Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Đánh giá được khả năng tích lũy cacbon trên mặt đất của các thảm cây bụi tại vườn quốc gia Tam Đảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 62 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi cùng với sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thế Hưng. Các số liệu , kết quả nghiên
cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.

1


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt
thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, em đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy, Cô, gia đình và bạn bè. Với lòng biết
ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hưng, người đã tận
tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy cô giáo đã giảng dạy em
trong bốn năm qua, những kiến thức mà em nhận được trên giảng đường đại học sẽ
là hành trang giúp em vững bước trong tương lai.
Em cũng muốn gửi lời cảm ơn đến các anh chị trong ban quản lý vườn quốc
gia Tam Đảo, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã giúp đỡ và cho em những tài liệu,
thông tin quan trọng để hoàn thành luận văn nghiên cứu.
Nguồn kiến thức thì là vô tận, và thời gian hoàn thành khóa luận còn hạn chế
nên trong quá trình thực hiện khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận được những góp ý vô cùng quý giá của quý thầy cô để khóa luận được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, ngày

tháng


Sinh viên thực hiện

Dương Anh Tuấn

2

năm


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
CDM
UNFCCC

Chữ viết đầy đủ
Cơ chế phát triển sạch
(Clean Development Mechanism)
Công ước chống biến đổi khí hậu toàn cầu

KNK

(United Nations Framework Convention on Climate Change)
Khí nhà kính

OTC

Ô tiêu chuẩn

ARCDM


Dự án trồng rừng/ tái trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch

3


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CAM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH

4


DANH MỤC BẢNG

5


DANH MỤC HÌNH

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biến đổi khí hậu, hiện tượng nóng lên của trái đất đang là vấn đề nghiêm
trọng và là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Sự gia tăng nhanh chóng nồng độ

khí nhà kính (KNK) trong khí quyển gồm: CO 2, CH4, N2O, HFCs, BFCs, FS6. Trong
đó chủ yếu là CO2, được coi là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự biến
đổi khí hậu. Nguồn phát sinh KNK là sử dụng năng lượng từ việc đốt cháy nhiên
liệu, sản xuất công nghiệp (khai thác khoáng sản, sản xuất hoá chất…) sản xuất
nông lâm nghiệp (sử dụng phân bón, cháy rừng...) và quản lý chất thải.
Nhằm hạn chế sự gia tăng KNK và sự nóng lên của trái đất, Công ước
khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã được soạn thảo và
thông qua tại hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và phát triển năm 1992 và
chính thức có hiệu lực vào tháng 3 năm 1994.
Tính đến tháng 5 năm 2004, có 188 quốc gia đã phê chuẩn công ước này. Để
thực hiện công ước này, nghị định thư Kyoto đã được soạn thảo và thông qua năm
1997. Nghị định này là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện việc cắt giảm KNK thông
qua các cơ chế khác nhau, trong đó cơ chế phát triển sạch (CDM - Clean
Development Mechanism) là cơ chế mềm dẻo nhất và có liên quan trực tiếp tới các
nước đang phát triển.
Hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng được coi là các hoạt động sử dụng
đất phù hợp nhất trong CDM. Tuy nhiên, một trong những yêu cầu nghiêm ngặt
trong các dự án trồng rừng/ tái trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch (ARCDM) là
phải xác định được lượng cacbon cơ sở (thực chất là trữ lượng cacbon trước khi
trồng rừng/tái trồng rừng) nhằm đề ra các cơ sở khoa học để chứng minh được
lượng tăng thêm hay lượng cacbon thu nạp được bởi các dự án ARCDM. Do vậy ,
những nghiên cứu trữ lượng cacbon trong sinh khối cây bụi - một trong những bể
chứa cacbon chủ yếu được tiến hành nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác
định lượng cacbon cơ sở trong việc thiết kế và triển khai các dự án ARCDM ở Việt
Nam.
Vườn quốc gia Tam Đảo là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trọn
trên dãy núi Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80 km, rộng 10–15 km chạy theo

7



hướng Tây Bắc-Đông Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh: Vĩnh Phúc (huyện Tam
Đảo), Thái Nguyên (huyện Đại Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà
Nội khoảng 75 km về phía Bắc. Chính sách bảo vệ và phát tiển rừng của Vĩnh Phúc
nói chung và huyện Tam Đảo nói riêng được xếp vào loại tốt nhất trong cả nước.
Nhận thức sớm tầm quan trọng của công tác bảo tồn thiên nhiên.Vì vậy, ngày
15 tháng 5 năm 1996 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có
quyết định số 601 NN-TCCB/QĐ về việc thành lập Vườn quốc gia Tam Đảo trực
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Vườn quốc gia Tam Đảo có 1.282
loài thực vật, thuộc 660 chi, thuộc 179 họ thực vật bậc cao có mạch, trong đó có các
loài điển hình cho vùng cận nhiệt đới. Có 42 loài đặc hữu và 64 loài quý hiếm cần
được bảo tồn, nên việc bảo vệ rừng ngoài giá trị về gỗ thì sinh khối và trữ l ượng
cacbon được cho là khá lớn, có tiềm năng cao trong việc hấp thụ cacbon. Mặt khác
cây bụi, thảm tươi là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ sinh thái rừng.
Thông qua quá trình đồng hóa CO2, lớp cây bụi thảm tươi cũng tích lũy một lượng
sinh khối không nhỏ song song với quá trình tích lũy sinh khối của tầng cây gỗ. Vì
vậy, sinh khối cây bụi thảm tươi là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của
sinh khối rừng.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu sinh khối và trữ lượng cacbon ở thảm cây bụi
của rừng thuộc vươn quốc gia Tam Đảo sẽ cung cấp cơ sở khoa học quan trọng
trong việc kiểm kê khí nhà kính và thương mại giá trị cacbon của rừng nhằm bổ
sung dẫn liệu về cấu trúc sinh khối và khả năng tích luỹ cacbon của thảm thực vật
làm cơ sở xác định lượng cacbon cơ sở trong dự án trồng rừng theo cơ chế sạch ở
Việt Nam.
Với lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài:“Nghiên cứu sinh khối và khả năng
tích luỹ cacbon của thảm cây bụi tại Vườn quốc gia Tam Đảo, huyện Tam Đảo,
Tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được sinh khối trên mặt đất của một số thảm cây bụi tại vườn
quốc gia Tam Đảo .

