Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Lí luận giá trị lao động của c mac là lí luận hoàn chỉnh, khoa học nhất ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.62 KB, 64 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................3
II.NỘI DUNG.............................................................................................5
1. Lí do chọn đề tài.....................................................................................5
2. Mục đích,đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu...............5
2.1. Mục đích nghiên cứu.............................................................................5
2.2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................6
2.3. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................6
2.4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................6
3. Lí luận giá trị - lao động của một số nhà kinh tế tư sản cổ điển........6
3.1. Những lí luận ban đầu về giá trị - lao động của William Petty...........6
3.2. Sự phát triển lí luận giá trị-lao động Adam Smith................................8
3.3. Sự bổ sung về lí luận giá trị - lao động của David Ricardo..........13
4. Lí luận của C.Mác về học thuyết giá trị - lao động............................18
4.1. Sơ lược về học thuyết giá trị lao động của C.Mac
trong quyển I ‘’Tư Bản”.............................................................................19
4.2.Lý luận giá trị - lao động của C.Mác là lý luận hoàn
chỉnh nhất, khoa học nhất...........................................................................39
4.3. C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt
của lao động sản xuất ra hàng hoá...........................................................41
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lí luận giá trị lao động..........................42
5.1. Nhận thức đúng đắn lý luận giá trị - lao động và
vai trò của nó trong phát triển kinh tế thị trường..................................43
5.2. Cần chú trọng đến cả hai mặt giá trị sử dụng và
giá trị của hàng hóa trong sản xuất hàng hóa.......................................45

1


5.3. Phải tiết kiệm cả lao động sống và lao động quá khứ
trong sản xuất hàng hóa............................................................................46
5.4. Trong phát triển kinh tế thị trường phải tôn trọng


quy luật giá trị và các quy luật kinh tế khách quan..................................47
5.5. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh cơ
chế quản lý, phát triển kinh tế thị trường..................................................47
5.6. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước.................................................48
III. KẾT LUẬN........................................................................................51
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................54

2


I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội lồi người đều có những
hiểu biết và cách giải thích các hiện tượng kinh tế - xă hội nhất định. Việc giải
thích các hiện tượng kinh tế - xã hội ngày càng trở nên hết sức cần thiết đối với
đời sống kinh tế của xă hội lồi người. Mặt khác, các trường phái lí luận qua
các giai đoạn lịch sử khác nhau mang tính kế thừa, phát triển, cũng như phê
phán có tính lịch sử của các trường phái kinh tế học.
Chủ nghĩa trọng thương (thế kỷ XV-XVII) là lí luận đầu tiên nghiên cứu
về phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ này, tư bản thương
nghiệp chiếm địa vị thống trị, vì vậy trọng tâm chủ yếu của Chủ nghĩa trọng
thương là lĩnh vực lưu thông và phương pháp nghiên cứu là sự khái qt có tính
chất kinh nghiệm, những hiện tượng bề ngoài của đời sống kinh tế xã hội. Sự
phát triển của Chủ nghĩa tư bản làm cho những luận điểm của Chủ nghĩa trọng
thương trở nên lỗi thời, nhường chỗ cho sự ra đời của Chủ nghĩa trọng nông.
Chủ nghĩa trọng nông đă chuyển lĩnh vực nghiên cứu từ lưu thông đi vào sản
xuất, đây là một tư duy kinh tế đúng đắn. Tuy nhiên, lí luận của Chủ nghĩa trọng
nơng cũng cịn nhiều hạn chế, họ coi sản xuất chỉ là sản xuất trong nông nghiệp,
họ hiểu sai về lao động sản xuất và chưa có một quan niệm đúng đắn về giá trị.
Nền kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ, các vấn đề

kinh tế đòi hỏi phải được nghiên cứu tỷ mỉ, chu đáo và khoa học hơn. Do đó lí
luận kinh tế chính trị tư sản cổ điển xuất hiện, các đại biểu tiêu biểu của trường
phái này là: W. Petty, A. Smith và D. Ricardo. Điểm sáng của trường phái kinh
tế chính trị cổ điển Anh đó chính là học thuyết về giá trị - lao động, đây có thể
cao là đỉnh cao lí luận của kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
3


Giữa thế kỷ XIX, trên cơ sở những thành tựu của kinh tế, áp dụng Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu kinh tế,
Mác và Ănghen đă làm một cuộc cách mạng trong lịch sử các học thuyết kinh
tế, khác về cơ bản trên các phương diện: đối tượng nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu, nội dung, tính giai cấp...học thuyết của C. Mác ra đời là sự kế thừa
và phát triển những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học,
kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học.
Học thuyết kinh tế của C.Mác là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính
cách mạng, trong đó có học thuyết về giá trị lao động. C. Mác đã nêu lên những
mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch rõ những khuyết tật và mâu thuẫn của Chủ
nghĩa tư bản. Ông cũng khẳng định phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa tất
yếu sẽ bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới cao hơn, tiết bộ hơn, đó là
phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa. Đặc biệt trong đó, những lí luận về
giá trị - lao động là một trong nhưng học thuyết hoàn chỉnh và khoa học nhất
của C.Mác, góp phần khơng nhỏ đưa những học thuyết kinh tế của C.Mác đặt
đến đỉnh cao trong khoa kinh tế chính trị.

I.

