Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm gạch đất sét nung ở Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 98 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, quá trình CNH – HĐH và đô thị
hoá đất nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ cùng với đó là nhu cầu về nguyên vật liệu
cho xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp và các công trình xây dựng dân dụng
nói chung ngày càng tăng. Trong các loại nguyên vật liệu thì gạch đất sét nung là
loại vật liệu không thể thiếu trong các công trình xây dựng vì gạch là loại vật liệu
tạo nên hình dáng cấu trúc ban đầu cho các công trình đồng thời nó còn tạo nên sự
bền vững cho các công trình đó.
Tiêu thụ sản phẩm (SP) là khâu quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp (DN), là cầu nối trung gian một bên là sản xuất, phân
phối và một bên là tiêu dùng. Trước kia, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm
(TTSP) của các doanh nghiệp Nhà nước trong thời kỳ này là giao nộp sản phẩm
cho các đơn vị theo địa chỉ và giá cả do Nhà nước quy định. Do đó không tạo ra
động lực thúc đẩy hoạt động tiêu thụ cũng như sản xuất kinh doanh (SXKD) của
doanh nghiệp. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp được xác định
là đơn vị tự chủ, họ phải tự lập kế hoạch cho quá trình sản xuất kinh doanh của
mình. Tiêu thụ sản phẩm là hoạt động có ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh vì vậy tiêu thụ sản phẩm đã trở thành một trong những
khâu quan trọng mà các DN phải đặc biệt quan tâm. Trong tình trạng cạnh tranh
ngày càng gay gắt như hiện nay các DN buộc phải năng động sáng tạo tìm ra các
biện pháp tốt, phù hợp đẩy mạnh TTSP của DN, như vậy mới đảm bảo cho sự tồn
tại.
Trong thực tế, không ít những SP của một số DN rất tốt nhưng tiêu thụ lại rất
chậm, thậm chí không tiêu thụ được do không biết cách tổ chức TTSP. Do vậy,
1


TTSP là công việc vô cùng khó khăn đòi hỏi các DN phải suy nghĩ và tìm ra các biện
pháp phù hợp, khoa học để đẩy mạnh việc TTSP của DN mình.


Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải có ngành nghề là SXKD các
loại gạch đất sét nung. Là một đơn vị kinh tế tự chủ do đó việc kinh doanh của
Công ty đòi hỏi phải có công tác tiêu thụ thất tốt để bán được nhiều hàng hoá và
thu được lợi nhuận cao, nhưng cũng đòi hỏi Công ty phải đảm bảo chất lượng SP
của mình để ngày càng nâng cao vị thế trên thị trường. Từ sau khi cổ phần hoá năm
2005 đến nay, Công ty đã đạt được nhiều thành tựu và cố gắng vươn lên giành vị
thế trên thị trường. Tuy nhiên, Công ty vẫn gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong công
tác TTSP. Vậy những thành tựu mà Công ty đã đạt được là gì và những khó khăn
trong công tác TTSP mà Công ty đang gặp phải là gì? Xuất phát từ lý luận và thực
tế của Công ty, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tình hình tiêu
thụ sản phẩm gạch đất sét nung ở Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu tình hình TTSP gạch đất sét nung của Công ty cổ phần đầu tư và
xây dựng Tiền Hải, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động TTSP
gạch đất sét nung của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Tổng hợp những lý luận cơ bản về TTSP nói chung và TTSP gạch đất sét
nung nói riêng.
- Thực trạng tình hình TTSP gạch đất sét nung của Công ty cổ phần đầu tư
và xây dựng Tiền Hải.
- Xác định một số yếu tố chính ảnh hưởng đến hoạt động TTSP gạch đất sét
nung của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
- Đề xuất một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động TTSP gạch đất sét nung của
Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
2