- Đánh giá được khả năng tích lũy cacbon trên mặt đất của các thảm cây bụi
tại vườn quốc gia Tam Đảo .

8


3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu sinh khối
- Nghiên cứu hàm lượng cacbon trong sinh khối
- Đánh giá khả năng tích lũy cacbon trên mặt đất của thảm cây bụi

9


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.

Cơ sở lý luận

1.1.1. Quá trình quang hợp ở thực vật
Quang hợp là quá trình biến đổi chất vô cơ thành chất hữu cơ của thực vật có
chất diệp lục. Dưới tác dụng của ánh sáng.
Phương trình quang hợp:
6CO2 + 6H2O = C6H12O6 + 6 O2 + 6H2O
(Điều kiện: ánh sáng mặt trời, chất diệp lục)
Đây chính là phương trình chứng minh khả năng hấp thụ khí CO2 của thực
vật có chứa diệp lục, trong đó có cây bụi - đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Bản chất của quá trình quang hợp là sự khử khí CO2 đến hydratcacbon với

sự tham gia của năng lượng ánh sáng mặt trời do sắc tố của thực vật hấp thu.
Ý nghĩa sinh học cơ bản của quá trình quang hợp là lấy năng lượng tự do từ
môi trường xung quanh rồi tích luỹ nó dưới dạng các phân tử hữu cơ bền vững. Vai
trò có một không hai của quang hợp là làm cho CO 2 (sản phẩm cuối cùng của sự
phân giải các hợp chất hữu cơ) lại được quay trở lại, đi vào chu trình các chất trong
tự nhiên tạo thành chất hữu cơ ban đầu. Không có điều đó, thì không có sự tồn tại
của sự sống.

1.1.2. Tích lũy sinh khối và cacbon ở thực vật
Sinh khối được xác định là tất cả chất hữu cơ ở dạng sống và chết (còn ở trên
cây) ở trên hoặc ở dưới mặt đất [15]. Sinh khối được xem như một chỉ tiêu để đánh
giá sức sản xuất của thực vật và cũng là một chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh học
của thực vật.
Thực vật có khả năng quang hợp đã hấp thụ CO2 và thải lượng O2 tương
ứng vào môi trường, đồng thời tích lũy sinh khối ở dạng carbon. Do đó, nghiên cứu
sinh khối thực vật là cần thiết, đây là cơ sở xác định lượng cacbon tích lũy và từ đó
đánh giá khả năng hấp thụ CO 2 của thực vật, cung cấp thông tin quan trọng giúp

10


các nhà quản lý đánh giá chất lượng cũng như sử dụng hiệu quả thảm thực vật, tham
gia thị trường cacbon, làm cơ sở cho chi trả dịch vụ môi trường.

1.2.

Các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu

1.2.1. Những công trình nghiên cứu về sinh khối của thảm cây bụi trên thế giới và
Việt Nam




Trên thế giới
Sự gia tăng nồng độ CO2 trong khí quyển là mối quan tâm toàn cầu.
Các nhà nghiên cứu lo ngại rằng sự gia tăng các khí gây hiệu ứng nhà kính,
đặc biệt là khí CO2, chính là nhân tố gây nên những biến đổi bất ngờ và không
lường trước của khí hậu. Trong khi đó rừng được ví như lá phổi xanh
của trái đất, rừng có vai trò quan trọng hấp thu khí cacbonic, sản sinh ra khí
oxy cần thiết cho sự sống. Rừng giữ vai trò trong việc chống biến đổi khí hậu
toàn cầu, cung cấp oxy cho khí quyển và hấp thụ lượng khí cacbonic.
Vì lẽ đó, nhiều nhà bác học trên thế giới đã tiến hành nghiên cứu về sinh khối và
khả năng hấp thu carbon của rừng.
P.S.Roy, K.G.Saxena và D.S.Kamat người Ấn Độ sinh năm 1960 trong
công trình nghiên cứu “Đánh giá sinh khối thông qua viễn thám” đã nêu tổng
quát vấn đề sản phẩm sinh khối và việc đánh giá sinh khối dựa vào ảnh vệ tinh.
Một số tác giả như Trasnean (1926), Huber (Đức, 1952), Monteith (Anh,
1960 – 1962), Lemon (Mỹ, 1960 – 1987), Inone (Nhật, 1965 – 1968),… đã dùng
phương pháp Dioxit cacbon để xác định sinh khối. Theo đó sinh khối được đánh
giá bằng cách xác định tốc độ đồng hóa CO2.
Khi xem xét các nghiên cứu Whitaker, R.H (1961 – 1966) Mart, P.L
(1971) cho rằng “Số đo năng suất chính là số đo về tăng trưởng, tích lũy sinh
khối ở cơ thể thực vật tích lũy trong quần xã”.
Newbuold.P.J (1967) đề nghị phương pháp “cây mẫu ” để nghiên cứu
sinh khối và năng suất của quần xã từ các ô tiêu chuẩn. Phương pháp này đã
được chương trình quốc tế “IBP” thống nhất áp dụng.
Edmonton. Et. Al đề xuất phướng pháp Oxygen năm 1968 nhằm định
lượng oxugen tạo ra trong quá trình quang hợp của thực vật màu xanh. Từ đó
tính ra được năng suất và sinh khối rừng.
Năm 1973 Ferreira đã công bố công trình nghiên cứu: “Sản lượng gỗ khô

của rừng trồng thông” ở Brazil làm cơ sở cho việc nghiên cứu sinh khối khô sau
này cho các nhà khoa học.

