Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện vĩnh linh, tỉnh quảng trị giai đoạn 2013 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.92 KB, 64 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN
------------------

CHUYÊN ĐỀ
ĐỀ TÀI:
QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VĨNH LINH,
TỈNH QUẢNG TRỊ GIAI ĐOẠN 2013 - 2015

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Ngọc Châu

Lê Thị Mai Phương
Lớp: 46B- KHĐT
Niên khóa: 2012 - 2016

1


Huế, tháng 5 năm 2016

2


MỤC LỤC


3


DANH MỤC BẢNG

4


TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

Với mục đích nghiên cứu vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện Vĩnh Linh, đề tài tập trung nghiên cứu
thực trạng sử dụng vốn NSNN cho đầu tư XDCB nhằm chỉ ra các hạn chế,
đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu
tư XDCB từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn huyện Vĩnh Linh trong thời gian
tới.
Nguồn dữ liệu: thu thập số liệu từ các báo cáo về tình hình phát triển kinh
tế - xã hội huyện, các báo cáo về tình hình đầu tư XDCB của huyện, tham khảo
ý kiến của các nhà quản lý về vấn đề sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN trên
địa bàn.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau: Điều tra khảo sát, so sánh phân tích, tổng hợp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn vốn đầu tư XDCB từ NSNN trên địa bàn
huyện tuy không phải là nhiều nhưng đã giúp nền kinh tế của huyện tăng trưởng
hơn trong nhiều năm, đưa mức sống của người dân tăng lên, tuy nhiên hiệu quả
quản lý vốn chưa cao. Nguyên nhân dẫn đến quản lý nguồn vốn đầu tư XDCB từ
NSNN chưa đạt hiệu quả cao là do: đầu tư dàn trải, nợ đọng vốn đầu tư, chất lượng
công trình còn thấp, thất thoát lãng phí; chất lượng công tác hoạch định chiến lược
và quy hoạch phát triển KT – XH của huyện còn hạn chế; mối quan hệ giữa quy
hoạch và GPMB còn nhiều khiếm khuyết và nhiều chủ đầu tư không có chuyên

môn trong lĩnh vực đầu tư XDCB.
Đề tài cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nguồn vốn này trong thời gian tới như: nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư
xây dựng cơ bản; nâng cao công tác lựa chọn nhà thầu và tổ chức thầu, chỉ định
thầu; nâng cao công tác quản lý thi công xây dựng công trình; tăng cường công
5


tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ làm công tác quản lý đầu tư; thực hiện tốt công
tác giám sát cộng đồng và công khai tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản từ
nguồn vốn ngân sách nhà nước; nâng cao chất lượng giải phóng mặt bằng, tái
định cư; chủ động phát hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong đầu tư xây
dựng cơ bản

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, quyết định đến sự phát
triển kinh tế - xã hội (KT – XH) của một quốc gia cũng như mỗi địa phương.
Một bộ phận quan trọng và thiết yếu trong đầu tư đó là đầu tư xây dựng cơ bản
(XDCB). Việc huy động, sử dụng vốn đầu tư (VĐT) nói chung, vốn đầu tư xây
dựng cơ bản nói riêng nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền
kinh tế. Vốn đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước (NSNN) là một nguồn lực tài
chính hết sức quan trọng, nguồn vốn này không những góp phần quan trọng tạo
lập cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền kinh tế, mà còn có tính định hướng đầu tư,
góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề của xã hội, bảo vệ môi
trường. Bất cứ một ngành nào, một lĩnh vực nào để đi vào hoạt động đều phải
thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, tài sản cố định, vì vậy đầu tư XDCB luôn là
vấn đề đặc biệt được quan tâm. Trong những năm qua, đầu tư XDCB đã góp
phần không nhỏ đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế của nước
ta. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đầu tư và đầu tư XDCB vẫn còn nhiều

tồn tại, đặc biệt là việc quản lý vốn đầu tư XDCB còn chưa đạt hiệu quả cao,
thất thoát lãng phí trong đầu tư XDCB còn nhiều. Đây là một trong những vấn
đề và là nhiệm vụ trọng tâm cần phải giải quyết trước mắt. Cũng như nhiều địa
phương khác trong cả nước, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị bên cạnh những
thành quả đạt được trong lĩnh vự đầu tư XDCB thì trong những năm qua huyện
vẫn còn một số yếu kém cần phải khắc phục, vốn đầu tư XDCB từ NSNN còn
bị thất thoát, việc sử dụng vốn và công tác quản lý vốn chưa đạt hiệu quả cao.
6


Nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý hiệu quả vốn đầu tư XDCB từ
NSNN nên tôi đã chọ đề tài “ Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân
sách nhà nước trên địa bàn huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị giai đoạn
2013 - 2015’’ làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp của mình.

7


2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục tiêu:

Đề tài khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng vốn đầu tư
XDCB, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư XDCB ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay.
 Nhiệm vụ:
- Khái quát cơ sở lý luận và quy định quản lý hiện hành về vốn đầu tư XDCB.
- Phân tích đánh giá thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư XDCB của
-

huyện Vĩnh Linh hiện nay.

Đề xuất một số giải pháp chủ yêu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
XDCB huyện Vĩnh Linh.

3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu gồm: Điều tra khảo sát, so sánh
phân tích, tổng hợp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu:

Các vấn đề liên quan đến việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư XDCB ở
huyện Vĩnh Linh.
 Phạm vi nghiên cứu:

Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư XDCB của huyện Vĩnh Linh
giai đoạn 2013 - 2015

5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu , kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
trên địa bàn huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Chương 2: Thực trạng quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN trên địa bàn
huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2013 – 2015.
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý vốn đầu tư
XDCB từ NSNN trên địa bàn huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.

