân để sử
dụng vào mục đích công cộng, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội và việc trưng
thu dó gắn liền với việc Nhà nước phải thực hiện bồi thường thoả đáng. [5]
1.2 Công tác quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam
1.2.1 Cở sở pháp lý về quản lý đất đai
1.2.1.1 Luật đất đai 1988
Ra đời đánh dấu bước tiến quan trọng trong công tác quản lý nhà nước
về đất đai ở Việt Nam. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai của Luật này
được quy định tại điều 9, bao gồm:
- Điều tra, khảo sát, đo đạc, phân hạng đất đai và lập bản đồ địa chính.
- Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất đai.
- Quy định các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức
thực hiện các chế độ, thể lệ ấy.
10


- Giao đất và thu hồi đất.
- Đăng ký đất đai, lập và giữ sổ địa chính, thống kê đất đai, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Thanh tra việc chấp hành các chế dộ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất
đai.
- Giải quyết tranh chấp đất đai.
Luật đất đai năm 1988 mới chỉ giải quyết mối quan hệ hành chính về
đất đai giữa Nhà nước (tư cách chủ sở hữu) với người sử dụng đất. Do đó, nội
dung quản lý nhà nước về đất đai không có những nội dung về đánh giá đất,
kinh tế đất, cho thuê đất… Do không thừa nhận đất có giá nên Nhà nước
nghiêm cấm chuyển dịch đất đai dưới mọi hình thức. Những quy định này
làm cho quan hệ đất đai không được vận động theo hướng tích cực.
1.2.1.2 Luật đất đai 1993

Ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/1993. Đây là một trong
những luật quan trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện Luật đất đai 1993 là tích cực,
thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội của
đất nước.
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai được quy định tại Luật đất đai
1993 bao gồm:
- Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất, lập bản đồ địa
chính.
- Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất.
- Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức
thực hiện các văn bản đó.
- Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.

11


- Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sử
dụng đất, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất.
- Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi
phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong giai đoạn công nghiệp
hóa – hiện đại hóa, đất đai trở thành nguồn nội lực quan trọng tạo nên hiệu
quả nền kinh tế đất nước. Nội dung của Luật đất đai 1993 chưa đủ cơ sở pháp
lý để phù hợp với hoàn cảnh mới.
1.2.1.3 Luật đất đai 2003
Luật đất đai 2003 đã quy định chi tiết và đưa ra nhiều nội dung mới
trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, gồm 13 nội dung được quy định
tại Khoản 2 Điều 6:

- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng
đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính.
- Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản
đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất.
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất.
- Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Thống kê, kiểm kê đất đai.
- Quản lý tài chính về đất đai.

12


- Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường
bất động sản.
- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về
đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi
phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
- Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
So với Luật đất đai 1993, nội dung quản lý nhà nước của Luật đất đai
2003 được bổ sung đổi mới ở các nội dung:
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính: đây là một nhiệm vụ quan trọng về quản lý nhà

nước về đất đai, trên cơ sở nội dung Chỉ thị số 364/TTg và Nghị định số
119/CP của Chính phủ về quản lý địa giới hành chính, Luật đất đai 2003 quy
định rõ trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Tài nguyên và Môi
Trường, Ủy ban nhân dân các cấp, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính,
lập bản đồ hành chính.
- Quản lý tài chính về đất đai: mặc dù Luật đất đai năm 1988 đã nghiêm
cấm việc mua bán đất đai nhưng với thực tế của sự phát triển xã hội, Luật đất
đai 1993 đã ghi nhận “đất có giá” và Luật đất đai 2003 thừa nhận giá đất được
hình thành do Nhà nước quy định, do thực tế chuyển dịch đất đai trên thị
trường. Đây là một quy định quan trọng, thể hiện sự có mặt của quan hệ đất
đai trong cơ chế thị trường. Hay nói cách khác Nhà nước đã tạo điều kiện
thuận lợi để đất đai tham gia vào nền kinh tế sản xuất hàng hóa, từng bước
tham gia vào thị trường bất động sản. Có thể nói khẳng định đất có giá tức là
thừa nhận đất đai và quyền sử dụng đất là hàng hóa – loại hàng hóa đặc biệt.
13