11


Năm 1976 một công trình khoa học đã được công bố về nghiên cứu “
Tăng trưởng trọng lượng gỗ khô hay sinh khối khô của các cây sau bón phân”
của các nhà khoa học Thái Lan Pitaya – Petmak.
Canell, M.G.R (1982) đã công bố công trình “Sinh khối và năng suất sơ
cấp rừng thế giới” trong đó tập hợp 600 công trình đã được xuất bản về sinh khối
khô thân, cành, lá và một số thành phần, sản phẩm sơ cấp cũ hơn 1200 lâm phần
thuộc 46 nước trên thế giới.
Trong những năm gần đây, các phương pháp nghiên cứu định lượng, xây
dựng các mô hình dự báo sinh khối cây rừng đã được áp dụng thông qua các mối
quan hệ giữa sinh khối cây với các nhân tố điều tra cơ bản, dễ đo đếm như đường
kính ngang ngực, chiều cao cây giúp cho việc dự đoán nhanh sinh khối và tiếp
kiệm chi phí.
Theo Mc Kenzie (2001) [23], cacbon trong hệ sinh thái rừng thường tập
trung ở các bộ phận chính như: Thảm thực vật còn sống trên mặt đất, rễ cây và
đất rừng. Việc xác định lượng cacbon trong rừng được thực hiện thông qua việc
xác định sinh khối rừng.
Phương pháp lấy mẫu rễ để xác định sinh khối được mô tả bởi Shurrman
và Geodewaaen (1971), Moore (1973). Gadow và Hui (1999), Oliveira và cộng
sự( 2000), Voronoi( 2001), Mc KenZie và cộng sự năm (2001).
Có nhiều phương pháp ước tính sinh khối cho cây bụi và tầng dưới trong
hệ sinh thái rừng (Catchpole và Wheeler, 1992). Các phương pháp bao gồm: (1)
Lấy mẫu toàn bộ cây (Quadrats); (2) Phương pháp kẻ theo đường; (3) Phương
pháp mục trắc; (4) Phương pháp lấy mẫu kép sử dụng tương quan. Tuy nhiên
việc sử dụng sinh khối cũng không dễ dàng, đặc biệt là sinh khối phần dưới mặt

đất như hệ rễ, trong đất rừng nên việc sáng tỏ vấn đề trên đòi hỏi nhiều nghiên
cứu nhiều hơn và chuyên sâu hơn nữa đưa ra được những tài liệu và dẫn chứng
quan trọng mang tính thực tế và thuyết phục cao.
Các nhà khoa học hiện đang cố gắng xác định quy mô của các vùng dự
trữ cacbon toàn cầu và sự đóng góp của rừng vào các khu dự trữ và sự thay đổi
về lượng cacbon được dự trữ, tiêu biểu như các công trình: Bolin (1977); Post,
Emanuel và cộng sự (1993); Dixon, Brown (1994); Malhi, Baldocchi (1999).
Malhi, Baldocchi (1999) công bố kết quả nghiên cứu về lượng phát thải
cacbon hàng năm và lượng dự trữ trong sinh quyển. Từ đây ta thấy sự phát thải

12


từ các hoạt động của con người như đốt nhiên liệu hóa thạch, chặt phá rừng,…
tạo ra 7,1 ± 1,1 Gt C/năm đi vào khí quyển, trong đó có 46% còn lưu lại trong
khí quyển, 2,0 ± 0,8 Gt C/năm được chuyển vào đại dương; 1,8 ± 1,6 Gt C/năm
được giữ lại trong các bể trữ cacbon trái đất.
Ở Thái Lan, theo Aksornkoea S. Và cộng sự (1987) ( dẫn theo Vũ Đoàn
Thái (2003) [22] nghiên cứu sinh khối cho thấy rừng đước đôi ( Rhizophora
apiculata ) là cao nhất với 710,9 tấn/ha.
Năm 2000, Akira k. và cộng sự ( dẫn theo Viên Ngọc Nam, 2003) [9] đã
nghiên cứu sinh khối và kích thước rễ duới mặt đất với tổng sinh khối của cây Dà
vôi ( Ceriops tagal) là 437,5 tấn/ha.
Các nghiên cứu trên đều quan tâm đến sinh khối và khả năng hấp thụ CO 2
của rừng và cho thấy tầm quan trọng và những giá trị của rừng đối với môi
trường, rừng vừa lưu trữ vừa hấp thụ khí CO 2, giảm thiểu hiệu ứng nhà kính tác
động lên môi trường sống.
Hiện nay biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu đang là vấn đề nóng được
nhiều sự quan tâm của các quốc gia, nhất là các quốc gia có đường bờ biển, nhận
biết được tầm quan trọng của vấn đề này chúng ta đã tiến hành việc hạn chế sự

gia tăng khí nhà kính và sự ấm lên của trái đất, Công ước khung của Liên hợp
quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC – United Nation Frameword Convention on
Climate Change) đã được soạn thảo và thông qua tại hội nghị Liên hợp quốc về
môi trường và phát triển năm 1992 và chính thức có hiệu lực vào tháng 3/1994.
Tính đến tháng 5/2004, có 188 quốc gia đã phê chuẩn công ước này, trong đó
nghị định Kyoto được thông qua tháng 12/1997 dựa trên công ước khung đã
đăng tạo cơ sở pháp lý cho việc cắt giảm khí nhà kính. Các nghiên cứu liên quan
tập trung vào tìm ra các dẫn chứng về kho dự trữ cacbon tại các lớp phủ thực vật
và tìm ra cách để các bể chứa này có thể tham gia tăng lưu lượng dự trữ CO 2 từ
khí quyển. Đây là những nghiên cứu rất quan trọng đặc biệt là đối với các nước
công nghiệp đang phát triển cần đạt được sự giảm thải theo Nghị định thư Kyoto.



Ở Việt Nam
Nghiên cứu sinh khối ở nước ta được tiến hành vào những năm 50 của thế kỷ
trước, mặc dù mặc dù các nghiên cứu về sinh khôi khá muộn và tản mạn không có

13


hệ thống nhưng cũng đã đem lại một số những thành tựu rất có ý nghĩa và để lại
nhiều dấu ấn.
Trong những năm gần đây, nghiên cứu sinh khối thực vật được nhiều nhà
khoa học quan tâm và đã có nhiều kết quả đáng ghi nhận, góp phần quan trọng
trong việc đánh giá, quản lý và sử dụng hiệu quả các thảm thực vật (rừng).
Hoàng Mạnh Trí (1986) với công trình “Sinh khối và năng suất rừng Đước”
đã áp dụng phương pháp “cây mẫu” nghiên cứu năng suất, sinh khối một số quần xã
rừng Đước đôi (Zhizophora apiculata) rừng ngập mặn ven biển Minh Hải là đóng
góp có ý nghĩa lớn về mặt lý luận và thực tiễn đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn

ven biển nước ta [16].
Hà Văn Tuế (1994) cũng trên cơ sở phương pháp “cây mẫu” của Newboul,
P.J (1967) nghiên cứu năng suất, sinh khối một số quần xã rừng trồng nguyên liệu
giấy tại vùng trung du Vĩnh Phúc [20] .
Lê Hồng Phúc (1996) đã có công trình “Đánh giá sinh trưởng tăng trưởng,
sinh khối và năng suất rừng trồng Thông ba lá (Pinus keysia) ở vùng Đà Lạt, Lâm
Đồng”. Tác giả đã kết luận, rằng mật độ rừng trồng ảnh hưởng lớn tới sinh trưởng,
tăng trưởng, sinh khối và năng suất của rừng [9].
Vũ Văn Thông (1998) đã nghiên cứu cơ sở xác định sinh khối cây cá lẻ và
lâm phần Keo lá tràm tại tỉnh Thái Nguyên. Tác giả cũng đã thiết lập được một số
mô hình dự đoán sinh khối cây cá lẻ bằng phương pháp sử dụng cây mẫu. [17].
Viên Ngọc Nam ( 1998 ) [8] nghiên cứu về sinh khối rừng đước đôi ở Cần
giờ , thành phố Hồ Chí Minh cũng đã xác định được sinh khối tổng số , sinh khối
trên mặt đất cũng như cấu trúc sinh khối theo cấp kính , lượng tăng sinh khối hang
năm , tăng trưởng đường kính , năng suất lượng rơi… Theo đó tác giả đã xác định
được sinh khối khô của rừng đước đôi 4, 8, 12, 16, 21 tuổi lần lượt là 16,9 tấn/ha,
92,2 tấn/ha ; 119,71 tấn/ha; 148,26 tấn/ha và 148,71 tấn/ha. Trong đó , sinh khối
than và cành chiếm tỷ lệ cao từ 61- 87,3 % trong các bộ phận của cây đước. Tác giả
nhận định rằng sinh khối của đước là khác nhau và tăng dần theo độ tuổi, tăng
nhanh ở giai đoạn cây từ 4 đến 8 tuổi sau đó tăng chậm cho đến khi cây 16 tuổi và
hầu như ít có sự tăng trưởng về sinh khối ở cây có độ tuổi cao hơn.

14


Nguyễn Văn Dũng (2005), nghiên cứu tại Núi Luốt cho thấy rừng trồng
Thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi có tổng sinh khối tươi ( trong cây và vật rơi rụng ) là
321,7- 495,4 tấn/ha, tương đương với lượng sinh khối khô là 173,4- 266,2 tấn/ha.
Rừng keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng sinh khối tươi ( trong cây và vật
rơi rụng ) là 251,1- 433,7 tấn/ha, tương đương với lượng sinh khối khô là 132,2223,4 tấn/ha [2]


1.2.2. Những nghiên cứu về khả năng tích lũy CO2 trên thế giới và Việt Nam
• Trên thế giới
Quá trình biến đổi cacbon trong hệ sinh thái được xác định từ cân bằng
cacbon gồm cacbon đi vào hệ thống – thông qua quang hợp và tiếp thu các hợp chất
hữu cơ khác - và cacbon mất đi từ quá trình hô hấp của thực vật và động vật, lửa,
khai thác, sinh vật chết cũng như những quá trình khác [14].
Cacbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở bốn bộ phận chính: Thảm
thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng. Việc xác định lượng
cacbon trong rừng thường được thực hiện thông qua xác định sinh khối rừng
Năm 1994 Brown J và Pearce D. W đã nghiên cứu hấp thụ carbon của rừng
nhiệt đới. Kết quả cho thấy một khu rừng nguyên sinh có thể hấp thụ được 280 tấn
C/ha và sẽ cho ra 200 tấn C/ha nếu bị đốt do canh tác nương rẫy và sẽ giải phóng
cacbon lớn hơn nếu diện tích rừng chuyển bị chuyển thành đồng cỏ hay đất để sản
xuất nông nghiệp. Rừng trồng có thể hấp thụ khoảng 115 tấn cacbon và con số này
sẽ giảm từ 1/3 đến 1/4 khi rừng chuyển đổi sang canh tác nông nghiệp [21].
McKenzie N và cộng sự (2001), qua công trình nghiên cứu tương đối toàn
diện và có hệ thống về lượng cacbon tích lũy của rừng, kết quả nghiên cứu cho
thấy: Cacbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở bốn bộ phận chính: Thảm
thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng [23].
Năm 1980, Brawn và cộng sự đã sử dụng công nghệ GIS dự tính lượng
cacbon trung bình trong rừng nhiệt đới châu Á là 144 tấn/ha trong phần sinh khối và
148 tấn/ha trong lớp đất mặt với độ sâu 1m tương đương 42-43 tỷ tấn cacbon trong
toàn châu lục. Tuy nhiên lượng cacbon có biến động rất lớn giữa các vùng và các
kiểu thảm thực bì khác nhau. Thông thường lượng cacbon trong sinh khối biến động
từ dưới 50 tấn/ha đến 360 tấn/ha , phần lớn ở các kiểu rừng là 100-200 tấn/ha ( dẫn

15



theo Phạm Xuân Hoàn , 2005) [3]
Dhruba Bijaya G. C (2008), đã nghiên cứu khả năng tích tụ cacbon của
Dendrocalamus strictus. Kết quả cho thấy: sinh khối là 5,24 tấn/ha trong đó tổng 22
sinh khối thân là 4,59 tấn/ha, tổng sinh khối lá là 0,69 tấn/ha và. Tổng cacbon là
232,06 tấn/ha trong đó: Cacbon tích tụ trong thân là 1,52 tấn/ha, trong lá 0,14
tấn/ha, cacbon rễ 0,08 tấn/ha và cacbon tích lũy trong đất là 230,32 tấn/ha [23].
Houghton (1991) đã nhận định lượng cacbon rừng nhiệt đới châu Á là 40250 tấn/ha , trong đó 50-120 tấn/ha ở phần thực vật và đất.
Brawn (1991) Rừng nhiệt đới đông nam á có lượng sinh khối trên mặt đất từ
50- 430 tấn/ha ( tương đương 25-215 tấn C/ha) và trước khi tác động của con người
thì các trị số tương ứng là 350-400 tấn/ha ( tương đương 175 đến 200 tấn C/ha ) [3].
Các nghiên cứu trên đều quan tâm đến khả năng hấp thụ CO 2 của rừng và
cho thấy tầm quan trọng và những giá trị của rừng đối với môi trường , rừng vừa
lưu trữ vừa hấp thụ khí CO2 , giảm thiểu hiệu ứng nhà kính tác động lên môi trường
sống.