8



PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ Ý LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ
VỐN ĐẦU TƯ XDCB TỪ NSNN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
VĨNH LINH TỈNH QUẢNG TRỊ.
1.1.Đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1. Khái niệm đầu tư xây dựng cơ bản
Theo luật đầu tư của Việt Nam (2005): Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn
bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các
hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật có liên quan.
Theo cách hiểu chung nhất, đầu tư là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực
KT - XH để tiến hành các hoạt động nhất định, hy vọng thu được những kết
quả và đạt được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
XDCB và đầu tư XDCB là những hoạt động với chức năng tạo ra tài sản
cố định (TSCĐ) cho nền kinh tế thông qua các hình thức xây dựng mới, mở
rộng, hiện đại hóa hoặc khôi phục các TSCĐ.
XDCB là hoạt động có chức năng tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở
rộng các TSCĐ có tổ chức sản xuất và không có tổ chức sản xuất các ngành
kinh tế thông qua các hoạt động xây dựng mới, xây dựng mở rộng, xây dựng
lại, hiện đại hóa hay khôi phục các TSCĐ. XDCB chỉ là một khâu trong hoạt
động đầu tư XDCB. XDCB là các hoạt động cụ thể để tạo ra TSCĐ.
Đầu tư XDCB là một hoạt động của hoạt động đầu tư, đó là việc bỏ vốn
để tiến hành các hoạt động XDCB nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng các TSCĐ nhằm phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế
quốc dân. Nói cách khác, đó là việc bỏ vốn vào việc xây dựng, mua sắm TSCĐ
trong lĩnh vực sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc) và trong lĩnh vực không
sản xuất vật chất (nhà ở, bệnh viện, trường học...) và trong lĩnh vực 0thuộc cơ
sở hạ tầng (cầu đường, bến cảng, sân bay). Đầu tư XDCB bao gồm cả việc xây
9



dựng các xí nghiệp, công trình sẵn có (không kể các chi phí sửa chữa, kể cả sữa
chữa lớn TSCĐ). Do vậy, đầu tư XDCB là tiền đề quan trọng trong quá trình
phát triển KT - XH của nền kinh tế nói chung và của các cơ sở sản xuất kinh
doanh nói riêng. Đầu tư XDCB là hoạt động chủ yếu tạo ra TSCĐ đưa vào hoạt
động trong lĩnh vực KT - XH, nhằm thu được lợi ích.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư XDCB là một bộ phận của đầu tư phát triển, do đó nó cũng mang
những đặc điểm của đầu tư phát triển. Bao gồm các đặc điểm sau:
Thứ nhất, đầu tư XDCB là khâu mở đầu của mọi quá trình sản xuất và tái
sản xuất nhằm tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Đầu tư XDCB chính là
một phần tiết kiệm những tiêu dùng của xã hội thay vì những tiêu dùng lớn hơn
trong tương lai.
Thứ hai, đầu tư XDCB là hoạt động đòi hỏi lượng vốn lớn và nằm đọng
lại trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Vì vậy, trong quá trình đầu tư chúng ta
phải thiết lập các biện pháp nhằm đảm bảo tiền vốn được sử dụng đúng mục
đích, tránh ứ đọng và thất thoát VĐT, đồng thời có kế hoạch phân bổ nguồn lao
động, vật tư thiết bị phù hợp đảm bảo cho quá trình đầu tư xây dựng các công
trình được thực hiện đúng theo kế hoạch và tiến độ đã xác định chống lãng phí
nguồn lực.
Đầu tư XDCB có tính chất lâu dài, thời gian để tiến hành một công cuộc
đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều
năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
Thứ ba, rủi ro trong đầu tư XDCB là do thời gian của quá trình đầu tư kéo
dài. Trong thời gian này các yếu tố kinh tế, chính trị và cả tự nhiên ảnh hưởng
sẽ gây nên những tổn thất mà các nhà đầu tư không lường định hết khi lập dự
án. Các yếu tố bão lụt, động đất, chiến tranh có thể tàn phá các công trình được
đầu tư. Sự thay đổi chính sách thuế, lãi suất, thay đổi thị trường, thay đổi nhu
cầu đầu tư cũng có thể gây nên thiệt hại cho nhà đầu tư. Vì vậy, muốn khuyến
10



khích đầu tư cần phải quan tâm đến lợi ích của các nhà đầu tư, đó là hoàn đủ
vốn đầu tư cho họ và lợi nhuận tối đa thu được nhờ hạn chế và tránh được rủi
ro.
Thứ tư, sản phẩm đầu tư XDCB là các công trình xây dựng gắn liền với
đất xây dựng công trình. Vì vậy, mỗi công trình xây dựng có một địa điểm xây
dựng và chịu sự chi phối bởi điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn, môi trường,
khí hậu, thời tiết... của nơi đầu tư xây dựng công trình, cũng chính là nơi đưa
công trình vào khai thác, sử dụng. Sản phẩm XDCB chủ yếu được sản xuất
theo đơn đặt hàng. Chính vì vậy, để đạt được hiệu quả sử dụng vốn phải dựa
vào dự toán chi phí đầu tư xây dựng công trình được xác định và phê duyệt
trước khi thực hiện đầu tư xây dựng công trình.
Đầu tư XDCB được tiến hành trong tất cả ngành kinh tế quốc dân, các
lĩnh vực kinh tế xã hội như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, xây dựng, y
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh... nên sản phẩm XDCB có nhiều loại
hình công trình và mỗi loại hình công trình có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật
riêng. Vì vậy khi tiến hành hoạt động này, cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa
các ngành, các cấp trong quản lý quá trình đầu tư, bên cạnh đó phải quy định rõ
phạm vi, trách nhiệm của các chủ thể tham gia đầu tư, tuy nhiên vẫn đảm bảo
được tính tập trung dân chủ trong quá trình thực hiện đầu tư.