Giá đất được xác định phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố (kinh tế, xã hội, điều
kiện tự nhiên, pháp luật… và cá biệt còn phụ thuộc vào yếu tố tâm lý). Do
vậy, giá đất ban hành được quy định chi tiết cho từng vị trí, từng thời gian,
đảm bảo chức năng quản lý và điều tiết của Nhà nước phù hợp với quy luật
của nền kinh tế thị trường.
- Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường
bất động sản: Luật đất đai 2003 đã cho phép quyền sử dụng đất tham gia thị
trường bất động sản. Bước đầu đặt nền móng cho việc quản lý chặt chẽ thị
trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất.
- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất: hoạt động quản lý việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất được tiến hành thông qua hệ thống tổ chức cơ quan hành chính
các cấp và hê thống tổ chức ngành địa chính các cấp. Trên cơ sở những quy

định chung về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ
của tổ chức sử dụng đất, cán bộ địa chính và cơ quan chức năng hướng dẫn
các chủ sử dụng đất thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất ngay từ các đơn vị hành chính cấp cơ sở là xã, phường, thị trấn, đảm bảo
các quy định của pháp luật được thực hiện đúng trên từng thửa đất và trên
từng chủ sử dụng đất.
- Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai: hoạt động dịch vụ
công về đất đai là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc
làm các dịch vụ về đất đai theo yêu cầu và quyền lợi của cộng đồng. Luật đất
đai 2003 cho phép phát triển các dịch vụ công về đất đai như tư vấn giá đất và
hình thành thị trường bất động sản và cũng đưa ra những quy định để quản lý
các dịch vụ này.

14


1.2.1.4 Luật đất đai 2013
Để công tác quản lý đất đai phù hợp với tình hình mới, Luật Đất đai
năm 2013 đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
khoá XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua, có hiệu lực từ ngày 1/7/2014 thay thế cho
Luật Đất đai năm 2003. Luật Đất đai 2013 cũng quy định rõ 15 nội dung
quản lý nhà nước về đất đai, đó là:
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và
tổ chức thực hiện văn bản đó.
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính.
- Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất
và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra
xây dựng giá đất.
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất.
- Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất.
- Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
-Thống kê, kiểm kê đất đai.
-Xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
- Quản lý tài chính về đất đai và giá đất.
- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy
định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
- Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai.
15


- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
quản lý và sử dụng đất đai.
- Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai.
Cùng với Luật đất đai năm 2013, Nhà nước đã ban hành các Nghị định,
Thông tư, Chỉ thị … đã tạo ra một hành lang pháp lý cho công tác quản lý đất
đai. Hệ thống văn bản pháp Luật đất đai được đánh giá là tương đối hoàn
chỉnh với những nội dung quy định cụ thể: về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai; về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất;
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; về thu tiền sử
dụng đất; về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hướng dẫn thực hiện
thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất; hướng
dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính; hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm
định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
1.2.2 Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về đất đai

1.2.2.1 Công tác ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử
dụng đất đai và tổ chức thực hiện văn bản đó
Đây không phải là nội dung mới trong công tác quản lý nhà nước về đất
đai. Nội dung này đã được quy định từ năm 1980 trong quyết định 201/CP
của Hội đồng Chính phủ. Tuy nhiên đến Luật đất đai 2013 nội dung này được
xác định là cơ sở để thực hiện các nội dung khác trong công tác quản lý nhà
nước về đất đai. Nội dung này gồm hai vấn đề là ban hành văn bản quy phạm
pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai (theo thẩm quyền) và tổ chức thực
hiện các văn bản đó của cấp trên.
Khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất
đai, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước về đất đai phải căn cứ theo
thẩm quyền của mình và tuân theo các quy định trong Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
16