• Ở Việt Nam

Việt Nam đã nhanh chóng kí kết và tham gia cam kết với các tổ chức quốc tế

như: ký Công ước khung, Nghị đinh thư Kyoto, tham gia các dự án CDM, thành lập
các cơ quan đầu mối quốc gia. Việt Nam đã đủ điều kiện theo qui định của thế giới
về việc xây dựng và thực hiện các dự án tiềm năng về CDM trong các lĩnh vực: Bảo
tồn và tiết kiệm năng lượng; Chuyển đổi sử dụng nguyên liệu hóa thạch; Thu hồi và
sử dụng CH4 từ rác thải và khai thác mỏ quặng; Trồng rừng,… Bên cạnh những
năm gần đây Việt Nam đã có những nỗ lực thực nhiện một số nghiên cứu và hoạt
động liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu và CDM. Qua đó đã thu được một sô
thành tựu quan trọng như sau:
Nguyễn Văn Dũng (2005) tại Núi Luốt – Đại học Lâm Nghiệp .Theo kết quả
nghiên cứu, cho thấy rừng Thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi có lượng carbon tích luỹ
là 80,7 - 122 tấn/ha; giá trị tích luỹ cacbon ước tính đạt 25,8 - 39,0 triệu VNĐ/ha.

Rừng Keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng lượng carbon tích luỹ là 62,5 103,1 tấn/ha; giá trị tích luỹ cacbon ước tính đạt 20 - 33 triệu VNĐ/ha. [2].

16


Ngô Đình Quế và cộng sự (2006) đã nghiên cứu khả năng hấp thụ CO 2 của
một số rừng trồng chủ yếu ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, bằng các phương
pháp nghiên cứu đo đếm sinh trưởng, năng suất và sinh khối của rừng trên các lập
địa khác nhau ở nhiều nơi đã đưa ra phân hạng mức độ thích hợp cho từng loại cây
trồng chủ yếu phổ biến hiện nay: Keo tai tượng, Keo lá tràm, Keo lai, Thông ba lá,
Thông mã vi, Thông nhựa và Bạch đàn Urophylla. [12].
Các tác giả thường thiết lập mối quan hệ giữa lượng cacbon tích luỹ của rừng
với các nhân tố điều tra cơ bản như đường kính, chiều cao vút ngọn, mật độ. Đây là
những cơ sở quan trọng cho việc xác định nhanh lượng cacbon tích luỹ của rừng
trồng nước ta thông qua điều tra một số chỉ tiêu đơn giản.
Khả năng tích luỹ cacbon của rừng tự nhiên cũng được quan tâm nghiên cứu.
Vũ Tấn Phương (2006) đã nghiên cứu trữ lượng cacbon theo các trạng thái rừng cho
biết: rừng giàu có tổng trữ lượng cacbon 694,9 - 733,9 tấn CO2 ; rừng trung bình
539,6 - 577,8 tấn CO2/ha; rừng nghèo 387,0 - 478,9 tấn CO2/ha; rừng phục hồi
164,9 - 330,5 tấn CO2/ha và rừng tre nứa là 116,5 - 277,1 tấn CO2/ha [10].
Hoàng Xuân Tý (2004) nếu tăng trưởng rừng đạt 15 m 3/ha/năm, tổng sinh
khối tươi và chất hữu cơ của rừng sẽ đạt được xấp xỉ 10 tấn/ha/năm tương đương 15
tấn CO2/ha/năm , với giá trị thương mại cacbonic tháng 5/2014 biên động từ 3-5
USD/tấn CO2 thì 1ha rừng như vậy có thể đem lại 45-75 USD ( tương đương
675.000 – 1.120.000 đồng Việt Nam ) mỗi năm [22].
Nhóm nghiên cứu Anna Richards, Dương Thị Bích Ngọc , Nguyễn Thị Bích
Hảo, Phí Thị Hải Ninh đã nghiên cứu “Đo đếm và dự đoán sự tích lũy cacbon tại
rừng nhiệt đới của Việt Nam bằng phương pháp xác định cacbon tích lũy trong rừng
bằng mô hình Century” cho phép xác định trước hàm lượng cacbon khi chưa trồng
rừng. Mô hình còn được sử dụng để khảo nghiệm sự kết hợp đất, khí hậu và loài cây

khác nhau để dự đoán sự kết hợp có lưu trữ cacbon lớn nhất từ đó làm cơ sở cho
việc chọn loài thích hợp cho dự án CDM.
Nguyễn Ngọc Lung (2004), công bố nghiên cứu sinh khối rừng Thông ba lá
để tính toán khả năng cố định CO2 mà cây rừng hấp thụ. Đây là công trình nghiên

17


cứu có ý nghĩa trong lĩnh vực khoa học nghiên cứu khả năng hấp thụ CO 2 của rừng,
tạo tiền đề cho việc xây dựng dự án trồng rừng CDM sau này [5].
Đặng Thịnh Triều (2010) khi nghiên cứu khả năng cố định cacbon của rừng
trồng Thông mã vĩ và Thông nhựa đưa ra kết quả: tổng lượng cacbon cố định của
rừng trồng Thông mã vĩ từ 1 - 9 tuổi là: 33,32 - 178,68 tấn/ha, rừng trồng Thông
nhựa là: 51,97 - 170,87 tấn/ha. [17]

1.2.3. Những nghiên cứu về sinh khối và khả năng tích lũy CO2 của thảm cây bụi
Vũ Tấn Phương (2006), Nghiên cứu được tiến hành tại các vùng đất không
có rừng ở các huyện Cao Phong, Đà Bắc tỉnh Hoà Bình và Hà Trung, Thạch Thành,
Ngọc Lạc tỉnh Thanh Hoá. Đã xác định được và đưa ra kết quả về sinh khối tươi,
khô, trữ lượng cacbon trong sinh khối thảm tươi và cây bụi, đưa ra các kết luận sau:
- Sinh khối tươi của thảm tươi và cây bụi biến động rất khác nhau trong các
đối tượng nghiên cứu: Lau lách có sinh khối lớn nhất, khoảng 104 tấn/ha, tiếp đến
là cây bụi cao 2 - 3m có sinh khôí tươi đạt khoảng 61 tấn/ha, cây bụi cao dưới 2m,
cỏ lá tre, cỏ tranh và thấp nhất là cỏ lông lợn/cỏ chỉ có sinh khối biến động khoảng
22-31 tấn/ha. Về sinh khối khô: Lau lách có sinh khối khô cao nhất 40 tấn/ha,cây
bụi cao 2-3m là 27 tấn /ha, cây bụi cao dưới 2m và tế guột là 20 tấn /ha; cỏ lá tre 13
tấn/ha; cỏ tranh 10 tấn/ha; cỏ chỉ, cỏ lông lợn 8 tấn/ha.
- Sinh khối khô và tươi của cây bụi thảm tươi nghiên cứu có sự chênh lệch
đáng kể do hàm lượng nước trong sinh khối tươi chiếm tỉ trọng khá lớn. Tỉ lệ sinh
khối khô so với sinh khối tươi biến động từ 43 - 46% đối với cỏ lá tre, tế guột và