NỘI DUNG

4



1. Lí do chọn đề tài
Học thuyết kinh tế cho rằng giá trị hàng hoá là do lao động sản xuất ra
hàng hố quyết định. Người đặt nền móng đầu tiên cho học thuyết này là W.
Petty và P. Boisguilbert, rồi đến A. Smith và V. Ricardo, là những người đóng
góp lớn vào học thuyết giá trị lao động. Tuy vậy, phải qua nhiều thế kỉ trao đổi
hàng hoá, con người mới dần dần hiểu ra được thực thể của giá trị và nhận thức
được quy luật giá trị. Phải chờ đến C.Mác thì học thuyết giá trị lao động mới
phát triển đầy đủ. Nhờ phát hiện được tính hai mặt của lao động mới khẳng
định được lao động nào tạo ra giá trị hàng hố. C.Mác đã phân tích nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa, khám phá ra giá trị sức lao động được xem là hàng hoá, quy
luật giá trị thặng dư và hệ thống các quy luật kinh tế của chủ.Từ đó, ơng đã đưa
học thuyết về giá trị - lao động đến sự hoàn thiện, trở thành một trong những
học thuyết hoàn chỉnh và khoa học nhất.
Tại Việt Nam hiện nay, việc áp dụng linh hoạt những học thuyết của các
nhà kinh tế, đặc biệt là học thuyết giá trị lao động của C. Mác và Ăng-ghen
càng cần thiết hơn nữa trong bối cảnh chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà tơi lựa chọn đề tài “Lí luận giá
trị -lao động của C.Mac là lí luận hoàn chỉnh, khoa học nhất.Ý nghĩa của việc
nghiên cứu vấn đề này” làm đề tài cho tiểu luận môn học “Tác phẩm kinh điển
Kinh tế chính trị - Phần kinh tế tư bản chủ nghĩa” của mình.
2. Mục đích,đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ sự hoàn chỉnh về nội dung cũng như tính khoa học trong học
thuyết về giá trị - lao động của C.Mác và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề

5



này đối với tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay. Qua đó có thể áp dụng linh
hoạt những học thuyết của các nhà kinh tế, đặc biệt là học thuyết giá trị lao
động của C. Mác và Ăng-ghen vào nền kinh tế nước ta hiện nay.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về học thuyết kinh tế của C.Mác là sự thống nhất giữa tính
khoa học và tính cách mạng, trong đó có học thuyết về giá trị lao động. Đặc biệt
trong đó, những lí luận về giá trị - lao động là một trong nhưng học thuyết hoàn
chỉnh và khoa học nhất của C.Mác
2.3.Phạm vi nghiên cứu
Ctác phẩm kinh tế của C.Mác và các nhà kinh tế thuộc trường phái tư sản
cổ điển như W.Petty, A.Smith, D.Ricardo...
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng kết hợp các phương pháp như logic, so sánh, tổng hợp, chứng
minh, phân tích...để làm rõ nội dung tiểu luận.
3.Lí luận giá trị lao động của một số nhà kinh tế tư sản cổ điển
3.1. Những lí luận ban đầu về giá trị lao động của William Petty
• Những thành tựu trong lí luận của W.Petty
Wiliam Petty ( 1623- 1687 ) sinh tại thành phố Romsi- miền nam nước
Anh, trong một gia đình sản xuất vải dạ. Từ nhỏ đã tỏ ra thơng minh. Ơng là
người đặt nền móng cho trường phái kinh tế chính trị cổ điển ở Anh, tác phẩm
của ông được xuất bản trong những năm 60-70 của thế kỷ XVII.
C.Mác cho rằng: “Chủ đề của kinh tế chính trị cổ điển” là W.Petty –
người đưa ra nguyên lý giá trị - lao động, “xứng đáng là người thành lập ra kinh
tế chính trị tư sản cổ điển”. W.Petty khơng trực tiếp trình bày lý luận giá trị,

6


nhưng qua những luận điểm của ông về giá cả cho thấy ông là người đầu tiên
đưa ra nguyên lý về giá trị lao động.

Theo W. Petty giá trị hàng hóa là do lao động kết tinh. Như vậy, đến đấy
W.Petty đã khẳng định vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị hàng hóa.
Với phát hiện này, ông đã đối lập hoàn toàn với học thuyết kinh tế trọng
thương,vì họ cho rằng lưu thơng tạo ra giá trị. Đây là một cống hiến lớn của ông
so với tất cả các nhà kinh tế trước và đương thời với ông. Với phát minh này W.
Petty được coi là cha để của kinh tế chính trị học.
Để tìm ra lí luận giá trị của hàng hóa, W. Petty đã bắt đầu nghiên cứu về
giá cả. Theo ơng có 3 loại giá cả là: giá cả tự nhiên, giá cả thị trường và giá cả
chính trị.
- Giá cả tự nhiên là giá cả vốn có, là giá cả có trước khi trao đổi đã nằm trong
hàng hóa. Giá cả tự nhiên là do thời gian lao động kết tinh trong hàng hóa và
trong tiền tệ (vàng – bạc) tạo ra. Do vậy, theo ơng người ta trao đổi hàng hóa
lấy tiền tệ (vàng – bạc) thực chất là trao đổi lao động của nhau. Với quan niệm
này, W. Petty đã tìm thấy cái chung trong hàng hóa đem trao đổi với nhau, đó là
thời gian lao động của con người. Giá cả tự nhiên do hao phí lao động quyết
định và cho rằng năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức hao phí đó. Khi xác
định giá cả tự nhiên của hàng hóa, ơng đem so sánh nó với lượng lao động hao
phí để tạo ra bạc hay vàng. Theo ơng, nếu người ta có thể khai thác một ounce
bạc và đưa nó từ mỏ Peru về LonDon với một số chi phí thời gian cần thiết để
sản xuất ra một busel lúa mì, thì sản phẩm thứ nhất sẽ là giá cả tự nhiên của sản
phẩm thứ hai. Ông nghiên cứu ảnh hưởng của năng suất lao động đến giá trị của
hàng hóa, cho rằng nếu tìm ra được mỏ giàu quặng hơn mà người ta khia thác
được 2 ounce bạc cũng dễ dàng như hiện nay người ta khai thác 1 ounce , thì

7


với những điều kiện khác không thay đổi, 2 ounce bạc là giá cả tự nhiên của 1
busel lúa mì. Như vậy, giá cả tự nhiên (giá trị) của hàng hóa tỷ lệ nghịch với
năng suất lao động khai thác bạc hay vàng. Nhận xét lý luận giá cả tự nhiên,