1.2.Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước
1.2.1. Khái niệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà
nước
Vốn là toàn bộ giá trị về đầu tư để tạo ra các sản phẩm nhằm mục tiêu thu
nhập trong tương lai. Các nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư được
gọi là vốn đầu tư, nếu quy đổi ra thành tiền thì vốn đầu tư được gọi là chi phí
đầu tư.
Bất kỳ một quá trình tăng trưởng hoặc phát triển kinh tế nào muốn tiến
hành được đều phải có VĐT, VĐT là nhân tố quyết định để kết hợp các yếu tố

11


trong sản xuất kinh doanh. Nó trở thành yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối
với tất cả các dự án đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất nước.
Theo định nghĩa chung nhất thì vốn đầu tư XDCB bao gồm: chi phí cho
việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế xây dựng,
chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác theo một dự án nhất
định.
Các nguồn lực thuộc quyền sở hữu và chi phối toàn diện của Nhà nước
được sử dụng cho hoạt động đầu tư XDCB được gọi là vốn đầu tư XDCB từ
NSNN.
Vốn đầu tư XDCB từ NSNN là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư
trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời là nguồn lực tài chính công rất quan
trọng của quốc gia.
Dưới giác độ là một nguồn vốn đầu tư nói chung, vốn đầu tư XDCB từ
NSNN cũng như các nguồn vốn khác - đó là biểu hiện bằng tiền của giá trị đầu
tư, bao gồm các chi phí tiêu hao nguồn lực phục vụ cho hoạt động đầu tư, nghĩa
là bao gồm toàn bộ chi phí đầu tư. Theo Luật Đầu Tư 2005 của Việt Nam:
“Vốn đầu tư là tiền và tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư
theo hình thức đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp”.
Dưới giác độ là nguồn lực tài chính của quốc gia, vốn đầu tư XDCB từ
NSNN là một bộ phận quỹ NSNN trong khoản chi đầu tư của NSNN hằng năm
được bố trí cho đầu tư vào các công trình, dự án XDCB của nhà nước.
Vốn đầu tư XDCB từ NSNN thường có quy mô lớn và không có khả năng
thu hồi trực tiếp, có tác dụng chung cho nền KT - XH nhưng các thành phần
kinh tế khác không có khả năng hoặc không muốn tham gia đầu tư. Hơn nữa
nguồn vốn cấp phát trực tiếp không hoàn lại nên đây là nguồn vốn dễ bị thất
thoát, lãng phí nhất đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ.
1.2.2. Đặc điểm vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước

Từ quan niệm về vốn đầu tư XDCB từ NSNN, có thể thấy nguồn vốn này
12


có 2 đặc điểm cơ bản: gắn với hoạt động đầu tư và gắn với NSNN.
Gắn với hoạt động đầu tư XDCB, nguồn vốn này chủ yếu được sử dụng
để đầu tư phát triển tài sản cố định trong nền kinh tế. Khác với các loại đầu tư
như đầu tư chuyển dịch, đầu tư cho dự phòng, đầu tư mua sắm công…, đầu tư
XDCB là hoạt động đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kết cấu hạ
tầng… Đây là hoạt động đầu tư phát triển, đầu tư cơ bản và chủ yếu có tính dài
hạn.
Gắn với hoạt động NSNN, vốn đầu tư XDCB từ NSNN được quản lý và
sử dụng đúng luật, theo các quy trình rất chặt chẽ. Khác với đầu tư trong kinh
doanh, đầu tư từ NSNN chủ yếu nhằm tạo lập môi trường, điều kiện cho nền
kinh tế, trong nhiều trường hợp không mang tính sinh lãi trực tiếp.
Từ những đặc điểm chung đó, có thể đi sâu phân tích một số đặc điểm cụ
thể của vốn đầu tư XDCB từ NSNN như sau:
Một là, đầu tư XDCB từ nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để
Nhà nước trực tiếp tác động đến quá trình phát triển KT - XH, điều tiết vĩ mô,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Bằng việc cung cấp các dịch vụ công cộng như hạ tầng KT - XH, an ninh, quốc
phòng... mà các thành phần kinh tế khác không muốn, không thể hoặc không
đầu tư; các dự án đầu tư từ NSNN được triển khai ở các vị trí quan trọng, then
chốt nhất đảm bảo cho nền KT - XH phát tiển ổn định theo hướng XHCN.
Nhìn trên giác độ toàn nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến
tổng cung vừa tác động đến tổng cầu.
Hai là, đầu tư XDCB của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò rất
quan trọng, bởi vì vốn dành cho đầu tư XDCB của Nhà nước chiếm một tỷ lệ
lớn trong tổng vốn đầu tư XDCB của toàn xã hội. Đầu tư XDCB của nhà nước

góp phần khắc phục những thất bại của thị trường, tạo cân bằng trong cơ cấu
đầu tư, giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác đầu tư XDCB của Nhà nước
13