cây bụi. Đối với cỏ lông lợn / cỏ chỉ, cỏ tranh và lau lách thì sinh khối khô chiếm từ
33 - 39% tổng sinh khối tươi của chúng.
- Trữ lượng cacbon của thảm tươi và cây bụi tỉ lệ thuận với sinh khối của
chúng. Trữ lượng cacbon của lau lách là cao nhất, tiếp đến là cây bụi cao 2- 3m, cây
bụi thấp dưới 2 m, cỏ lá tre, cỏ tranh và cỏ lông lợn/cỏ chỉ.
- Hàm lượng cacbon tập trung chủ yếu ở phần sinh khối trên mặt đất (gồm lá,
thân cành, cỏ) và dưới măt đất (rễ). Trữ lượng trên mặt đất chiếm khoảng 40 - 54 %
tổng trữ lượng cacbon và ở rễ là từ 30 - 57%. Đối với thảm mục, tỉ lệ này là khoảng
11 - 34%. Đây là kết quả nghiên cứu rất quan trọng không những chỉ đóng góp cho
phương pháp luận nghiên cứu sinh khối thảm tươi và cây bụi mà còn là căn cứ khoa

18


học để xây dụng kịch bản đường cacbon cơ sở trong các dự án trồng rừng/tái trồng
rừng theo cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam [11]



Tiểu Tiết chương 1 : Qua một số công trình nghiên cứu trong nước và ngoài
nước có liên quan tới đề tài nghiên cứu chúng ta thấy các công trình nghiên
cứu trên thế giới được tiến hành khá đồng bộ ở trên nhiều lĩnh vực cơ bản cho
đến ứng dụng, trong đo nghiên cứu sinh khối và tích lũy cacbon đã được nhiều
tác giả quan tâm đặc biệt trong những năm gần đây, các phương pháp tiến
hành khá đa dạng, phong phú đi sâu và hoàn thiện dần.
Ở nước ta hiện nay nghiên cứu về sinh khối và tích lũy cacbon vẫn còn ít và

chưa chuyên sâu cũng như chưa được công bố, không có hệ thống, các phương
pháp nghiên cứu còn kém tính đa dạng và khả năng ứng dụng, các công trình nghiên
cứu còn thiếu tính chính xác, … Vì vậy đề tài được thực hiện hết sức là cần thiết,

góp phần làm phong phú thêm những hiểu biết về sinh khối và khả năng tích lũy
cacbon ở thảm cây bụi , từ đó làm cơ sở cho việc xác định khả năng hấp thụ cacbon
và tính toán được những giá trị kinh tế, môi trường mà rừng đem lại, tiến đến là tính
lượng cacbon phục vụ cho công việc tính toán chi trả cho dịch vụ môi trường nhằm
phát triển bền vững thảm cây bụi nói riêng và toàn bộ cây lâm nghiệp nói chung.

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỜNG, ĐỊA ĐIỂM THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng : Sinh khối và khả năng tích lũy cacbon trên mặt đất của thảm cây bụi
Phạm vi nghiên cứu : Thảm cây bụi ở ven thị trấn Tam Đảo
2.2. Địa điểm nghiên cứu

19


2.2.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích

• Vị trí
Vườn quốc gia Tam Đảo là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trọn trên
dãy núi Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80 km, rộng 10–15 km chạy theo hướng
Tây Bắc-Đông Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Tam Đảo), Thái
Nguyên (huyện Đại Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà Nội khoảng
75 km về phía Bắc.
Tọa độ địa lý của Vườn quốc gia Tam Đảo: 21°21'-21°42' vĩ Bắc và 105°23'105°44' kinh Đông.
Khu vực nghiên cứu nằm dọc trên đường lên đỉnh núi Tam đảo của vườn
quốc gia Tam đảo, thuộc km11 thị trấn Tam đảo Huyện Tam đảo, Tỉnh Vĩnh phúc.

Hình 2.1 : Bản đồ vườn quốc gia Tam Đảo


• Ranh giới
- Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Tuyên Quang.
- Phía Đông giáp huyện Bình Xuyên và tỉnh Thái Nguyên
- Phía Nam giáp huyện Tam Dương và huyện Bình Xuyên.
- Phía Tây giáp huyện Tam Dương và huyện Lập Thạch.

• Phạm vi và diện tích
20


Nằm trong địa giới 3 tỉnh: Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Có
tổng diện tích là 36.883 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 17.295ha,
phân khu phục hồi sinh thái là 17.286 ha, phân khu hành chính, dịch vụ là 2.320 ha
(bao gồm diện tích thị trấn Tam Đảo) . Vùng đệm: 15.515 ha, bao gồm 23 xã thuộc
6 huyện thị: Tam Dương, Bình Xuyên, Thành phố Vĩnh Yên, Lập Thạch (Vĩnh
Phúc), Sơn Dương (Tuyên Quang), Đại Từ (Thái Nguyên).
2.2.2. Đặc điểm địa hình, địa chất, khí hậu, thủy văn

• Địa hình
Vườn Quốc gia Tam Đảo chiếm giữ toàn bộ hệ núi Tam Đảo, có cấu tạo hình
khối đồ sộ, nằm ở phía bắc đồng bằng Bắc Bộ, chạy dài theo hướng tây-bắc – đông
nam. Cả khối núi có đặc điểm chung là đỉnh nhọn, sườn rất dốc, độ chia cắt sâu và
dầy. Chiều dài khối núi gần 80km, có gần 20 đỉnh cao sàn sàn trên 1000m được nối
với nhau bằng đường dông núi sắc, nhọn. Đỉnh cao nhất là đỉnh Nord (1592m) là
ranh giới địa chính của ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Chiều
ngang biến động trong khoảng 10-15km. Núi cao, bề ngang lại hẹp nên sườn núi rất
dốc, bình quân 25-35 độ, nhiều nơi trên 35 độ nên rất hiểm trở và khó đi lại. Dựa
vào độ cao, độ dốc, địa mạo có thể phân chia dãy núi Tam Đảo thành bốn kiểu địa
hình chính: - Thung lũng giữa núi và đồng bằng ven sông suối: độ cao tuyệt đối cấp
III. Phân bố ở phần trên của khối núi. Các đỉnh và đường dông đều sắc và nhọn.