C.Mác cho rằng, W.Petty là người đầu tiên nêu định nghĩa về giá trị.
- Giá cả nhân tạo hay là giá cả thị trường của hàng hóa phụ thuộc vào giá cả tự
nhiên và cung cầu của hàng hóa.
- Giá cả chính trị chịu sự tác động của các yếu tố chính trị đối với lượng chi phí
lao động để sản xuất ra hàng hóa, làm cho các chi phi này vượt lên cao hơn so
với các chi phí lao động tự nhiên.
Việc phân biệt ba loại giá cả nói trên thế hiện sự có của W. Petty khi tìm
hiểu bản chất và nguồn gốc thực sự của hàng hóa ở lao động sản xuất ra nó, mà
các hình thức thể hiện bên ngoài thường che lấp đi. Đồng thời, ông còn xác định
mối quan hệ giữa giá trị hàng hóa với năng suất lao động. Nếu năng suất lao
động tăng thì giá trị của hàng hóa giảm và ngược lại. Ngồi ra, W.Petty cịn đặt
vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao động phức tạp nhưng không thành
cơng.
• Những hạn chế trong lí luận của W.Petty
Tuy vậy lí luận giá trị lao động của W.Petty cũng cịn nhưng hạn chế.
Ông chưa phân biệt được lao động cụ thể với lao động trừu tượng, bởi vậy chưa
thể chỉ rõ được nguồn gốc của giá trị hàng hóa. Ơng cũng lẫn lộn giữa giá trị và
giá trị trao đổi, giữa giá trị và giá trị sử dụng. Ông tập trung nghiên cứu về giá
cả, một bên là hàng hóa, một bên là tiền tệ, tức là ông mới chú ý nghiên cứu về
mặt lượng. Ông chỉ thừa nhận lao động khai thác vàng bạc mới là nguồn gốc
của giá trị, cịn giá trị của hàng hóa chỉ được xác định nhờ q trình trao đổi
tiền tệ. Theo ơng, giá trị của hàng hóa chính là sự phản ánh giá trị của tiền tệ,

8


cũng như ánh sáng của mặt trăng là sự phản chiếu của ánh sáng mặt trời. Đó là
ảnh hưởng tư tưởng của học thuyết kinh tế trọng thương.
W.Petty đưa ra luận điển nổi tiếng: “Lao động là cha của của cải, cịn đấy
là mẹ của của cải”. Luận điểm đó đúng nếu xem của cải là giá trị sử dụng, song

sẽ sai nếu hiểu lao động và tự nhiên là hai yếu tố tạo ra giá trị hay nguồn gốc
của giá trị. Từ luận điểm này ông đã gặp sai lầm khi xác định lao động và đất
đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi sản phẩm. Ông đã tìm thước đo thống nhất
của giá trị - thước đo chung đối với tự nhiên là lao động, ông đưa ra luận điểm
“thước đo thông thường của giá trị là thức ăn trung bình hàng ngày của người
lớn, chứ khơng phảo lao động hàng ngày của người đó”. Ơng coi giá trị của mái
nhà tranh ở Iceland là số lượng những khẩu phần mà người đó tiêu dùng trong
khi lập nên ngơi nhà đó. Lập luận trên chứng tỏ ông chưa phân biệt rõ giá trị sử
dụng với giá trị trao đổi, chưa biết đến tính chất xã hội của giá trị và chưa phân
biệt được lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
3.2. Sự phát triển lí luận giá trị-lao động Adam Smith
Adam Smith ( 1723-1790) sinh ra tại thị trấn Kircaldy, vùng Fife,
Scotland. Ông là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học vĩ đại người
Scotland, tác gỉa của bộ sách “tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của
các quốc gia”, đã giúp tạo ra kinh tế học hiện đại và cung cấp một trong những
cơ sở nổi hợp lý tiếng nhất của thương mại tự do, chủ nghĩa tư bản, và chủ
nghĩa tự do. Trong bộ sách trên, ơng xác định kinh tế chính trị có hai nhiệm vụ,
một là, phân tích thực tiễn khách quan nền kinh tế và giải thích tính quy luật
phát triển của nó.Hai là đưa ra những đề nghị cụ thể về chính sách kinh tế cho
nhà nước và doanh nghiệp.

9


So với W.Petty và trường phái trọng thương ông đã có những bước tiến
đáng kể. Đó là sự trình bày và phân tích một cách có hệ thống sớm nhất về giá
trị của kinh tế học tư sản cổ điển. Lý luận về giá trị của Adam Smith chủ yếu
giải

quyết


ba

vấn

đề



bản

sau.

Thứ nhất là thước đo thật sự của giá trị trao đổi là gì, hay nói cách khác là cái gì
đã

tạo

ra

giá

trị

thực

sự

của


mọi

thứ

hàng

hóa.

Thứ hai là các bộ phận tạo nên giá trị thực sự rốt cuộc là cái gì.
Thứ ba là trường hợp nào đã khiến cho một bộ phận hay toàn bộ giá cả nói trên
có lúc cao hơn giá cả tự nhiên hoặc giá cả bình thường của chúng, có lúc lại
thấp hơn giá cả tự nhiên hoặc giá cả bình thường của chúng.
Giải đáp lý luận về ba vấn đề này là nội dung của lý luận về giá trị của ông.
Trước khi nêu vấn đề và bắt đầu nghiên cứu lý luận giá trị, trước hết ông phân
biệt hai cách dùng của từ “giá trị”: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ơng nói:
từ “giá trị có hai nghĩa khác nhau, có lúc nó biểu thị hiệu quả sử dụng như là
một vật phẩm đặc biệt, có lúc biểu thị sức mua do chỗ chiếm hữu một vật nào
đó mà nó có được đối với vật khác. Cái trước gọi là giá trị sử dụng, cái sau gọi
là giá trị trao đổi. Tiếp đó ơng cịn chứng minh rõ quan hệ giữa giá trị sử dụng


giá

trị

trao

đổi.

Những thứ có giá trị sử dụng rất lớn, thường có giá trị trao đổi cực nhỏ, thậm

chí khơng có. Ngược lại, những thứ có giá trị trao đổi rất lớn, thường có giá trị
sử dụng cực nhỏ, hoặc khơng có giá trị trao đổi. Việc phân biệt rõ ràng hai khái
niệm giá trị sử dụng và giá trị trao đổi này đồng thời giải thích rõ là giá trị trao
đổi lớn hay nhỏ khơng có liên quan gì đến giá trị sử dụng, đó là cơng lao của
Adam Smith. Nhưng ơng cho rằng những thứ khơng có giá trị sử dụng có thể có
giá

trị

trao

đổi

thì

10

lại



sai

lầm.