1.2.3 Một số câu hỏi nghiên cứu đặt ra
- Thực trạng tình hình TTSP gạch đất sét nung của Công ty cổ phần đầu tư

và xây dựng Tiền Hải mấy năm qua (2006 – 2008) như thế nào? (Số lượng, thị
trường, giá cả, kênh phân phối,…)
- Việc TTSP gạch đất sét nung của Công ty còn những bất cập gì? Tại sao lại
có những bất cập đó?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng tới hoạt động TTSP gạch đất sét nung của
Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải?
- Công ty có những điểm mạnh, điểm yếu gì và những cơ hội và thách thức
nào mang lại cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty?
- Cần có những giải pháp nào để khắc phục những tồn tại trong công tác
TTSP gạch đất sét nung của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải?
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động TTSP gạch đất sét nung của Công ty cổ phần đầu tư
và xây dựng Tiền Hải.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề về hoạt động TTSP gạch
đất sét nung
- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu tại Công ty cổ phần đầu tư và xây
dựng Tiền Hải
- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu từ ngày 12/01/2009 đến ngày 22/5/2009.
Thông tin dùng cho nghiên cứu thu thập qua 3 năm (2006 – 2008).

3


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài
2.1.1 Một số lý luận cơ bản về thị trường
2.1.1.1 Khái niệm thị trường
Thị trường là một khái niệm được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác khau, tuy

nhiên nó luôn gắn với sản xuất hàng hoá. Đã có nhiều lĩnh vực đề cập đến khái
niệm thị trường:
- Theo quan điểm kinh tế vĩ mô: Thị trường là nơi chứa đựng tổng cung và
tổng cầu.
- Theo quan điểm kinh tế cho rằng: Thị trường gồm tất cả các người mua,
người bán có hoạt động trao đổi với nhau các hàng hoá hay dịch vụ nhằm thoả mãn
nhu cầu cho nhau.
- Theo kinh tế chính trị: Thị trường là biểu hiện của sự phân công lao động
xã hội.
- Theo Marketing phát triển định nghĩa thị trường như sau: Thị trường bao
gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể,
sẵn sang và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó
(Nguyễn Nguyên Cự, 2005).
Hay “Thị trường là tập hợp tất cả những người mua thật sự hay người mua
tiềm tàng đối với một sản phẩm” (Quách Thị Bửu Châu và cộng sự, 2006)
Theo Trần Hữu Cường (2008), Thị trường là một khu vực hoặc một vị trí (cả
thực và ảo) nằm giữa người sản xuất và người tiêu dùng và họ có sự giao tiếp với
nhau, nơi mà điều kiện cung và cầu hoạt động, làm cho hàng hoá được chuyển dịch
tới vị trí yêu cầu.
2.1.1.2 Chức năng của thị trường
* Chức năng thừa nhận: Trách nhiệm của các DN là phải nghiên cứu thị
trường để cho ra đời các loại sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với thị hiếu tiêu dùng.
4


Hiệu quả kinh doanh phụ thuộc vào việc sản phẩm hay dịch vụ của các DN có được
thị trường thừa nhận hay không. Nói cách khác sản phẩm, dịch vụ được thị trường
thừa nhận là điều kiện chúng thực hiện được giá trị của mình. Thị trường thừa nhận
các nội dung sau:
- Thị trường thừa nhận chủng loại và cơ cấu chủng loại hàng hoá