Như vậy có thể nói địa hình Tam Đảo cao và khá đều (cao ở giữa và thấp dần về hai
đầu nhưng độ chênh không rõ), chạy dài gần 80km theo hướng tây-bắc – đông-nam
nên nó như một bức bình phong chắn gió mùa đông-bắc tràn về đồng bằng và trung
du Bắc Bộ, Vì vậy ảnh hưởng lớn đến chế độ khí hậu và thủy văn trong vùng.

21


• Địa chất
Theo tài liệu của Tổng cục Địa chất, tuổi tuyệt đối mẫu cục lấy ở khu nghỉ
mát Tam Đảo là 267 triệu năm, hơi cao hơn rionit ở dãy Phiabioc có tuổi từ 230 đến
240 triệu năm. Như vậy rionit Tam Đảo có tuổi Triat giáp Nori. Ở phần phía tây của
vùng (mỏ thiếc), các thể xâm nhập granit kết hợp chặt chẽ với rionit kết tinh khá
cao (giống ở dãy núi pháo Đồng Hỷ) chỉ có các đá granit chứa thiếc chắc chắn có
tuổi trẻ hơn (ở cuối chân núi xuất hiện cuội kết thuộc trầm tích kỷ Jura), Trong quá
trình phát sinh và phát triển của địa hình và lịch sử địa chất đã tạo nên một số loại
khoáng sản có nguồn gốc nội sinh như thiếc, vonfram. Năm (1992) mỏ này được
khai thác. Diện tích mỏ lên đến hàng nghìn hecta, nằm ở phía bắc khu bảo tồn. Nhìn
chung các lọai đá này rất cứng. Thành phần khoáng vật có nhiều thạch anh,
mouscovit khó bị phong hóa và hình thành các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ,
cấp hạt thô, dễ bị xói mòn và rửa trôi, nhất là những nơi có độ dốc cao hơn 350. Đất
bị xói mòn rất mạnh để trơ lại tầng đá gốc cứng rắn. Nếu vì một lí do nào đó làm
lớp phủ rừng bị phá hoại trên lập địa này, thì dù có đầu tư cao cũng khó phục hồi lại
lớp phủ rừng như xưa.
Điều tra, nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy Vườn quốc gia Tam Đảo
có 4 loại đất chính gồm :
- Đất Feralit mùn vàng phát triển trên đá macma axít, xuất hiện ở độ cao từ
700 m trở lên, có diện tích 8.968 ha.
-Đất feralit mùn vàng đỏ phân bố trên núi thấp từ độ cao 400–700 m, phát
triển trên đá macma kết tinh có diện tích 9.292 ha.

- Đất feralit đỏ vàng phát triển trên nhiều loại đá khác nhau ở độ cao 100–
400 m, có diện tích 1.7606 ha
- Đất dốc tụ và phù sa ở độ cao từ 100 m trở xuống có diện tích 1.017 ha



Khí hậu
Do địa hình tương đối phức tạp nên khí hậu thời tiết ở Tam Đảo được chia
thành 2 tiểu vùng: Tiểu vùng khí hậu Tam Đảo núi quanh năm mát mẻ, rất thuận
tiện cho việc phát triển kinh tế du lịch và hình thành khu nghỉ mát; Tiểu vùng khí
hậu vùng thấp mang các đặc điểm khí hậu gió mùa nội chí tuyến vùng Đông Bắc
Bắc bộ.

22


Dãy núi Tam Đảo tạo ra 2 sườn Đông và Tây rõ rệt, lượng mưa hàng năm
khác nhau đã góp phần tạo nên các tiểu vùng khí hậu khác biệt. Đây cũng là yếu tố
tạo ra 2 đai khí hậu nóng ẩm,nhiệt đới mưa mùa từ độ cao 700–800 m trở xuống và
đai khí hậu á nhiệt đới mưa mùa, cũng như một số khu vực có nhiệt độ, lượng mưa
rất khác nhau của Tam Đảo. Tất cả tạo nên một Vườn quốc gia Tam Đảo được che
phủ bởi một lớp thảm thực vật dày đặc, nhiều tầng và đa dạng về loài, đa dạng về
quần xã sinh học và hệ sinh thái.



Độ ẩm
- Độ ẩm tương đối bình quân nhiều năm là 87,7%.
- Độ ẩm tương đối trung - bình thấp nhất bình quân nhiều năm là 76,2%;
- Độ ẩm tương đối thấp nhất tuyệt đối là 6%.

- Độ ẩm tuyệt đối trung bình là 19,1%.
- Sương mù: Hàng năm bình quân có 118 ngày có hiện tượng sương mù.
- Số giờ nắng: Một năm bình quân có 1212 giờ.
- Tổng lượng bốc hơi: Bình quân nhiều năm là 512mm, là khá thấp so với
bình quân - bốc hơi toàn quốc.
- Tốc độ gió: Bình quân là 3,0m/s; tốc độ gió cực đại đến 30m/s.
- Độ ẩm tương đối trung bình 85-86 %. Độ ẩm bình quân khu vực thấp là 8184%, trên cao là 87%. Vùng núi cao quanh năm có sương mù tạo nên cảnh quan rất
đẹp. Khu vực vùng núi có độ ẩm cao hơn khu vực thấp, nhất là khi có mưa phùn.
- Lượng mưa trung bình 2570 mm/năm. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10,
chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Tuy nhiên, mưa nhiều vào các tháng 6, 7, 8 và 9.
- Do ảnh hưởng của điều kiện địa hình, địa mạo nên nhiệt độ vùng thấp biến
động từ 22,9 đến 23,7 độ C, tháng lạnh nhất trên 15 độ (tháng 1), tháng nóng nhất
trên 28 độ (tháng 7). Riêng vùng núi có nền nhiệt độ thấp hơn cả, bình quân là 18
độ C, lạnh nhất là 10,8 độ (tháng1), tháng nóng nhất 23 độ (tháng 7). Đáng chú ý là
nhiệt độ khu nghỉ mát Tam Đảo thấp hơn nhiệt độ ở thành phố Vĩnh Yên khoảng 6
độ C.
- Hướng gió chủ đạo: Mùa hè là hướng Đông Nam, mùa Đông là hướng
Đông Bắc.
Nhìn chung, khí hậu ở Tam Đảo tương đối thuận lợi cho phát triển nông

23


nghiệp, đặc biệt vùng Tam Đảo núi có chế độ khí hậu lý tưởng cho việc phát triển
các khu nghỉ mát và phát triển du lịch sinh thái.