Khi xây dựng lý luận giá trị, trước hết ông giải quyết vấn đề “Thế nào là thước
đo thực sự của giá trị trao đổi”. Ông cho rằng trao đổi hàng hóa chẳng qua là
trao đổi lượng giá trị lao động thể hiện trong hàng hóa đó. Vì thế, giá trị trao đổi
của hàng hóa là do lao động quyết định. Điều đó là hồn tồn tự nhiên. Lao

động là thước đo thực sự để xác định giá trị trao đổi của mọi loại hàng hóa.
Việc xác nhận lao động quyết định giá trị của hàng hóa là cơng lao và thành tích
khoa học của ơng. Nhưng ơng khơng hiểu được tính chất xã hội của loại lao
động này. Vì thế, khi đi sâu tìm hiểu thêm xem là lao động gì quyết định giá trị
của hàng hóa, lao động xác định giá trị của hàng hóa như thế nào thì ơng rơi vào
sự hỗn loạn. Một mặt ơng cho rằng lao động quyết định giá trị của hàng hóa là
lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa. Lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ
thuận

với

lượng

thời

gian

lao

động

hao

phí

trong

sản

xuất.


Đồng thời ơng còn nghiên cứu sự phân biệt giữa lao động đơn giản và lao động
phức tạp, ông cho rằng trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp có
thể tạo ra giá trị nhiều hơn là lao động đơn giản. Mặc khác ơng lại giải thích lao
động là sự hi sinh, “yên vui, tự do và hạnh phúc”. Đồng thời ông cho rằng, lao
động quyết định giá trị hàng hóa là lao động mua được hoặc có thể chi phối
được hàng hàng hóa trong trao đổi. Như vậy đã rơi vào suy luận lẫn quẫn dùng
giá trị quyết định giá trị. Điều này hiển nhiên là sai lầm. Ông đã lẫn lộn vấn đề
giá trị đã được quyết định như thế nào trong sản xuất và giá trị đã biểu hiện như
thế nào trong trao đổi. Khi giải đáp vấn đề “giá cả thật”, tức là giá trị do cái gì
tạo nên, ơng ý thức được rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lao động hao phí
để sản xuất ra hàng hóa có khối lượng ngang nhau. Nhưng do chỗ ông chưa
phân biệt được lao động và sức lao động, vì vậy ơng khơng thể giải thích lao
động (mà tư bản mua được trong điều kiện trao đổi ngang giá trên cơ sở lý luận

11


giá trị lao động) làm thế nào có thể đẻ ra lợi nhuận. Thế là đã xa rời lý luận giá
trị lao động, ông khẳng định rằng, quy luật giá trị chỉ thích hợp với “xã hội
mơng muội thời kỳ đầu”, mà giá trị khơng thích hợp với xã hội tư bản chủ
nghĩa. Ông cho rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giá trị hàng hóa khơng cịn
quyết định bởi lượng lao động hao phí trong sản xuất vừa do lượng lao động
mua được quyết định. Lượng lao động mua được có thể phân tích thành ba loại
thu nhập là tiền lương, lợi nhụận và địa tô. Ngược lại cũng có thể nói lượng lao
động mua được là do ba loại thu nhập - tiền lương, lợi nhuận và địa tô tạo
thành. Như vậy trên thực tế đã chuyển giá trị là do lao động quyết định sang giá
trị quyết định bởi ba loại thu nhập. Vì vậy, ơng nói “tiền lương, lợi nhuận và địa
tơ là ba nguồn gốc cơ bản của mọi thu nhập và mọi giá trị có thể trao đổi”.
Quan điểm này của ơng được các nhà kinh tế học tư sản sau đó phát triển thành



luận

về

chi

phí

sản

xuất.

Ơng cho rằng giá trị hàng hóa được chia thành ba loại thu nhập là sai lầm. Ở
đây ông lẫn lộn giá trị hàng hóa với giá trị mới sáng tạo của lao động.
Vấn đề thứ ba trong lý luận giá trị của ông là nghiên cứu quy luật giá trị và tác
dụng của nó. Ơng đã phân biệt giá cả thị trường và giá cả tự nhiên. Giá cả tự
nhiên là chỉ giá cả cấu tạo nên theo mức tự nhiên, tức là tiền lương, lợi nhuận
và địa tơ chi trả theo mức bình qn. Giá cả thực tế là chỉ giá cả sản xuất thống
nhất với giá trị. Giá cả thị trường do sự thay đổi quan hệ cung cầu của hàng hóa,
nên có lúc cao hơn có lúc thấp hơn giá cả tự nhiên, nhưng do tự do cạnh tranh,
giá cả thị trường thường có xu thế tự nhiên nhất trí với giá cả tự nhiên. Có thể
thấy rằng, khơng những ơng coi giá cả dao động xoay quanh giá trị là một hiện
tượng có tính quy luật, mà còn chứng minh rõ tác dụng điều tiết của quy luật
giá trị đối với sản xuất hàng hố. Nhưng do chỗ khơng hiểu được mối liên hệ