- Thị trường thừa nhận khối lượng sản phẩm hàng hoá
- Thị trường thừa nhận giá cả
- Thị trường thừa nhận phương thức trao đổi đối với một loại hàng hoá hay
dịch vụ cụ thể nào đó.
* Chức năng thực hiện: Thông qua chức năng này hàng hoá và dịch vụ sẽ
hoàn thành quá trình chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ. Quá trình
trao đổi hay mua bán là quá trình chủ yếu diễn ra trên thị trường. Thông qua quá
trình này sản phẩm hay dịch vụ bằng quan hệ cung cầu sẽ hình thành nên giá cả, cơ
sở để thanh toán và điều kiện để thoả mãn nhu cầu. Kết thúc một quá trình mua
bán, chức năng thực hiện của thị trường đã được hoàn thành.
* Chức năng điều tiết kích thích: Lợi nhuận là mục đích cao nhất của quá
trình sản xuất. Lợi nhuận kinh doanh chỉ hình thành thông qua hoạt động thị
trường, vì vậy thị trường vừa là môi trường vừa là động lực để điều tiết kích thích
các hoạt động sản xuất kinh doanh của DN - sự điều tiết và kích thích sản xuất thể
hiện ở các khía cạnh:
- Dựa vào nhu cầu các loại sản phẩm hay dịch vụ trên thị trường, các DN có
thể điều chỉnh các yếu tố sản xuất từ ngành này sang ngành khác, từ sản phẩm này
sang sản phẩm khác để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn
- Sự thay đổi nhu cầu và cơ cấu nhu cầu bắt buộc các DN phải thay đổi
phương hướng kinh doanh cho phù hợp hơn.
- Thị trường sẽ ra tạo động lực cạnh tranh. Những DN mạnh sẽ phải phát huy
lợi thế của mình để phát triển, các DN yếu sẽ phải tìm cách đổi mới, vươn lên để
tồn tại nếu không muốn phá sản.
5


- Thị trường có vai trò quan trọng trong điều tiết cung - cầu thông qua hệ
thống giá cả. DN muốn tồn tại phải tính toán các nguồn lực, tiết kiệm chi phí để có
mức giá phù hợp.
* Chức năng thông tin: Trên thị trường sẽ hình thành nên hệ thống thông tin

đa chiều. Hệ thống thông tin Marketing là hệ thống hoạt động thường xuyên của sự
tương tác giữa con người, thiết bị và phương tiện kỹ thuật dùng để thu thập, phân
tích, đánh giá và truyền đi những thông tin chính xác kịp thời và cần thiết để người
phu trách lĩnh vực Marketing sử dụng chúng với mục tiêu lập, tổ chức thực hiện,
điều chỉnh kế hoạch Marketing và kiểm tra hiệu quả của hoạt động Marketing.
Chức năng này bao gồm:
- Tổ chức hệ thống phương tiện thông tin phù hợp với điều kiện thị trường và
năng lực của DN
- Tổ chức thu thập thông tin
- Tổ chức phân tích thông tin đã thu thập được
- Đánh giá kết quả thông tin và truyền thông
Bốn chức năng trên của thị trường có quan hệ mật thiết với nhau, mỗi hiện
tượng kinh tế diễn ra trên thị trường đều thực hiện bốn chức năng này, mỗi chức
năng đều có tầm quan trọng của nó, tuy nhiên cũng phải thấy rõ khi thực hiện được
chức năng thứ nhất thì các chức năng khác mới phát huy được tác dụng.
2.1.2 Một số lý luận cơ bản về TTSP
2.1.2.1 Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường đối với bất kỳ DN nào thì TTSP cũng là quan
trọng nhất. Nó là cầu nối trung gian giữa người sản xuất với người tiêu dùng.
Thông qua quá trình này SP hàng hóa dịch vụ được chuyển từ hình thái hiện vật
sang hình thái tiền tệ và vòng chu chuyển vốn của DN được hoàn thành đồng thời
tính hữu ích của hàng hóa được thừa nhận
Tiêu thụ SP hàng hóa dịch vụ là quá trình đưa hàng hóa đến tay người tiêu
dùng thông qua hình thức mua bán (Nguyễn Tấn Bình, 2000).
6


Tiêu thụ SP là giai đoạn cuối cùng của quá trình SXKD, là yếu tố quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của DN bởi có tiêu thụ được thì mới thực hiện được quá
trình tái sản xuất.