Thủy văn
Trong khu vực có hai hệ thống sông chính, đó là sông Phó Đáy ở phía tây

(Tuyên Quang, Vĩnh Phúc) và Tam Đảoở phía đông (Thái Nguyên). Đường phân
thủy rõ rệt nhất của hai hệ thống sông này là đường dông nối các đỉnh núi suốt từ
Mỹ Khê ở cực nam đến Đèo Khế ở điểm cực bắc. Mạng lưới sông suối hai sườn
Tam Đảo dồn xuống hai hệ thống sông này có dạng chân rết khá dày đặc và ngắn,
có cấu trúc dốc và hẹp lòng từ đỉnh xuống chân núi. Từ chân núi trở đi sông lại có
dạng uốn khúc phức tạp trên mặt cánh đồng khá bằng phẳng, tương ứng với dạng
địa hình đã tạo ra nó. Mật độ sông suối khá dày (trên 2km/km2), các suối có thung
lũng hẹp, đáy nhiều ghềnh thác, độ dốc lớn, khả năng điều tiết nước kém, chúng là
kết quả của quá trình xâm thực. Do đặc điểm khí hậu mưa lớn, mùa mưa dài, lượng
bốc hơi ít (ở đỉnh Tam Đảo) nên cán cân nước dư thừa. Đó là nguyên nhân làm cho
các dòng chảy từ đỉnh Tam Đảo xuống có nước quanh năm. Nhưng chế độ thủy văn
lại chia thành hai mùa khá rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ trùng với mùa mưa (từ
tháng 4 đến tháng 10), mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lũ lớn thường
xảy ra vào tháng 8, lũ thường tập trung nhanh và rút cũng nhanh. Sự phân phối
dòng chảy rất không đều giữa hai mùa (xem bảng) (Sự phân phối dòng chảy theo
mùa của hai hệ thống sông). Như vậy lưu vực sông Phó Đáy lớn hơn Tam Đảovà
tổng lượng nước chảy cũng lớn hơn sông Công. Độ chênh lệch lượng nước chảy
mùa lũ và mùa cạn cũng rất lớn. Mô đun dòng chảy các mùa cũng thay đổi rất đáng
kể. (Mô đun dòng chảy hai hệ thống sông Phó Đáy và sông Công) Lưu lượng dòng
chảy lớn nhất tuyệt đối là 331m3/s, so với lưu lượng nhỏ nhất - tuyệt đối 3,7m3/s
thì lớn gấp 90 lần. - Độ đục lớn nhất 541g/m3, gấp 100 lần độ đục nhỏ nhất. Lượng bùn cát lơ lửng 3,2kg/s với tổng lượng bùn cát là 101.000T/năm - Môđun
xâm thực trên sông Phó Đáy tới 84,8T/km2. Dòng chảy mùa cạn do không có mưa
to nên nguồn nước cung cấp cho sông hoàn toàn là do nước ngầm (phụ thuộc vào
lớp vỏ phong hóa địa chất và lượng mưa phùn mùa đông). Cả hai sông đều có dòng
chảy rất nhỏ. Như vậy khả năng cung cấp nước cho mùa đông là rất hạn chế. Các

24


dòng sông suối trong vùng không có khả năng vận chuyển thủy, chỉ có thể dùng làm

nguồn thủy điện nhỏ cho từng gia đình dưới chân núi. Trong vùng cũng có những
hồ chứa cỡ lớn như Hồ Núi Cốc, Hồ Đại Lải, các hồ cỡ trung bình hoặc nhỏ như Hồ
Xạ Hương, Khôi kỳ, Phú Xuyên, Linh Lai, Hồ Sơn,…Đó là nguồn dự trữ nước khá
phong phú phục vụ nhu cầu dân sinh và sản xuất của nhân dân trong vùng.



Nguồn nước
Tam Đảo có sông Phó Đáy và nhiều suối nhỏ ở ven các chân núi. Những
năm gần đây, rừng được bảo vệ tốt hơn nên nguồn sinh thuỷ được cải thiện, nguồn
nước tương đối dồi dào. Đây là điều kiện thuận lợi về tưới nước, phục vụ phát triển
sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
Nước mặt
Nguồn nước mặt chủ yếu là các sông suối, ao, hồ. Hiện nay, trên địa bàn đã
được xây dựng một số hồ nước tương đối lớn phục vụ cho phát triển sản xuất như:
Hồ Xạ Hương với dung tích chứa 23 triệu m3, Hồ Làng Hà 2,3 triệu m3, hồ Vĩnh
Thành dung tích 2 triệu m3, Theo đánh giá của Công ty khai thác các công trình
thuỷ lợi cho thấy chất lượng nguồn nước mặt ở tất cả các hồ chứa đều khá tốt, có
thể khai thác, xử lý để cung cấp nước cho sinh hoạt.
Nước ngầm
Hiện nay chưa có nghiên cứu nào về khai thác nước ngầm nhưng qua khảo
sát cho thấy, chất lượng nước ngầm ở các giếng khoan của nhân dân khá tốt. Do vậy
có thể cho phép nhận định nguồn nước ngầm ở Tam Đảo tương đối dồi dào, đảm
bảo chất lượng để khai thác nước sinh hoạt.

 Đánh giá chung về khí hậu, thủy văn vườn quốc gia Tam đảo
Khí hậu trong vườn quốc gia Tam đảo mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới
gió mùa, mát vào mùa hè, lạnh về mùa đông. Đặc biệt vào mùa đông nhiệt độ rất
thấp, lại có sương mù, sương muối ở vùng cao trên 700m nên ít nhiều gây cản trở
tới các hoạt động sản xuất lâm nghiệp. Từ độ cao 800m trở lên khí hậu có đặc điểm

ôn đới, mát mẻ và rất thích hợp cho nhiều loài cây á nhiệt đới sinh trưởng và phát
triển cũng như sự nghỉ ngơi, an dưỡng của con người.



Tài nguyên đất
Hiện trạng đất đai tài nguyên rừng vườn quốc gia Tam Đảo

25


×