12



nội tại giữa giá trị và giá cả, ông không giải thích được sự xa rời giá cả khỏi giá
trị chính là hình thức tác dụng của quy luật giá trị.
A.Smith cho rằng, giá trị trao đổi của hàng hóa được thể hiện trong tương
quan trao đổi giữa lượng hàng hóa này với lượng hàng hóa khác, cũng trong nền
kinh tế hàng hóa phát triển, nó được biểu hiện ở tiền. Giá trị hàng hóa được thể
hiện ở tiền là giá cả. Tuy nhiên, giá trị của tiền lại thay đổi qua thời gian, nên
ơng đã phân biệt gía cả danh nghĩa với giá cả thực tế.
Theo ông, giá cả thực tế của lao động thể hiện bằng số lượng những thứ
cần dùng và tiện nghi trong đời sống do nó mang lại. Giá cả danh nghĩa của lao
động được biểu hiện bằng lượng tiền. Đây là một phát hiện để sau này được các
nhà kinh tế học đề nghị đưa vào tính tốn sản phẩm quốc dân. Giá cả thực tế
chính là giá cả của một năm được chọn làm gốc; cịn giá cả danh nghĩa chính là
mức giá hiện thời, nó có thể bị biến động bởi lạm phát tiền tệ.
Ông đã phân biệt giá cả tự nhiên với giá cả thị trường của hàng hóa. Theo
ơng, giá cả tự nhiên là chi phí sản xuất dài hạn, còn giá cả thực tế (gọi là giá thị
trường) được xác định bằng sự tương tác giữa cung và cầu trong ngắn hạn.
Theo ông, “Giá cả thị trường của mỗi loại hàng hóa riêng biệt đều được
điều chỉnh bằng tỉ lệ giữa số lượng hàng thực sự được mang ra chợ bán và
lượng cầu của những người muốn mua hàng hóa đó theo giá tự nhiên, tức là
tổng giá trị tiền thuê đất đai, lao động và lợi nhuận mà phải trả để có thể đưa
hàng hóa ra bán tại thị trường. Những người muốn mua như vậy gọi là những
người có nhu cầu thực tế, vì có thể là điều kiện đủ để đưa thứ hàng hóa đó ra thị
trường. Nhu cầu thực tế khác với nhu cầu tuyệt đối. Một người rất khéo léo có
thể có nhu cầu mua một cái xe 6 ngựa, anh ta có thể muốn mua được cái xe đó,

13


nhưng nhu cầu đó khơng thực tế vì hàng hóa đó khơng bao giờ được mang bán
ở thị trường để thỏa mãn nhu cầu đó của anh ta”.

Cung, cầu có ảnh hưởng đến giá cả thực tế. Theo ông, khi một thứ hàng
hóa nào đó khơng đáp ứng nhu cầu thực tế , thì người muốn mua thứ hàng hóa
đó với giá bằng tổng giá trị của nó sẽ khơng mua được vì khơng có đủ thứ hàng
hóa đó mà họ cần mua. Để có được thứ hàng mình cần, một số người mua sẵn
sàng trả giá cao hơn. Do đó, giá cả thị trường sẽ ít nhiều cao hơn giá tự nhiên
tuy theo mức độ khan hiếm và giàu có của những người muốn giành cho được
thứ hàng mình muốn mua.
Ngược lại, khi số lượng hàng hóa mang bán tại thị trường vượt q nhu
cầu thực tế, nó khơng thể bán hết được cho những người muốn mua với giá cả
bằng toàn bộ giá trị của các mặt hàng đó, thì một phần hàng hóa tất phải bán với
giá rẻ hơn, và giá bán hạ này làm cho tổng giá trị hàng hóa bán ra bị giảm sút.
Giá thị trường ít nhiều tụt xuống dưới gía tự nhiên tùy ở chỗ lương hàng hóa dư
thừa làm tăng nhiều hay ít sự cạnh tranh giữa những người bán hàng, và tùy
mức độ họ thấy cần phải thanh toán ngay số hàng họ có trong tay.
Cịn khi số lượng hàng hóa đem bán ra thị trường chỉ vừa đủ thỏa mãn
nhu cầu thực tế của người tiêu dùng, thì giá cả thị trường tất nhiên sẽ chỉ vừa
đúng hoặc chênh lệch chút ít so với giá tự nhiên. Tồn bộ hàng hóa chỉ có thể
bán theo giá này, khơng thể nào tăng lên được. Những người bán đắt buộc phải
chấp nhận bán với giá này, nhưng cũng không bắt buộc bán với giá rẻ hơn.
Từ phân tích trên, ơng khẳng định giá cả thị trường là giá bán thực tế của
hàng hóa, nó chịu ảnh hưởng bởi biến động cung – cầu. Giữa giá cả tự nhiên và
giá cả thực tế có quan hệ với nhau. giá cả tự nhiên là trung tâm,giá cả thực tế
luôn luôn hướng về giá cả tự nhiên. Ngồi ra giá cả thực tế cịn chịu tác động

14


bởi những “sự cố”, nạn đầu cơ của thương nhân, tình trạng độc quyền và những
đạo luật đặc biệt nào đó của nhà nước. Những “sự cố” mà ơng nêu ở đây quy tụ
lại chính là để ngăn chặn thơng tin của người bán hay người mua. Ví dụ, ơng

viết “Giá bán độc quyền trong bất kì trường hợp nào cũng là giá bán cao nhất có
thể có. Ngược lai giá cả tự nhiên,hay giá cạnh tranh tự do, là giá thấp nhất có
thể có trong một thời gian dài.. Giá độc quyền là giá cao nhất trong mọi trường
hợp có thể vắt được của người mua hàng, hoặc người tiêu dùng phải đồng ý trả;
giá tự do cạnh tranh là gía thấp nhất mà người bán thường có thể thu được và
đồng thời có thể tiếp tục cơng việc kinh doanh của mình’’.
Tính khoa học của nó đã được D. Ricardo, Karl Mars và các nhà kinh tế
học về sau kế thừa và phát triển. Hạn chế chủ yếu trong lí luận này là ơng đã
xác định giá cả tự nhiên bằng những khoản thanh toán cho mỗi yếu tố sản xuất
(tiền

th

đất,tiền

cơng



lợi

nhuận).

Tóm lại, do hạn chế về lập trường, quan điểm và phương pháp, nên lý luận giá
trị của ông vừa có yếu tố khoa học vừa có yếu tố tầm thường, đồng thời trên
thực tế ông đã rơi vào tình trạng hỗn loạn. Nhưng lý luận giá trị của ông không
thể không kể là chiều sâu hay chiều rộng đều vượt các bậc tiền bối của ông,
nhất là ông lại là người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá trị
lao động, đồng thời về cơ bản ơng đã kiên trì dùng lý luận giá trị lao động để
nghiên cứu vấn đề lợi nhuận và địa tơ. Đó là đóng góp chủ yếu của ông về mặt

khoa học và có tác động tương đối lớn đến những lí luận của C.Mác về giá trị lao động trong những nghiên cứu sau này.
3.3. Sự bổ sung về lí luận giá trị - lao động của David Ricardo
David Ricardo (1772 - 1823) là một nhà kinh tế học người Anh, ảnh
hưởng lớn trong kinh tế học cổ điển sánh ngang cùng Adam Smith và Thomas