được tập trung vào những công trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có
khả năng tác động mạnh đến đời sống KT- XH. Bên cạnh đó cũng cần phải
thấy rằng đầu tư XDCB của Nhà nước nếu không được quản lý một cách hợp
lý sẽ gây ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả hơn là đầu tư XDCB từ các
nguồn vốn khác.
Ba là, vốn đầu tư XDCB từ NSNN gắn với hoạt động NSNN nói chung
và hoạt động chi NSNN nói riêng, gắn với quản lý và sử dụng vốn theo phân
cấp về chi NSNN cho đầu tư phát triển. Do đó, việc hình thành, phân phối, sử
dụng và thanh quyết toán nguồn vốn này được thực hiện chặt chẽ, theo luật
định, được Quốc hội phê chuẩn và các cấp chính quyền (chủ yếu là Hội đồng
Nhân dân tỉnh) phê duyệt hằng năm.
Bốn là, vốn đầu tư XDCB từ NSNN được sử dụng chủ yếu để đầu tư cho
các công trình, dự án không có khả năng thu hồi vốn và các công trình hạ tầng
theo đối tượng sử dụng theo quy định của Luật NSNN và các luật khác. Do đó,
việc đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn mang tính chất toàn diện, trên cơ sở
đánh giá tác động cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Năm là, vốn đầu tư XDCB từ NSNN gắn với các quy trình đầu tư và dự
án, chương trình đầu tư rất chặt chẽ từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án
đến khâu kết thúc đầu tư, nghiệm thu dự án và đưa vào sử dụng. Việc sử dụng
nguồn vốn này gắn với quá trình thực hiện và quản lý dự án đầu tư với các
khâu liên hoàn với nhau từ khâu quy hoạch, khảo sát thiết kế, chuẩn bị đầu tư,
thực hiện dự án, kết thúc dự án. Các dự án này có thế được hình thành dưới
nhiều hình thức như:
-


Các dự án về điều tra, khảo sát để lập quy hoạch như các dự án quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, ngành, quy hoạch xây dựng đô thị

-

và nông thôn, quy hoạch ngành được Chính phủ cho phép.
Dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng KT - XH như đường giao

-

thông, mạng lưới điện, hệ thống cấp nước v.v…
Dự án cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển một số ngành nghề, lĩnh vực
14


-

hay sản phẩm.
Dự án hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của
Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Sáu là, vốn đầu tư XDCB từ NSNN rất đa dạng. Căn cứ tính chất, nội
dung, đặc điểm của từng giai đoạn trong quá trình đầu tư XDCB mà người ta
phân thành các loại vốn như: Vốn để thực hiện các dự án quy hoạch, vốn để
chuẩn bị đầu tư, vốn thực hiện đầu tư. Vốn đầu tư XDCB từ NSNN có thể được
sử dụng cho xây dựng mới hoặc sửa chữa lớn; xây dựng kết cấu hạ tầng hoặc
mua sắm thiết bị.
Bảy là, nguồn hình thành vốn đầu tư XDCB từ NSNN bao gồm cả nguồn
bên trong quốc gia chủ yếu là từ thuế và các nguồn thu khác của Nhà nước như
bán tài nguyên, cho thuê tài sản quốc gia, thu từ các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp quốc doanh. Các nguồn từ bên ngoài chủ yếu từ nguồn vay nước

ngoài, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và một số nguồn khác.
Cuối cùng, chủ thể sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN rất đa dạng, bao
gồm cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức ngoài nhà nước, nhưng trong đó
đối tượng sử dụng nguồn vốn này chủ yếu vẫn là các tổ chức nhà nước.
1.2.3. Vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà
nước
Trong nền kinh tế quốc dân, vốn đầu tư XDCB từ NSNN có vai trò rất
quan trọng đối với phát triển KT - XH. Vai trò đó thể hiện trên các mặt sau:
Một là, vốn đầu tư XDCB từ NSNN góp phần quan trọng vào việc xây
dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, hình thành kết cấu hạ tầng chung
cho đất nước như giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế… Thông qua
việc duy trì và phát triển hoạt động đầu tư XDCB, vốn đầu tư XDCB từ NSNN
góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế quốc dân, tái
tạo và tăng cường năng lực sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập
quốc dân và tổng sản phẩm xã hội.
15


Hai là, vốn đầu tư XDCB từ NSNN góp phần quan trọng vào việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, hình thành những ngành mới, tăng cường chuyên môn hóa
và phân công lao động xã hội. Chẳng hạn, để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH – HĐH đến năm 2020, Đảng và Nhà nước chủ trương tập
trung vốn đầu tư vào những ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn như công
nghiệp dầu khí, hàng không, hàng hải, đặc biệt là giao thông vận tải đường bộ,
đường sắt cao tốc, đầu tư vào một số ngành công nghệ cao… Thông qua việc
phát triển kết cấu hạ tầng để tạo lập môi trường thuận lợi tạo sự lan tỏa đầu tư
phát triển kinh doanh, thúc đẩy phát triển xã hội.
Ba là, vốn đầu tư XDCB từ NSNN có vai trò định hướng hoạt động đầu
tư trong nền kinh tế. Việc Nhà nước bỏ vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng và các
ngành, lĩnh vực có tính chiến lược không những có vai trò dẫn dắt hoạt động