2.1.2.2 Vai trò của TTSP
Hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành qua nhiều khâu kế tiếp nhau,
mỗi khâu có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời với các khâu khác. Các khẩu
của hoạt động sản xuất kinh doanh được ví như một mắt xích trong cả một hệ thống
mắt xích nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh đựơc trơn tru. Mắt xích
này được gắn liền với mắt xích kia tạo ra sự chuyển động liên tục và cái này là tiền
đề, bổ trợ cho cái kia. TTSP là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất, song nó
lại rất quan trọng, cũng có khi giữ vai trò quyết định các vấn đề trong quá trình tồn
tại và phát triển của DN.
Trong giai đoạn sản xuất hàng hoá giản đơn, quan hệ hàng hoá và tiền tệ
chưa hình thành rõ nét thì khi đó chưa có lưu thông hàng hoá mà chỉ có hình thức
sơ khai của nó là trao đổi sản phẩm. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người
thì hình thức trao đổi hàng hoá đã phát triển lên hình thức cao hơn. Đó là lưu thông
hàng hoá gắng liền với nó là quan hệ hàng hoá, tiền tệ ra đời.
TTSP là khâu quyết định sự thành bại của DN. Lợi nhuận trong sản xuất kinh
doanh thu đựơc thông qua việc bán hàng do đó tiêu thụ là khâu quan trọng chi phối
các khâu nghiệp vụ khác. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN đòi hỏi phải
được diễn ra liên tục và nhịp nhàng giữa các chu kỳ kinh doanh khác. Hiệu quả
kinh doanh đựơc đánh giá bởi nhiều nhân tố trong đó có tốc độ quay vòng vốn. Tốc
độ quay vòng vốn lại phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tiêu thụ lại là tấm gương để
phản chiếu tình hình kinh doanh của các DN.
TTSP là khâu hết sức quan trọng đối với bản thân mỗi DN và đối với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Thông qua tiêu thụ, tính hữu ích của sản phẩm mới được xác
nhận một cách hoàn toàn. Có tiêu thụ đựơc hàng hoá thì mới thu hồi được vốn có
nghĩa là tăng nhanh số lượng tiêu thụ là tăng nhanh vòng quay của vốn và lãi suất
7


phải trả cho việc vay vốn. Sau quá trình tiêu thụ DN không những thu tổng số tiền
liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn thực hiện được giá trị lao

động thặng dư, thể hiện được ở mức thu nhập thuần tuý của bản thân DN và của
Nhà nước. Thông qua tiêu thụ, lợi nhuận của DN được thực hiện đó là nguồn cơ
bản nhằm bổ sung vào nguồn vốn tự có của DN, giúp DN hình thành các quỹ của
mình… Ngoài ra, TTSP tốt sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã
hội. Bới vì tổ chức tốt quá trình TTSP tức là chủ động tạo ra nhu cầu, kích thích
tiêu dùng từ đó có sự tác động trở lại quá trình tái sản xuất, và cứ như thế nhằm
thúc đẩy nhanh sự phát triển của xã hội.
Đối với các DN sản xuất, tiêu thụ có vị trí quan trọng quyết định tới toàn bộ
hoạt động của DN. Bởi vì hiệu quả kinh doanh của DN được đánh giá thông qua
khối lượng hàng hoá được bán ra trên thị trường. Nếu tiêu thụ bị đình trệ thì mọi
hoạt động khác cũng bị đình trệ theo. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện
nay, nâng cao khối lượng hàng hoá bán ra trên thị trường có nghĩa là DN đã nâng
cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, quyết định sự sồng còn của DN đồng
thời cân đối cung cầu trên thị trường va quyết định quá trình tái sản xuất của DN.
Hoạt động TTSP cũng thể hiện mục tiêu của DN là hướng tới khách hàng.
Hoạt động này tạo ra nhu cầu mà thực chất là nhu cầu về Sản phẩm hàng hoá một
cách có hệ thống và tìm cách làm tăng ý thức về nhu cầu đó. Chính hoạt động này
đòi hỏi các DN phải có tầm hiểu biết và nhanh nhạy với thị trường, đặc biệt là có
đội ngũ kinh doanh giỏi.
2.1.2.3 Mục đích của TTSP
Bất kỳ một hoạt động nào khi diễn ra đều có mục đích của nó. Mục đích của
hoạt động giúp cho hoạt động đó được tiến hành có định hướng và nó là thước đo
để đánh giá hoạt động đó có đạt được kết quả cao hay không? Với DN, mục đích
của TTSP là:
- Bán được hàng và thu tiền
- Tăng doanh thu và lợi nhuận cho DN
8