15


Malthus. David Ricardo la người là người cổ vũ thương mại tự do dựa trên lý
luận với lợi thế so sánh. Ơng tiếp bước Adam Smith và đóng góp lớn vào việc
phát triển thuyết giá trị lao động. Các lý luận của ông cũng ảnh hưởng đáng kể
đến tư tưởng của C.Mác
Lý luận giá trị lao động chiếm vị trí trung tâm trong học thuyết kinh tế
của D.Ricarcdo, được ông trình bày trong tác phẩm nổi tiếng “ Những nguyên lí
cơ bản của kinh tế chính trị và thuế khóa “ xuất bản năm 1817. Ông đã kế thừa
và phát triển tư tưởng của A.Smith. Công lao của D.Ricardo là đã rà sốt lại
tồn bộ lý luận giá trị của A.smith, phê phán những quan điểm sai lầm gạt bỏ
những mâu thuẫn trong cách giải thích nước đơi của A.Smith và phát triển thêm
những nguyên lý đúng đắn khoa học. Chẳng hạn, trong hai định nghĩa về giá trị
của A.Smith, D.Ricardo chỉ ra rằng định nghĩa “ giá trị do lao động hao phí
quyết định” là đúng, cịn định nghĩa “giá trị lao động mà người ta có thể mua
được hàng hóa này quyết định” là khơng đúng. Theo D.Ricardo, khơng phải chỉ
trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn, mà ngay cả trong nền sản xuất lớn tư bản
chủ nghĩa, giá trị vẫn do lao động quyết định. Ông chỉ ra rằng, trong cơ cấu giá
trị hàng hóa phải gồm ba bộ phận là tư bản bất biến c, tư bản khả biến v và giá
trị thặng dư m, chứ không thể loại c ra khỏi giá trị sản phẩm như A.Smith đã
làm.
Ông đã phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá
trị trao đổi cũng như chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao
đổi, nhưng khơng phải thước đo của nó. Trừ một số ít hàng hóa khan hiếm, thì

giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi, còn đại đa số hàng hóa khác, giá trị là
do lao động quyết định. Vì giá trị trao đổi là một lượng tương đối biểu hiện khối
lượng hàng hóa khác (hay tiền tệ) nên D.Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị

16


tương đối cịn tồn tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao
động kết tinh, giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất biểu
hiện giá trị tuyệt đối.
Tuy nhiên ơng cũng chưa phân tích được sự chuyển dịch c vào sản phẩm
mới diễn ra như thế. Ơng cũng có ý định phân tích giản đơn và lao động phức
tạp, quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Ơng nói rằng
lao động xã hội
cần thiết quyết định lượng giá trị hàng hóa, song lại cho rằng lao động xã
hội cần thiết do điều kiện sản xấu quyết định.
Phương pháp nghiên cứu giá trị hàng hóa của ơng cịn mang tính siêu
hình. Ơng coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn. Đó là thuộc tính của mọi vật, mà
khơng thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị, do ông chưa thấy
tính hai mặt của lao động.Ơng cịn chịu ảnh hưởng của tính khan hiếm quyết
định giá trị, ơng chưa phân biệt được giá trị hàng hóa với giá cả sản xuất, dù
cho ơng đã có nhận thấy xu hướng bình qn hóa tỉ suất lợi nhuận.
• Những thành tựu trong nghiên cứu
D.Ricardo đã phân biệt được 2 thuộc tính của hàng hóa là giá trị và giá trị
sử dụng, đã vạch ra nguồn gốc của giá trị hàng hóa là lao động cũng như đã
quan tâm nghiên cứu lượng giá trị và các nhân tố ảnh hường đến lượng giá trị
hàng hóa và chỉ ra hình thức của giá trị hàng hóa.
Về giá trị, trên cơ sở kế thừa và phát triển lý luận của A.Smith. D.Ricardo
khẳng định giá trị sử dụng rất cần thiết cho thực hiện giá trị trao đổi nhưng
khơng quyết định giá trị trao đổi. Ơng viết : “ tính hữu ích khơng phải là thước

đo giá trị trao đổi mặc dù nó có liên quan mật thiết với giá trị này . Nếu một
hàng hóa khơng có chút giá trị sử dụng nào nó sẽ khơng có giá trị trao đổi cho

17


dù có hiếm hoi đến mấy hay việc sản xuất ra nó địi hỏi biết bao cơng sức chăng
nữa.”
D.Ricardo đánh giá cao luận điểm của A.Smith trong xác định nguồn gốc
của giá trị là do lao động hao phí tạo ra. Ông đã phát triển học thuyết giá trị
đứng trên quan điểm này.
Trước hết D.Ricardo gạt bỏ sai lầm của A.Smith trong định nghĩa thứ hai
coi giá trị lao động mà người ta có thể mua được hàng hóa đó quyết định. Ơng
khẳng định giá trị hàng hóa là số lượng các hàng hóa khác mà nó có thể đổi
được phụ thuộc vào số lượng lao động tương đối cần phải sử dụng trong q
trình sản xuất chứ khơng phụ thuộc vào số tiền phải trả cho lao động ấy tăng lên
hay giảm xuống, chứ không phải do khối lượng tương đối các hàng hóa mà
người lao động đổi được từ lao động của mình.
Theo ơng, lượng giá trị hàng hóa được quyết định bởi số lượng lao động
sản xuất ra hàng hóa đó. Giá trị của một vật nhiều hay ít phụ thuộc vào lượng
lao động sử dụng trong q trình sản xuất ra chúng nhiều hay ít. Một sự gia tăng
về lượng lao động phải làm tăng giá trị của hàng hóa đó mà lao động thực hiện
khi mỗi sự giảm bớt sẽ hạ giá trị ấy xuống.
D.Ricardo có ý định phân biệt giá trị tương đối với giá trị tuyệt đối. Ông
viết :” những lập luận ở đây của tôi chỉ nhằm làm cho các bạn thấy rằng điều
quan trọng là sự thay đổi trong giá trị tương đối của các hàng hóa chứ khơng
phải là trong giá trị tuyệt đối của chung” . Giá trị tương đối của các hàng hóa
gần như khơng thay đổi trong nhiều năm trời, vì nó bao giờ cũng chỉ tồn tại
trong mối tương quan với các hàng hóa khác. Ơng coi giá trị tương đối ( về
sau , ơng cịn gọi là “ giá trị so sánh” ) chẳng qua là dùng để chỉ giá trị trao đổi.