đầu tư trong nền kinh tế mà còn góp phần định hướng hoạt động của nền kinh
tế. Thông qua đầu tư XDCB vào các ngành, lĩnh vực khu vực quan trọng, vốn
đầu tư từ NSNN có tác dụng kích thích các chủ thể kinh tế, các lực lượng trong
xã hội đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh, tham gia liên kết và hợp tác
trong xây dựng hạ tầng và phát triển KT - XH. Trên thực tế, gắn với việc phát
triển hệ thống điện, đường giao thông là sự phát triển mạnh mẽ các khu công
nghiệp, thương mại, các cơ sở kinh doanh và khu dân cư.
Bốn là, vốn đầu tư XDCB từ NSNN có vai trò quan trọng trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, phát triển vùng sâu, vùng xa.
Thông qua việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, các cở sở sản xuất kinh doanh
và các công trình văn hóa, xã hội góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nông
thôn, vùng sâu vùng xa.
1.2.4. Nội dung quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
1.2.4.1. Chủ thể quản lý và đối tượng quản lý

16


Chủ thể quản lý : là tổng thể các cơ quan quản lý, sử dụng vốn đầu tư
XDCB của nhà nước đối với cơ cấu tổ chức nhất định.
Đối tượng quản lý : chính là vốn đầu tư XDCB của nhà nước (xét về mặt
hiện vật) , là các cơ quan quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB (xét về cấp
quản lý).
Theo nguyên tắc nguồn vốn NSNN phải được nhà nước quản lý chặt chẽ
từ khâu giao kế hoạch cho đến khi đầu tư. Do vậy nguồn vốn đầu tư XDCB
cũng được quản lý chặt chẽ.
 Công tác lập kế hoạch đầu tư : Bộ KH- ĐT tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư từ
ngân sách của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế để dự báo, hướng
dẫn các ngành, lĩnh vực cần tập trung đầu tư, những cơ chế cần áp dụng trong

kì kế hoạch. Sở kế hoạch đầu tư phải xác định cụ thể danh mục đầu tư và kế
hoạch vốn đầu tư của các dự án sử dụng nguồn vốn NSNN. Nhà nước quản lý
chặt chẽ việc thực hiện kế hoạch đầu tư phù hợp với quy hoạch, kế hoạch, cơ
cấu ngành vùng. Với các công trình, dự án quan trọng quốc gia trong kế hoạch
hàng năm và từng thời kì phát triển thì do Quốc hội quyết định: Thủ tướng
chính phủ duyệt mục tiêu, tổng mức vốn đầu tư để bố trí kế hoạch cho các bộ,
-

địa phương thực hiện.
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: nhà nước quản lý chặt chẽ thông qua báo cáo đầu tư,
dự án đầu tư và thẩm duyệt dự án đầu tư, thẩm định các báo cáo nghiên cứu

-

khả thi, báo cáo thiết kế kĩ thuật và quyết định đầu tư.
Giai đoạn thực hiện đầu tư: được nhà nước quản lý chặt chẽ thông qua việc phê
duyệt quyết định đấu thầu, kết quả đấu thầu, giám sát quá trình thực hiện kế

-

hoạch đầu tư, phê duyệt quyết toán đầu tư.
Giai đoạn kết thúc đầu tư: nhà nước quản lý thông qua việc nghiệm thu bàn
giao công trình (công trình hoàn chỉnh theo thiết kế được duyệt, vận hành đúng
yêu cầu kĩ thuật và nghiệm thu đạt yêu cầu chất lượng)
Nhà nước quản lý chặt chẽ vốn đầu tư từ NSNN trên cơ sở tính toán tổng
mức thu, mức chi ngân sách xác định chi vào mục đích đầu tư XDCB. Khối lượng
vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước gồm: vốn trong nước, vốn nước ngoài, được
phân bổ cho các bộ, ngành địa phương theo mục tiêu cụ thể. Nguồn vốn này thuộc
nguồn vốn nhà nước được nhà nước trực tiếp chi phối theo kế hoạch vì vậy có khả
17



năng theo dõi, nắm bắt được từ khâu giao kế hoạch cho đến khi thực hiện qua các
bộ, ngành, địa phương, qua hệ thống ngành dọc thống kê, qua hệ thống cấp phát
tài chính.
1.2.4.1 Yêu cầu đối với quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN

Tính hợp lý: điều này có nghĩa là vốn phải được đầu tư vào đúng các dự
án, đúng các chương trình được ghi vào kế hoạch kinh tế quốc dân hàng năm.
Tức là cần phải xem xét trên khía cạnh phải đúng quy mô công trình, nghĩa là
công trình cần bao nhiêu vốn để đảm bảo chất lượng thì mới được đầu tư vào
cho đầy đủ.
Tính hiệu quả: vốn NSNN được quản lý một cách có hiệu quả, nghĩa là phải
đảm bảo phát huy được hết hiệu quả đồng vốn NSNN. Ở đây cơ quan quản lý vốn
phải xem xét, phân tích, đánh giá tính hiệu quả các công trình, các dự án trước khi
bỏ vốn vào đầu tư công việc nào đó. Để đảm bảo yêu cầu tính hiệu quả đồng vốn
đầu tư từ NSNN, các cơ quan quản lý vốn đầu tư cần phải phân tích tính khả thi.
Ngược lại, cần phải loại bỏ các công trình, dự án mà tính khả thi của thị trường
còn thấp và chưa chắc chắn.
Tính tiết kiệm: tiết kiệm là quốc sách, đồng thời với tiết kiệm là chống
tiêu cực, chống tham nhũng. Trong thực tế thì người ta rất lãng phí mà lãng phí
nhất là trong đầu tư XDCB. Vì vậy, đòi hỏi tiết kiệm mà tiết kiệm đó phải thực
hiện ngay ở mỗi khâu của quá trình XDCB:
Tiết kiệm khi lập dự án ở khâu này rất quan trọng vì nếu định hướng đầu
tư đúng thì công trình sẽ phát huy được hiệu quả và ngược lại.
Tiết kiệm trong khâu cấp phát và quản lý: Ở khâu này cần phải được quan
tâm nhiều hơn vì ở đây phát sinh việc cho vốn NSNN nhưng thực hiện ngay cả
các khâu lập dự án và quản lý dự án cũng không thể tiết kiệm được mà luật
pháp chưa đầy đủ và còn có nhiều kẽ hở nên chưa thể tiết kiệm được một cách
có hiệu quả.