- Tăng thị phần cho DN

- Tăng khả năng cạnh tranh và tài sản vô hình cho DN
- Phục vụ khách hàng
2.1.2.4 Ý nghĩa của việc TTSP
TTSP hàng hoá là quá trình sản phẩm được vận động từ nơi sản xuất tới nơi
tiêu dùng. Đặc điểm lớn nhất của sản phẩm ở mỗi DN là nó được sản xuất ra và
đem đi bán nhằm thực hiện những mục tiêu hiệu quả đã định trước đó là:
* Mục tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận là mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh, nó là chỉ tiêu quan
trọng phản ánh hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Có lợi nhuận thì mới tái sản xuất
mở rộng được mà lợi nhuận là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng (doanh thu
tiêu thụ) và tổng chi phí mà DN đã bỏ ra trong quá trình sản xuất.
Công tác TTSP tốt sẽ thu được lợi nhuận nhiều và không tiêu thụ được hoặc
tiêu thụ được ít thị lợi nhuận sẽ thấp, có thể hoà vốn hoặc lỗ. Đẩy mạnh công tác
TTSP là tăng nhanh vòng quay của vốn kinh doanh qua đó có khả năng tiết kiệm
vốn tăng lợi nhuận cho DN.
* Mục tiêu vị thế của DN
Vị thế của DN trên thị trường biểu hiện ở phần trăm doanh số hoặc số lượng
hàng hoá được bán ra so với số lượng hàng hoá của toàn bộ thị trường, con số này
càng lớn thì vị thế của DN càng lớn. Do đó TTSP có ý nghĩa quyết định đến vị thế
của DN trên thị trường. Tuy nhiên, để có được vị thế lớn trên thương trường trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay là rất khó khăn, nó đòi hỏi DN phải hết
sức có gắng tận dụng mọi thời cơ, cơ hội và vị thế của mình để dành lấy thị trường
có như vậy mới đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh.
* Mục tiêu an toàn
Hàng hoá là những vật phẩm được sản xuất ra để bán. Đối với các DN, sản
phẩm sau khi được sản xuất ra phải đem đi bán trên thị trường để thu tiền về thì DN
mới có khả năng tái sản xuất và quá trình kinh doanh mới diễn ra liên tục được.
9



Nếu không bán được hàng thì sẽ ứ đọng vốn và thua lỗ kéo dài sẽ dẫn tới phá sản.
Vì vậy, TTSP sẽ giúp cho quá trình kinh doanh được diễn ra liên tục và có hiệu quả
nhằm đảm bảo an toàn cho kinh doanh của DN.
* Mục tiêu đảm bảo tái sản xuất liên tục
Quá trình tái sản xuất đảm bảo gồm bốn khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng. Quá trình này chỉ diễn ra liên tục khi các khâu của nó diễn ra trôi chảy,
nhẹ nhàng. TTSP nằm trong khâu phân phối và trao đổi do đó nó là một bộ phận
hữu cơ của quá trình tái sản xuất. Mặt khác, khi tái sản xuất diễn ra liên tục lại giúp
cho các hoạt động tiêu thụ diễn ra liên tục, tạo ưu thế trong cạnh tranh và mở rộng
thị trường
2.1.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến TTSP
a. Các yếu tố thuộc môi trường ngành
- Khách hàng: Để đẩy mạnh được quá trình TTSP, DN cần thiết phải hiểu
được các nhu cầu khách hàng hiện có hoặc tiềm ẩn, tâm lý hay hành vi tiêu dùng
của họ đều có thể khêu gợi, đáp ứng thoả mãn, thu hút họ.
- Nhà cung cấp nguyên vật liệu: Đây là các công ty chuyên cung cấp các dầu
vào cho DN và cho đối thủ cạnh tranh. Do đó để đảm bảo cho quá trình sản xuất
cũng như tiêu thụ được diễn ra đúng tiến độ DN cần phải thiết lập mối quan hệ tốt
với họ.
- Đối thủ cạnh tranh: Để có thể tồn tại, mở rộng thị trường sản phẩm DN cần
phải nghiên cứu, phát hiện chiến lược của dối thủ cạnh tranh, đánh giá các mặt
mạnh, yếu của họ, đánh giá cách họ phản ứng với mỗi hành động xúc tiến tiêu thụ
của ta để có những quyết định cần thiết.
- Mối đe doạ xâm nhập: Khi có các đối thủ cạnh tranh mới xâm nhập sẽ xuất
hiện nguy có chia rẽ thị trường, cạnh tranh trở nên ác liệt hơn. Do đó với tư cách là
một DN tồn tại lâu hơn trên thị trường, DN cần phân tích điểm mạnh yếu của đối
thủ mới tham gia thị trường từ đó có chiến lược đối phó để bảo vệ thị trường, tạo
hàng rào cản trở xâm nhập.
10