Khi tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử
dụng đất đai của các cấp trên, cơ quản quản lý hành chính nhà nước về đất đai
cũng phải căn cứ theo thẩm quyền của mình mà tổ chức hướng dẫn cho các
cấp quản lý bên dưới và các chủ thể khác tham gia quan hệ pháp luật đất đai
hiểu và thực hiện các văn bản đó đạt hiệu quả cao.
Trải qua các thời kỳ, Việt Nam đã ban hành một hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về đai đai tương đối chi tiết và đầy đủ nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho việc triển khai đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
tới người sử dụng đất.
Nhìn chung, công tác ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý, sử dụng đất đai qua các thời kỳ là tương đối đầy đủ, phù hợp với điều
kiện và tình hình sử dụng đất ở Việt Nam. Hệ thống văn bản pháp luật sau
Luật đất đai 2013 quy định chi tiết, đầy đủ đảm bảo quản lý thống nhất toàn
bộ quỹ đất trong phạm vi cả nước theo quy hoạch và pháp luật.

1.2.2.2 Công tác xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới
hành chính, lập bản đồ hành chính
* Xác định địa giới hành chính
Địa giá hành chính là ranh giới các đơn vị hành chính kèm theo địa
danh và một số yếu tố chính về tự nhiên, kinh tế, xã hội.
Địa giới hành chính được xác định bằng các mốc giới cụ thể thể hiện
toạ độ vị trí đó.
Hiện nay nước ta được chia thành 4 cấp hành chính là: cấp trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Giữa các đơn vị hành chính các cấp này đều có
ranh giới được thể hiện bằng các mốc địa giới có toạ độ của vị trí các mốc đó.
Việc xác định địa giới hành chính được quy định tại Điều 29, Luật Đất
đai 2013 như sau: Chính phủ chỉ đạo việc xác định địa giới hành chính, lập và
quản lý hồ sơ địa giới hành chính các cấp trong phạm vi cả nước. Bộ Nội vụ
17


quy định về trình tự, thủ tục xác định địa giới hành chính, quản lý mốc địa
giới và hồ sơ địa giới hành chính. Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về
kỹ thuật và đinh mức kinh tế trong việc cắm mốc địa giới hành chính, lập hồ
sơ địa giới hành chính các cấp. Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện
việc xác định địa giới hành chính trên thực địa, lập hồ sơ địa giới hành chính
trong phạm vi địa phương.
Như vậy, chỉ đạo việc xác định địa giới hành chính, quản lý mốc địa
giới hành chính và hồ sơ địa giới hành chính trong toàn quốc (không phân
biệt ở cấp nào) là nhiệm vụ của Chính phủ.
* Lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính
Hồ sơ địa giới hành chính là hồ sơ phục vụ quản lý nhà nước đối với
địa giới hành chính, gồm 8 loại giấy tờ sau đây:
- Quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc thành lập
đơn vị hành chính hoặc điều chỉnh địa giới hành chính (nếu có).

- Bản đồ địa giới hành chính.
- Sơ đồ vị trí các mốc địa giới hành chính.
- Bảng tọa độ các mốc địa giới hành chính, các điểm đặc trưng trên
đường địa giới hành chính.
- Bản mô tả tình hình chung về địa giới hành chính.
- Biên bản xác nhận mô tả đường địa giới hành chính.
- Phiếu thống kê về các yếu tố địa lý có liên quan đến địa giới hành
chính.
- Thống Kế các tài liệu về địa giới hành chính của các đơn vị hành
chính cấp dưới.
Việc xác định, lập và quản lý các mốc địa giới hành chính hết sức quan
trọng, nó góp phần giữ ổn định biên giới giữa các đơn vị hành chính. Trong
quản lý hành chính nhà nước, nếu Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp
18