1.3.Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố ở nước ta về quản ý
vốn đầu tư XDCB từ NSNN
1.3.1. Một số kinh nghiệm quản lý đầu tư xây dựng của thành phố
18


Đà Nẵng
Đà Nẵng là địa phương có thành tích về cải cách hành chính, nâng cao
năng lực quản lý nhà nước nhiều mặt, nhiều lĩnh vực trong đó quản lý vốn đầu
tư XDCB, qua các tài liệu và tiếp cận thực tế có các vấn đề nổi bật sau:
Thứ nhất : Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
quản lý đầu tư và xây dựng Trung ương ban hành, UBND thành phố Đà Nẵng
đó cụ thể hóa dưới các quy trình quản lý theo thẩm quyền được phân công,
phân cấp. Hướng dẫn chi tiết về trình tự triển khai đầu tư xây dựng từ xin chủ
trương và lựa chọn địa điểm đầu tư, lập và phê duyệt quy hoạch tổng thể mặt
bằng, lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, bố trí và đăng kí vốn đầu tư,
bồi thường, giải phóng mặt bằng, tổ chức đấu thầu, chỉ định thầu, tổ chức thi
công, quản lý chất lượng trong thi công, thanh toán vốn đầu tư, nghiệm thu bàn
giao sử dụng, thanh toán, quyết toán và bảo hành công trình… Gắn các bước
trên là thủ tục và hồ sơ cần có và trách nhiệm, quyền hạn quản lý, gải quyết của
các chủ thể trong hệ thống quản lý và vận hành vốn đầu tư. Việc cụ thể hóa quy
trình quản lý và giải quyết công việc của Nhà nước là một điểm nhấn mạnh
quan trọng trong cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm, năng lực cán bộ.
Thứ hai, bồi dưỡng giải phóng mặt bằng là khâu quan trọng và phức tạp
nhất của quy trình thực hiện dự án đầu tư. Trên thực tế, nhiều dự án gặp rất
nhiều khó khăn, thậm chí ách tắc ở khâu này. Đà nẵng là điểm sáng nhất trong
cả nước đối với công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng trong thời gian qua,
-


thành công của địa phương này dựa vào nhũng yếu tố:
UBND thành phố đó ban hành được quy dịnh về đền bù thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất. Quy định rõ ràng và chi tiết, rất phù hợp với thực tế. Điểm đặc biệt
và thuyết phục là bồi thường theo nguyên tắc “hài hòa lợi ích”. Cơ chế này được
hội đồng nhân dân thành phố ban hành thánh Nghị quyết riêng. Nội dung của
quy định này là khi nhà nước thu hồi đất theo quy hoạch để xây dựng hạ tầng
chỉnh trang đô thị đó làm gia tăng giá đất ở khu vực lân cận. Do vậy người được
hưởng từ nguồn lợi trực tiếp này do đầu tư trực tiếp của Nhà nước phải đóng góp
một phần lợi ích đó cho Nhà nước.
19


UBND thành phố rất coi trọng công tác tuyên truyền vận động thuyết
phục để nhân dân giác ngộ với lợi ích chung. Cả hệ thống chính trị được huy
động vào cuộc, trước hết là ủy ban mặt trận tổ quốc các cấp cho đến các đoàn
thể, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên… gắn với quy chế dân chủ
cơ sở, thi đua khen thưởng, việc triển khai được thông qua kế hoạch và ký kết
các chương trình công tác phối hợp. Tạo điều kiện nơi tái định cư thuận tiện và
chi phí kịp thời, hợp lý do vậy kết hợp được cả lợi ích của nhân dân đồng thời
phát huy giám sát cả cộng đồng trong triển khai thực hiện dự án theo đúng tiến
độ của Nhà nước đó đề ra.
-Phát huy vai trò trách nhiệm của cá nhân lãnh đạo chủ chốt, nhất là đối
với các trường hợp phức tạp, điểm nóng trong triển khai dự án. Cá nhân đồng
chí Chủ tịch UBND thành phố đó từng đối thoại trực tiếp với từng người dân
một cách thấu tình đạt lý để giải quyết vướng mắc cụ thể theo quy định của
pháp luật và thực tế.
1.3.2. Kinh nghiệm quản lý vốn ở tỉnh Thanh Hóa
Từ năm 2006 đến nay, cơ cấu vốn đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng vốn ngân sách, tăng vốn tín dụng đầu tư và
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên hiện dư nợ vốn đầu tư XDCB bằng

vốn NSNN còn khá lớn, gây khó khăn cho công tác quản lý và thu ngân sách Nhà
Nước theo quy định.
Từ năm 2006 – 2010, huy động vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh đạt
hơn 83.000 tỷ đồng, riêng năm 2011 đạt hơn 36.000 tỷ đồng, trong đó vốn NSNN
7.520 tỷ đồng (chiếm 21% tổng nguồn). Vốn ngân sách Nhà Nước chủ yếu đầu tư
phát triển công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Thực hiện việc đầu tư
phát triển đã góp phần tăng thêm năng lực sản xuất cho các ngành, các lĩnh vực,
cải thiện đáng kể hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở, tham gia vào tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao, hàng năm kho bạc nhà nước
Thanh Hóa luôn phối hợp với các ngành chức năng như : Sở tài chính, sở KH
& ĐT, tham mưu cho UBND tỉnh, thành lập đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm
20