- Sản phẩm thay thế: Công ty cần phải phân tích về sản phẩm thay thế thông
thường, thay thế hoàn toàn trên cơ sở đó thấy được nguy cơ hay cơ hội có phản ứng
kịp thời, hợp lý (Dương Thế Hữu, 2005).
b. Các yếu tố bên trong DN
Mỗi DN đều có tiềm năng riêng nhất định, nó phản ánh thế lực của DN trong
quá trình xây dựng các chiến lược, kế hoạch TTSP, cần phải đánh giá tiềm năng đó
một cách chính xác để phục vụ cho việc khai thác thời cơ. Một chiến lược không
được xây dựng trên cơ sở tiềm năng đã đánh giá thì sẽ bị thất bại và kéo theo sau
đó là các chi phí phát sinh vô ích.
- Uy tín của DN: Đây là tài sản vô hình, nó không dễ gì mà có trong thời
gian ngắn. Uy tín của DN sẽ giúp cho việc TTSP tốt hơn. Vì vậy các DN phải có sự
cố gắng vươn lên trong sản xuất kinh doanh để tạo lập uy tín và củng cố uy tín của
mình.
- Sản phẩm và chất lượng sản phẩm của DN: Điều quan trọng đầu tiên đối
với người tiêu dùng cũng như đối với nhà sản xuất là chất lượng sản phẩm. Chất
lượng sản phẩm có thể đưa DN tới đỉnh cao của danh lợi hoặc nó có thể đưa DN
đến bờ vực của sự phá sản, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của DN. Nó có thể
giúp doanh nghệip thu hút thêm khách hàng giành thắng lợi trong cạnh tranh.
- Giá cả sản phẩm: Giá cả là thông số ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu trên
thị trường. Giá cả được sử dụng như một vũ khí cạnh tranh nhưng nếu lạm dụng vũ
khí giá cả nhiều khi không thúc đẩy được tiêu thụ hàng hoá mà còn thiệt hại tới lợi
nhuận, bởi theo quan niệm của người tiêu dùng giá cả thể hiện chất lượng. Vì vậy
nhiều khi đặt giá thấp không phải là thúc đẩy được tiêu thụ.
- Hoạt động của người bán hàng và người đại lý chiếm vị trí quan trọng,
trung tâm trong hoạt động tiêu thụ vì họ là người trực tiếp thực hiện việc bán hàng,
thu tiền về. Doanh thu của DN cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của
họ. Người bán hàng có ảnh hưởng quan trọng nhất và trực tiếp nhất đến hành vi
mua hàng của khách hàng vì người bán hàng cùng một lúc thực hiện các hoạt động
11