thực hiện tốt nội dung này sẽ tránh được tình trạng tranh chấp địa giới hành
chính của các cấp dưới.
* Lập bản đồ hành chính
Bản đồ hành chính là bản đồ chuyên đề có yếu tố chuyên môn thể hiện
sự phân chia lãnh thổ và quản lý đơn vị hành chính theo quy định của Nhà
nước Việt Nam. Bản đồ hành chính của địa phương nào thì được lập trên cơ
sở bản đồ địa giới hành chính của địa phương đó. Bộ Tài nguyên và Môi
trường chỉ đạo việc lập bản đồ hành chính các cấp trong phạm vi cả nước và
tổ chức thực hiện việc lập bản đồ hành chính toàn quốc, tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ
chức thực hiện việc lập bản đồ hành chính huyện, quận,thị xã, thành phố
thuộc tỉnh.
Bản đồ hành chính không trực tiếp giúp cho công tác quản lý nhà nước
về đất đai như bản đồ địa chính nhưng nó rất quan trọng trong công tác quản

lý hành chính nhà nước nói chung, trong đó có đất đai.
1.2.2.3 Công tác khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử
dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất;
điều tra xây dựng giá đất
* Công tác khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử
dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất
Trong một thời gian dài, suốt từ khi thực hiện Quyết định số 201/CP
năm 1980 đến nay, việc "khảo sát, đo đạc" luôn được xếp lên vị trí thứ nhất
trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Nước ta luôn chú ý đến việc điều
tra, khảo sát đất đai; sau đó đo đạc, xây dựng bản đồ địa chính, xây dựng bản
đồ hiện trạng sử dụng đất, xây dựng bản đồ quy hoạch sử dụng đất để phục vụ
cho công tác quản lý nhà nước về đất đai. Bởi vì, chỉ có thông qua việc điều
tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá đất đai mới có thế phân chia toàn bộ quỹ đất
19


đai trong toàn quốc thành các loại, các hạng thích hợp. Việc này hết sức có ý
nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung, Căn cứ vào kết quả
này, Nhà nước và các cấp, các ngành ở địa phương mới có cơ sở để hoạch
định chính sách phát triển nông lâm nghiệp phục vụ cho chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Hiện nay công tác khảo sát, đo đạc của nước ta đã đạt được những
thành tựu đáng kể, đáp ứng nhu cầu thông tin, phục vụ cho việc quản lý Nhà
nước, nhu cầu của cộng đồng, nâng cao dân trí với hệ thống ảnh hàng không,
vệ tinh các tỷ lệ khác nhau phủ trùm cả nước; hệ thống bản đồ địa hình tỷ lệ
1/50.000 thành lập mới phủ trùm cả nước; bản đồ địa hình đáy biển ở tỷ lệ
1/50.000 và 1/10.000 phủ kín một số vùng biển có nhu cầu phát triển kinh tế;
hệ thống bản đồ địa chính cơ sở, hệ thống bản đồ hành chính cả nước…
* Điều tra, đánh giá tài nguyên đất
Hoạt động điều tra, đánh giá tài nguyên đất đặc biệt có ý nghĩa rất lớn

đối với sản xuất nông nghiệp vì căn cứ vào kết quả của điều tra, đánh giá tài
nguyên đất mà các nhà khoa học giúp các nhà quản lý định hướng và giúp
người sử dụng đất đưa ra quyết định dùng những diện tích đất nông nghiệp cụ
thể vào trồng cây gì, nuôi con gì để đạt hiệu quả cao. Mặt khác, hoạt động này
còn là cơ sở để hàng năm Nhà nước thu thuế sử dụng đất, thuế chuyển quyền
sử dụng đất và quy định giá trị của quyền sử dụng đất làm cơ sở thực hiện khi
bồi thường, khi giao đất, khi cho thuê đất, khi cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất.
* Điều tra, xây dựng giá đất
Giá đất là giá trị của quyền sử dụng đất tính trên một đơn vị diện tích
đất. Việc điều tra và xây dựng giá đất được sử dụng làm căn cứ để tính thuế
đối với việc sử dụng đất và chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật; tính tiền sử dụng đất và tiền thuê; đất khi giao đất có thu tiền sử dụng
20


đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu
dự án có sử dụng đất; tính giá trị quyền sử dụng đất khi giao đất không thu
tiền sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân; xác định giá trị quyền sử dụng đất
để tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước khi doanh nghiệp cổ
phần hóa, lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất; tính giá trị
quyền sử dụng đất để thu lệ phí trước bạ khi chuyển quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật; tính giá trị quyền sử dụng đất để bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng và phát triển kinh tế; tính tiền bồi thường đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà gây thiệt hại cho Nhà nước theo qui
định của pháp luật.
1.2.2.4 Công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là định hướng khoa học cho việc
phân bổ sử dụng đất theo mục đích và yêu cầu của các ngành kinh tế, phù hợp

với tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương và của cả nước ở từng
giai đoạn cụ thể. Quy hoạch sử dụng đất được lập cho giai đoạn 10 năm, kế
hoạch sử dụng đất được lập cho giai đoạn 5 năm. Mục đích của công việc
này là để sử dụng đất một cách khoa học, hợp lý, hiệu quả cao và ổn định
Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng không chỉ trước mắt mà cả lâu dài. Đây là một căn cứ pháp lý, kỹ thuật
quan trọng cho việc điều tiết các quan hệ đất đai như: giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
Ngay từ thời kỳ nước ta mới thống nhất, công tác quy hoạch, kế hoạch
đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Khi đó Hội đồng Bộ trưởng đã lập Ban
chỉ đạo phân vùng quy hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp Trung ương để triển
khai công tác này trên phạm vi cả nước.

21


Quy hoạch đất đai theo lãnh thổ hành chính cấp tỉnh, thành phố và đã
được triển khai thực hiện ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Việc
lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm được các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thực hiện đầy đủ và đúng thời hạn, hàng năm đều đạt 100% chỉ tiêu.
1.2.2.5 Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất
Nhà nước giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết
định hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
Nhà nước cho thuê đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng
hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền
sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật đất đai.
Chuyển mục đích sử dụng đất là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

ra quyết định hành chính cho phép chuyển mục đích sử dụng với diện tích đất
cụ thể từ mục đích này sang mục đích khác.
Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép người sử dụng đất chuyển
mục đích sử dụng đất đều là các hoạt động trao quyền sử dụng đất từ Nhà
nước cho người sử dụng hoặc đồng ý cho người đang sử dụng đất chuyển
sang sử dụng vào mục đích khác. Các hoạt động này đều nhằm:
- Đảm bảo cho đất đai được phân phối và phân phối lại cho các đối
tượng sử dụng được sử dụng hợp pháp, đúng mục đích mà Nhà nước đã quy
định, đạt hiệu quả cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Đáp ứng được nhu cầu của mọi đối tượng sử dụng đất, kể cả trong
nước và nước ngoài.

22


- Xác lập mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước với người sử dụng làm
cơ sở để giải quyết mọi mối quan hệ về đất đai và người sử dụng yên tâm thực
hiện các quyền của mình trên diện tích đất đó.
1.2.2.6 Công tác quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, giữ vai trò rất quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội và sự ổn định đời sống của người dân. Trong quá trình
phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc thu hồi đất
để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế - xã
hội là một quá trình tất yếu, tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Để bù
đắp cho họ một phần thiệt thòi đó, Nhà nước ta đã ban hành chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho người bị thu hồi đất.
Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dành cho người bị thu hồi đất,
từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho người
có đất bị thu hồi ổn định đời sống và sản xuất, với những quy định phù hợp,
bảo đảm quyền lợi và sự bình đẳng cho người có đất bị thu hồi; hài hòa lợi ích

giữa Nhà nước, người có đất bị thu hồi, nhà đầu tư thực hiện các dự án; hạn
chế khiếu nại, tố cáo trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất.
1.2.2.7 Công tác đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất
- Công tác đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa, cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
chính là biện pháp Nhà nước nhằm theo dõi tình hình sử dụng và biến động
thường xuyên của đất đai, đồng thời thiết lập quyền sử dụng đất hợp pháp của
người sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để người sử dụng đất và cơ
quan quản lý đất đai thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Công
23