tra tiến độ xây dựng và đôn đốc các chủ đầu tư hoàn chỉnh hồ sơ thanh toán
hoàn ứng khối lượng của dự án. Định kì hàng quý, kho bạc gửi công văn đôn
đốc hoàn ứng đến ban quản lý dự án. Bên cạnh đó, công tác quản lý Nhà Nưởc
trong lĩnh vự đầu tư xây dựng được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, điều
hành quyết liệt, linh hoạt, sát thực tế nên có nhiều chuyển biến tích cực từ khâu
chủ trương đầu tư đến hoàn thành, quyết toán đưa dự án vào sử dụng. Đầu tư từ
NSNN và trái phiếu chính phủ năm 2011, đã hoàn thành đưa vào sử dụng 126
dự án, hạng mục công trình, nâng cấp, làm mới hơn 50km đường nối các huyện
ở miền núi phía Tây của Tỉnh, đường đến trung tâm của xã chưa có đường ô tô,
355 km đường giao thông nông thôn, kiên cố hóa 515 phòng học, đưa vào sử
dụng 51 công trình nước sạch, tăng thêm 420 giường bệnh, tiếp tục đầu tư nâng
cấp 20 bệnh viện đa khoa tuyến huyện và một số bệnh viện tuyến tỉnh…
Để đảm bảo cho công tác quản lý vốn và thu ngân sách Nhà nước theo
quy định, các chủ đầu tư (ban quản lý dự án) cần rà soát kỹ tiến độ thực hiện
dự án để tập trung tổ chức, chỉ đạo thực hiện nhằm sớm hoàn thành đưa vào sử

dụng. Các cấp các ngành cần tăng cường công tác quản lý Nhà Nước trong lĩnh
vực đầu tư XDCB nhằm chống thất thoát, lãng phí và nâng cao hiệu quả đầu tư,
thường xuyên giao ban với các chủ đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư, nhà
thầu để kịp thời tháo gỡ những khó vướng mắc. Các chủ đầu tư (ban quản lý
dự án) đôn đốc các nhà thầu khẩn trương hoàn ứng, nhất là các dự án có số dư
ứng lớn, các dự án có số dư tạm ứng từ năm 2010 trở về trước; kịp thời lập hồ
sơ thanh toán đối với những khối lượng hoàn thành đã đủ điều kiện nghiệm
thu, thanh toán.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra
Một là: tập trung chỉ đạo và làm tốt công tác lập quy hoạch xây dựng,
chú trọng quy hoạch chung của tỉnh, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, lãnh
thổ, trừ những trường hợp đặc biệt, còn không bố trí vốn đối với những công
trình xây dựng không có trong quy hoạch, thực hiện công khai hoá quy hoạch
21


bảo đảm dân chủ, khi quy hoạch được duyệt thì phải thực hiện và quản lý đúng
và thống nhất.
Hai là: đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hoá, kế hoạch
XDCB phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và đời sống
nhân
dân và phải được cấp ủy chính quyền các cấp từ cơ sở xem xét và đề
nghị, tiến tới xã hội hoá công tác đầu tư và xây dựng, giảm tải các công trình
đầu tư, ngân sách Nhà nước.
Ba là: nâng cao chất lượng công tác lập thẩm định phê duyệt dự án, trách
nhiệm của các cơ quan đầu mối và trách nhiệm cá nhân của người có thẩm
quyền quyết định trong từng lĩnh vực và quyết định đầu tư đối với hiệu quả của
dự án.
Bốn là: bố trí cơ cấu vốn đầu tư hợp lý, bảo đảm Nhà nước phải cân đối
và kiểm soát được nguồn vốn đầu tư, không triển khai xây dựng các dự án

thiếu thủ tục XDCB hoặc không có khả năng cân đối vốn, không để tình
trạng triển khai xây dựng rồi mới chạy vốn.
Năm là: bảo đảm các công trình được bố trí vốn của Nhà nước phải được
thanh quyết toán và kiểm toán đúng tiến độ và thời gian.
Sáu là: nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, chủ đầu tư phải có trách
nhiệm trước pháp luật về quản lý vốn Nhà nước đã giao cho, tránh tình trạng
khi có sự cố thì đổ lỗi do thiếu chuyên môn nghiệp vụ hoặc điều kiện khách
quan gây nên.
Bảy là: tích cực mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý dự án đầu
tư, giám sát, công tác nghiệp vụ như lập dự án, đấu thầu, thanh quyết toán
công trình… đặc biệt là quan tâm bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý XDCB ở
cấp huyện, xã, phường thị trấn, bảo đảm từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ được giao.