quảng cáo, tiếp thị, thuyết phục khách hàng. Do đó, hoạt động của người bán hàng
tốt không những thúc đẩy được tiêu thụ mà còn tạo ra chữ tín đối với khách hàng,
có tác động trở lại làm tăng mức tiêu thụ (Dương Thế Hữu, 2005).
2.1.2.6 Sản phẩm
Sản phẩm được hiểu là một hệ thống thống nhất các yếu tố có liên hệ chặt
chẽ với nhau nhằm thỏa mãn động bộ nhu cầu của khách hàng bao gồm SP vật chất
(hiện vật), bao bì, nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ, cách thức bán hàng…(Nguyễn
Xuân Giang, 2005).
Theo quan điểm cổ điển, SP là tổng hợp các đặc tính vật lý, hóa học, có thể
quan sát, được tập hợp trong một hình thức đồng bộ nhất là vật mang giá trị sử
dụng. Trong nền sản xuất hàng hóa, SP chứa đựng các thuộc tính của hàng hóa. Nó
là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Nói cách khác, SP với
tư cách là một hàng hóa nó không chỉ là sự tổng hợp các đặc tính hóa học vật lý,
các đặc tính sử dụng mà còn là vật mang giá trị trao đổi hay giá trị (Trương Đình
Chiến, 2000).
Sản phẩm hàng hóa là “cái gì đó” nhằm thỏa mãn nhu cầu về mong muốn
của con người và được thực hiện thông qua quá trình trao đổi trên thị trường
(Nguyễn Nguyên Cự, 2005).“Cái gì đó” ở đây bao gồm cả yếu tố vật chất và phi
vật chất, đồng thời ngay cả trong SP hàng hóa vật chất cũng chứa đựng các yếu tố
phi vật chất trong nó.
- Chu kỳ sống của SP
Chu kỳ sống của SP là thuật ngữ mô tả sự biến đổi của doanh số tiêu thụ kể
từ khi sản phẩm được tung ra thị trường cho đến khi nó phải rút lui khỏi thị trường
(Nguyễn Nguyên Cự, 2005).
Chu kỳ sống của SP có bốn giai đoạn:
+ Giai đoạn tung SP ra thị trường: Đây là giai đoạn mở đầu của việc đưa
hàng háo ra bán chính thức trên thị trường. Đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng đối
với công ty, thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào giai đoạn này.

12


+ Giai đoạn phát triển: Đây là giai đoạn ăn nên làm ra của doanh nghiệp,
công ty nào cũng mong muốn thời gian của giai đoạn này càng dài càng tốt. Trong
giai đoạn này mức tiêu thụ tăng nhanh, lợi nhuận tăng nhưng đồng thời xuất hiện
nhiều đối thủ cạnh tranh.
+ Giai đoạn chín muồi: Đây là giai đoạn sản phẩm hàng hóa tiêu thụ chậm lại
có nghĩa là chúng tràn đầy trên các kênh phân phối, đồng thời sự cạnh tranh sẽ trở
nên gay gắt giữa các hãng độc lập do sức ép của việc TTSP. Sự cạnh tranh có thể
diễn ra theo các chiều hướng như: hạ giá, khuyến mãi, tăng cường quảng cáo, kích
thích các trung gian… tình hình đó dẫn đến sự giảm sút về lợi nhuận.
+ Giai đoạn suy thoái: Là giai đoạn mức tiêu thụ và lợi nhuận giảm sút
nghiêm trọng. Sự suy giảm đó có thể diễn ra nhanh, chậm, thậm chí đến số không.
Cũng có khi sự suy giảm đó diễn ra rồi chững lại ở đó một thời gian.
2.1.2.7 Giá cả sản phẩm
Trong nghiên cứu kinh tế, giá được hiểu là “sự biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hóa”. Trong kinh doanh và quản trị giá, giá cả được mô tả đơn giản và cụ thể
hơn “giá là khoản tiền phải trả cho một thứ gì đó” (Nguyễn Xuân Giang,2005).
Thông thường giá là một yếu tố rất nhạy cảm trong hoạt động kinh doanh nói
chung và hoạt động mua bán nói riêng, bởi giá liên quan đến lợi ích có tính mâu
thuẫn giữa người mua và người bán.
Giá là số tiền biểu hiện giá trị của một sự chuyển đổi nào đó: giá mua thể
hiện sự chuyển đổi lúc đầu vào, giá bán thê hiện sự chuyển đổi lúc đầu ra (Nguyễn
Phú Giang, 2005).
Đối với người bán, giá cả là khoản tiền trù tính có thể nhận được từ phía
người mua sau khi chuyển cho họ quyền sở hữu hay sử dụng hàng hóa và dịch vụ
đó. Còn đối với người mua thì giá cả luôn là chỉ số đầu tiên để đánh giá phần được
với chi phí mà họ bỏ ra để có được quyền sở hữu hay sử dụng hàng hóa đó.
(Nguyễn Nguyên Cự, 2005).