tác đăng ký quyền sử dụng đất được tiến hành đối với toàn bộ các chủ sử
dụng đất trên địa bàn, không phân biệt chủ sử dụng, mục đích và nguồn gốc
sử dụng đất. Nội dung công tác nhằm thống kê và quản lý toàn bộ quỹ đất
hiện đang được sử dụng của địa phương.
Đối với Nhà nước: đăng ký đất đai là một công cụ giúp Nhà nước nắm
chắc và quản lý chặt tài nguyên đất đã giao cho người sử dụng đất. Thông qua
đó, Nhà nước sẽ tiến hành các biện pháp quản lý đất đai có hiệu quả và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất.
Đối với người sử dụng đất: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý công nhận
quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất, tạo điều kiện để họ yên
tâm sản xuất, khai thác sử dụng đất có hiệu quả cao và thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ đối với Nhà nước theo pháp luật.
Tính đến 31/12/2015, hầu hết các xã, phường, thị trấn trên toàn quốc đã
tổ chức thực hiện việc đăng ký kê khai quyền sử dụng đất.

- Công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất đảm bảo quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
của người sử dụng, là một công cụ để Nhà nước thực thi công tác quản lý Nhà
nước đối với người sử dụng đất và thửa đất cụ thể.
Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện từ năm 1990 theo quy định của
Luật đất đai năm 1988 và Quyết định số 201 QĐ/ĐKTK ngày 14 tháng 7 năm
1989 của Tổng cục Quản lý ruộng đất (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường).
Song do còn nhiều khó khăn và vướng mắc trong các quy định về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nên tiến độ cấp giấy chứng nhận trong cả nước
24


còn chậm. Từ khi công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực
hiện theo Luật đất đai năm 2003, công tác này mới được đẩy mạnh và đã đạt
được những kết quả tích cực.
1.2.2.8 Công tác thống kê, kiểm kê đất đai
Công tác kiểm kê đất đai được thực hiện định kỳ 5 năm một lần. Công
tác kiểm kê đất đai được đánh giá là vô cùng quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội; kết quả kiểm kê đất đai là căn cứ để UBND các
cấp nghiên cứu, hoạch định các chủ trương, chính sách đảm bảo mục tiêu phát
triển bền vững; tính toán các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai;
làm căn cứ cho việc lập quy hoạch, kế hoạch phát triển của vùng lãnh thổ.
Hàng năm Bộ Tài nguyên và Môi trường có kế hoạch hướng dẫn việc
thực hiện thống kê đất đai đến các địa phương và triển khai thực hiện vào
ngày 01/01 hàng năm. Bên cạnh thống kê đất đai thì cứ 5 năm Bộ Tài nguyên
và Môi trường lại tổ chức kiểm kê đất đai trong cả nước.
1.2.2.9 Công tác xây dựng hệ thống thông tin đất đai

Xây dựng hệ thống thông tin đất đai theo hướng thống nhất, với định
hướng đây là một hệ thống thông tin lõi sử dụng thống nhất trên địa bàn cả
nước, liên thông kết nối với các sở ban ngành.ẫây dựng và đưa vào sử dụng
hệ thống thông tin đất đai là ứng dụng một giải pháp toàn diện về đăng ký đất
đai, hồ sơ địa chính; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; cấp phép xây dựng, ghi nhận biến động
quyền sử dụng đất - quyền sở hữu tài sản trên đất và biến động xây dựng phát
triển đô thị theo một phương thức hiện đại, nhằm cải cách đơn giản các thủ
tục hành chính trong quản lý, tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận đầy đủ thông tin
đất đai giữa các phòng ban chuyên môn và công khai thông tin về đất đai,
thông tin về quy hoạch xây dựng.

25


×