Còn phạm trù giá trị tuyệt đối ( trong trường hợp khác, ông còn gọi là “ giá trị

18


thực tế” ) hay nói vắn tắt là “ giá trị”) có lẽ dùng để chỉ lượng lao động kết tinh
trong hàng hóa nhưng do khơng thiếu các hình thái giá trị mà chỉ nghiên cứu
các đại lượng giá trị, nên khơng hiểu được thực tế của giá trị, cịn lẫn lộn giữa
hai phạm trù này và cho rằng giá trị tương đối do thời gian lao động quyết định.
Dù sao thì D.Ricardo đã cho rằng tồn tại một đơn vị chung làm cơ sở so sánh
những lượng lao động kết tinh vào các hàng hóa khác nhau.
D.Ricardo phê phán quan điểm sai lầm của A.Smith về 3 nguồn thu nhập
cấu thành giá trị ( tiền công, lợi nhuận và địa tô ) và khẳng định lượng giá trị
của một hàng hóa phụ thuộc vào số lượng lao động tương đối cần phải sử dụng
để sản xuất ra nó. Khơng phải ba nguồn thu nhập cấu thành hàng hóa mà ngược
lại, giá trị hàng hóa có trước, được thực hiện, rồi mới phân chia thành ba nguồn
thu nhập nói trên.
Ơng phê phán quan điểm của A.Smith coi địa tô là một bộ phận cấu thành
giá trị (quan điểm này bị C.Mác gọi là “ tín điều “) và cho rằng không phải địa
tô đã làm giá nông sản tăng, mà chính giá nơng sản tăng đã tạo ra địa tơ. Mặc
dù chưa vạch ra được nguồn gốc thực sự của địa tô, nhưng ông vẫn nhất quán
quan điểm giá trị được phân phối thành các nguồn thu nhập.
Hơn nữa, 3 nguồn thu nhập nói trên khơng đủ nói lên số lượng giá trị của
hàng hóa. Theo D.Ricardo, khơng chỉ có lao động sống ảnh hường trực tiếp tới
lượng giá trị hàng hóa mà cịn kế tới lao động đã kết tinh trong nguyên liệu,
công cụ, nhà xưởng dùng trong quá trình sản xuất ra hàng hóa đó. Ơng gọi lao
động chỉ dùng cho việc sản xuất hàng hóa như thế này là lượng lao động cần
thiết và đã quan tâm tới thời gian lao động cần thiết cho việc sản xuất hàng hóa.
K.Marx đã đánh giá cao luận điểm này của D.Ricardo và ơng gọi đây là hao phí
lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.


19


Trên quan điểm lượng lao động cần thiết quyết định lượng giá trị hàng
hóa, D.Ricardo cho rằng lượng giá trị này “ bị thay đổi đáng kể do sự áp dụng
máy móc và các thiết bị lâu bền, cố định khác” và “ do độ bền và tốc độ thu hồi
khác nhau của tư bản”
Về giá cả, D.Ricardo đã nhất quán quan điểm giá cả hình thành trên cơ sở
chi phí sản xuất. Giá cả hàng hóa là giá trị trao đổi của nó nhưng biểu hiện bằng
tiền nhưng giá trị được đo bằng số lượng hao phí lao động cần thiết để sản xuất
ra hàng hóa. Ơng phê phán quan điểm cho rằng giá cả của hàng hóa chỉ phụ
thuộc vào quan hệ cung – cầu và khẳng định rằng” giá cả những hàng hóa ấy ,
cái lệ thuộc vào sự cạnh tranh trên thị trường và số lượng của chúng chung quy
khơng phụ thuộc vào tình trạng của cung – cầu, mà chỉ phụ thuộc vào chi phí
sản xuất ra chúng tăng lên hay giảm xuống mà thôi”. “ Chi phí sản xuất” mà
ơng nói là lượng lao động cần thiết để sản xuất hàng hóa đó hay giá trị hàng
hóa.
Ơng cịn giải thích giá cả tự nhiên không phải là một giá cả thông thường
mà là một giá cả cần thiết để thường xuyên thỏa mãn lượng cầu với một lợi
nhuận thông thường. Giá cả tự nhiên nêu trên ,theo ơng , có thể là hình thái
chuyển hóa của giá trị trong điều kiện tự do cạnh tranh.
D.Ricardo cịn cho rằng cung – cầu có ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa
nhưng chỉ ảnh hường “ ngay lập tức “ có tính “ tạm thời “ mà thơi.
• Hạn chế trong nghiên cứu của D.Ricardo
Mặc dù đã đưa học thuyết giá trị lao động của trường phái cổ điển tới
đỉnh cao, nhưng D.Ricardo vẫn không vượt qua được những hạn chế cố hữu của
trường phái này. Phương pháp nghiên cứu của ơng cịn mang tính siêu hình , coi
giá trị là phạm trù vĩnh viễn , là thuộc tính của mọi vật. Khơng thấy được mẫu