22


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY
DỰNG CƠ BẢN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN VĨNH LINH TỈNH QUẢNG TRỊ GIAI ĐOẠN
2013 – 2015.
2.1.Đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Vĩnh Linh
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên

Vĩnh Linh là một huyện phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Phía Đông giáp biển
Đông; phía Tây giáp huyện Hướng Hóa; phía Nam giáp huyện Gio Linh và
phía Bắc giáp huyện Lệ Thủy (Quảng Bình). Dân số 89.027 người trong đó có
2.175 người dân tộc Vân Kiều, toàn huyện có 20.323 hộ; 22 xã, thị trấn; 191
làng, bản, khóm, phố.
Diện tích 626,35 km2. Gồm 3 thị trấn (Bến Quan, Cửa Tùng, Hồ Xá huyện lị), 19 xã (Vĩnh Thái, Vĩnh Tú, Vĩnh Trung, Vĩnh Chấp, Vĩnh Nam, Vĩnh

Khê, Vĩnh Long, Vĩnh Kim, Vĩnh Hòa, Vĩnh Thạch, Vĩnh Lâm. Vĩnh Hiền, Vĩnh
23


Thuỷ, Vĩnh Thành, Vĩnh Hà, Vĩnh Sơn, Vĩnh Tân, Vĩnh Giang, Vĩnh Ô). Dân số
85.117 người, 23.621 hộ (tháng 4/2009), gồm các dân tộc; Bru - Vân
Kiều, PaCô, Kinh, Tà Ôi. Địa hình đồi bóc mòn xen thung lũng và bán bình
nguyên bazan. Sông Bến Hải. Bờ biển ở phía đông huyện. Trồng lúa, sắn, hồ
tiêu, cây ăn quả. Chăn nuôi: lợn, bò, tôm, cá. Đánh bắt hải sản. Chế biến nông
sản, hải sản, nước mắm, làm muối. Dịch vụ du lịch. Giao thông: quốc lộ 1A, 15,
tỉnh lộ 572, 537, đường sắt Thống Nhất chạy qua. Di tích lịch sử: Cầu Hiền
Lương, nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn. Trước đây là huyện thuộc tỉnh Quảng
Trị; từ 11.3.1977, hợp nhất với huyện Gio Linh, Cam Lộ thành huyện Bến Hải,
thuộc tỉnh Bình Trị Thiên(1976 - 89); từ 23.3.1990, chia huyện Bến Hải thành 2
huyện Vĩnh Linh và Gio Linh.
2.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội huyện Vĩnh Linh
2.1.2.1. Về văn hóa – xã hội

- Bình quân hàng năm giảm hộ nghèo 2,5%. Đạt chỉ tiêu theo Nghị quyết
đề ra.
- Tốc độ tăng dân số tự nhiên năm 2013 ở mức 0,83% (năm 2012 tỷ lệ
này là 1,09%). Phấn đấu đến năm 2015 đạt dưới mức 0,7% theo chỉ tiêu Nghị
quyết đề ra.
- Hàng năm tạo việc làm mới cho trên 1.300 lao động; đến năm 2015, tỷ
lệ lao động được đào tạo đạt trên 45%, trong đó đào tạo nghề đạt 35%.
- Trong năm 2013, huyện Vĩnh Linh đã được Chủ tịch nước phong tặng
danh hiệu “Huyện điển hình về văn hóa” và danh hiệu “Anh hùng lao động
trong thời kỳ đổi mới”. Phấn đấu đến năm 2020 trên 95% làng, bản, khóm, khu
phố văn hoá; 100% cơ quan được công nhận đơn vị văn hoá; 85% gia đình
được công nhận gia đình văn hoá.

- Năm 2013, 100% xã, thị trấn đạt chuẩn phổ cập cho trẻ mầm non 5 tuổi.
Số trường đạt chuẩn Quốc gia trong năm 2013 đạt 43 trường. Vượt so chỉ tiêu
theo Nghị quyết đề ra là 40 trường.
24


- Năm 2013 tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 9,7% đã giảm
xuống dưới 10% theo chỉ tiêu kế hoạch; phấn đấu đến năm 2015 trên 70% số
xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn phù hợp với trẻ em và 100% đạt chuẩn y tế.
- Trên 88,5 % dân cư được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Phấn đấu
đến 2015 đạt trên 90%.
- Tỷ lệ rác thải được thu gom và xử lý đạt trên 88.5% vượt chỉ tiêu so với
kế hoạch đến năm 2015 là 80%.
- Tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2013 là 48,3%. Phấn đấu đến năm 2015 đạt
trên 52% theo chỉ tiêu kế hoạch.
- Số xã hoàn thành đề án xây dựng nông thôn mới đến năm 2013: 17
xã/19 xã. Số xã đạt từ 13 -16 tiêu chí: 6 xã; Số xã đạt từ 10-12 tiêu chí: 6 xã. Số
xã hoàn thành từ 7-9 tiêu chí: 3 xã. Số xã hoàn thành từ 5-6 tiêu chí: 1 xã. Số
xã hoàn thành dưới 5 tiêu chí là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít
người, gồm 3 xã: Vĩnh Ô, Vĩnh Khê, Vĩnh Hà. Phấn đấu đến năm 2015 100%
các xã hoàn thành đề án xây dựng nông thôn mới; 4 đến 6 xã đạt chuẩn theo bộ
tiêu chí nông thôn mới của Chính phủ.
- Cải cách thủ tục hành chính được nâng cao, 100% các cơ quan hành
chính trên toàn huyện đã xây dựng hoàn thành và đưa vào áp dụng quy trình và
cách thức xử lý giải quyết hành chính.
2.1.2.2. Về kinh tế

Sau 3 năm triển khai chương trình hành động của UBND huyện thực hiện
Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Vĩnh Linh lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2010 2015); kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015. Huyện Vĩnh Linh
đã đạt được những thành tựu nhất định:

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi đúng hướng theo hướng giảm tỷ trọng
ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây
dựng, thương mại - dịch vụ. Tỷ trọng ngành Nông - lâm - ngư nghiệp trong
tổng giá trị sản xuất từ 39,5% năm 2012 giảm xuống còn 34,0%, ngành Công
25


×