20


thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị, vì chưa biết đến tính hai mặt của lao động
sản xuất hàng hóa. Khi xác định lượng giá trị hàng hóa, ông chưa biết được giá
của lao động quá khứ kết tinh trong nguyên liệu, công cụ, nhà xưởng dùng
trong quá trình sản xuất được chuyển dịch vào sản phẩm mới như thế nào. Mặc
dù ơng phê phán” tín điều của A.Smith “ về 3 nguồn gốc cấu thành giá trị hàng
hóa, nhưng vẫn cho rằng lợi nhuận thơng thường của tư bản là một bộ phận cấu
thành giá trị mà không chút băn khoăn về nguồn gốc của lợi nhuận, Tuy đó chỉ
ra lao động cần thiết quyết định lượng giá trị hàng hóa, xong lại cho rằng lao
động cần thiết do điều kiện sản xuất xấu nhất hay tính khan hiếm quyết định.
Chưa chỉ ra được các hình thức của giá trị hàng hóa, chưa phân biệt được giá trị
hàng hóa với giá cả sản xuất, mặc dù ơng có nhìn thấy xu hướng bình qn hóa
tỉ suất lợi nhuận
Các nhà kinh tế của trường phái này còn bị trộn lẫn 2 yếu tố khoa học và
tầm thường. A. Smith không nhất quán trong khái niệm giá trị hàng hóa, lẫn lộn
trong phân phối giá trị và cấu thành giá trị để cho 2 yếu tố đó khoa học và tầm
thường sống yên ổn bên nhau ; chưa thoát khỏi quan điểm siêu hình coi giá trị
là phạm trù vĩnh viễn; chưa thấy được mẫu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị
hàng hóa.
Lịch sử đã chứng kiến sau D.Ricardo có 2 lối rẽ : Một ngã theo hướng
Macxit với việc hồn tất nhất ngun hóa nguồn gốc giá trị, còn một ngả theo
hướng phủ nhận học quan điểm này để xây dựng một học thuyết một giá trị đa
nguyên lấy các nhận tố sản xuất làm cơ sở.
4. Học thuyết giá trị lao động của Các Mác là lí luận khoa học và
hồn chỉnh nhất

21



C.Mác (1818 – 1883 ) được sinh ra tại nước Đức, con một luật sư người
Do Thái.
- Năm 1835, Mác vào học trường Đại học Tổng hợp Bon và sau đó học Đại học
Tổng hợp Béclin, khoa luật, sử, triết học.
- Năm 1842, ơng làm chủ tịa báo “Sơng Ranh” và bắt đầu nghiên cứu kinh tế
chính trị.
- Năm 1844, Mác gặp Ph. Ăngghen và hai người trở thành đôi bạn than thiết.
- Năm 1847 hai ông gia nhập tổ chức “Đồng minh những người cộng sản” và trở
thành những người lãnh đạo tổ chức này và sau đổi thành Quốc tế cộng sản.
- Năm 1849 C.Mác lại bị trục xuất khỏi nước Đức và sang sống ở Anh cho đến
cuối đời.
C.Mác không chỉ là nhà lý luận mà ông cịn là nhà hoạt động thực tiễn.
Ơng đã hiến trọn cả đời mình cho sự nghiệp cách mạng cảu giai cấp vơ sản và
quần chúng lao động trên tồn thế giới.
4.1. Sơ lược về học thuyết giá trị lao động của C.Mac trong quyển I ‘’Tư
Bản”
Lý luận giá trị - lao động là một trong 3 học thuyết lớn của C.Mac trong
quyển I ‘’ Tư Bản’’ . Học thuyết giá trị lao động gồm 3 chương lớn :
Chương I : Hàng hóa
Chương II : Q trình trao đổi
Chương III : Tiền tệ hay lưu thơng hàng hóa
1) Chương I : Hàng hóa
Đối tượng nghiên cứu của chương I : C.Mac bắt đầu nghiên cứu từ tế bào
hàng hóa để vạch rõ thực chất hàng hóa là gì? Nó có thuộc tính như thế nào?
Thực chất đây là nghiên cứu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dưới hình thái
nguyên thủy ban đầu của nó.

22



C.Mac nghiên cứu hàng hóa thực chất là nghiên cứu giá trị ẩn dấu đằng
sau hàng hóa đó và phát hiện ra giá trị là gì và nó vận động ra sao. Chính ở
chương I trên cơ sở phân tích hàng hóa C.Mac xác lập sự tồn tại tất yếu của quy
luật giá trị trong trao đổi sản phẩm – giá trị hay hàng hóa là quan hệ xã hội của
sản xuất.
Mác nghiên cứu hàng hóa để vạch ra sự hình thành tất yếu của tiền tệ và
vạch ra được bản chất của tiền tệ, từ đó xóa bỏ được cái bí ẩn của tiền tệ.
a)

Hàng hố và hai thuộc tính của hàng hố

Hàng hố là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của
con người và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội , sản
xuất hàng hố có bản chất khác nhau, nhưng hàng hố đều có hai thuộc tính:
• Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là cơng dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào
đó của con người, ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên nhiên vật
liệu để sản xuất …Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Công
dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ
thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của
sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng hay tiêu dùng. Nó
là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hố, nó
khơng phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá
trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi – mua bán. Trong
kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
• Giá trị hàng hố

23



Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan
hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. Ví dụ:
1m vải = 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hố có giá trị sử dụng khác nhau
về chất, tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo tỷ lệ nào
đó.
Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau
thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy khơng phải là giá
trị sử dụng, tuy nhiên, sự khác nhau về giá trị sử dụng của chúng là điều kiện
cần thiết của sự trao đổi. Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai
hàng hoá. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng
chỉ cịn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ trao đổi. Đó là chúng đều là sản
phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hoặc thóc, những người sản xuất đều
phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng hố làm cho
chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi. Chúng được trao đổi theo một
tỷ lệ nhất định, một số lượng vải ít hơn đổi lấy một lượng thóc nhiều hơn (1m
vải = 10 kg thóc); nhưng lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang
bằng nhau. Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hố ẩn giấu trong hàng hố
chính là giá trị của hàng hố. Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm
nào khơng có lao động của người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó khơng có
giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá
trị càng cao.
Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình
thức biểu hiện của giá trị ra bên ngồi. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những
người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau. Thực

24



chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình
chứa đựng trong các hàng hố. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản
xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính
xã hội của hàng hoá. Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá
trị sử dụng và giá trị, nhưng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người
sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ khơng phải
là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được
mục đích giá trị mà thơi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là
giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị
sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực
hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu khơng thực hiện được giá
trị, sẽ khơng thực hiện được giá trị sử dụng.
b)

Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá

Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động
sản xuất hàng hố có tính hai mặt. Chính tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hố quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá. C. Mác là người
đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hố. Đó là lao
động cụ thể và lao động trừu tượng.


Lao động cụ thể

Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chun mơn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng,
phương pháp riên, phương tiện riêng và kết quả riêng. Ví dụ: lao động cụ thể

của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối tượng lao động là
gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về bào, khoan, đục; phương tiện

25


×