13


Phương pháp định giá:
- Phương pháp định giá theo giá thành
Giá bán = Chi phí bình quân 1 đơn vị SP + Lãi dự kiến
Lãi dự kiến: có thể xác định theo giá thành SP hoặc theo doanh số bán
Phương pháp này rất thích hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi lẽ:
+ Đơn giản,dễ tính vì chi phí sản xuất và tiêu thụ là những đại lượng mà
doanh nghiệp có thể kiểm soát được.
+ Khi nhiều doanh nghiệp trong ngành sử dụng phương pháp này thì giá của
họ sẽ tương tự như nhau, khả năng cạnh tranh về giá thấp.
+ Việc định giá theo phương pháp này, nhiều người cảm nhận nó đảm bảo sự
công bằng cho cả người mua và người bán.
Tuy nhiên phương pháp này trong nhiều trường hợp nó tỏ ra không hợp lý vì
bỏ qua sự ảnh hưởng của nhu cầu và nhận thức của khách hàng về giá.
- Phương pháp định giá theo lợi nhuận mục tiêu
Cơ sở của phương pháp này là đảm bảo chi phí và tỷ suất lơi nhuận mục tiêu
trên vốn đầu tư, đồng thời cho phép xem xét tới các mức giá khác nhau và ảnh
hưởng có thể có của chúng đến khối lượng tiêu thụ và lợi nhuận. Đặc biệt người ta
còn có thể dự báo được khoảng thời gian để đạt được điểm hoà vốn và sau đó kinh
doanh có lãi.
Tuy nhiên, phương pháp này chưa tính đến giá của đối thủ cạnh tranh và họ
mạo hiểm vì chưa tính đến độ co giãn của cầu theo giá.
Giá bán theo lợi
nhuận mục tiêu

=

chi phí một đơn vị

sản phẩm

Lợi nhuận mong muốn
+

tính trên vốn đầu tư
Số sản phẩm

Phương pháp này sử dụng có hiệu quả khi doanh nghiệp dự đoán chính xác
khối lượng tiêu thụ.
`- Định giá theo cạnh tranh
Khi định giá cho sản phẩm của mình các doanh nghiệp phải dựa vào giá của
đối thủ cạnh tranh để quyết định, ít quan tâm đến chi phí và nhu cầu.

14


Theo phương pháp này, mức giá của doanh nghiệp đưa ra có thể ngang bằng,
thấp hay cao hơn giá của đối thủ cạnh tranh. Điều đó phụ thuộc vào vị thế của
doanh nghiệp cũng như tương quan giữa chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp
kinh doanh.
Một số nguyên tắc có tính chỉ dẫn cho cách định giá này:
+ Trong khu vực kinh doanh độc quyền nhóm bán thì các doanh nghiệp
thường chào chung một giá.
+ Các doanh nghiệp nhỏ quyết định giá của mình theo các doanh nghiệp “dẫn
đầu” chứ không phải dựa vào nhu cầu hay chi phí của doanh nghiệp.
+ Giá bán của doanh nghiệp có thể cao hơn giá của đối thủ nếu doanh nghiệp có
thể tạo ra sự khác biệt về sản phẩm được khách hàng chấp nhận, hoặc có thể nhỏ hơn.
Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, khoảng cách giữa hai giá không quá lớn tránh ảnh
hưởng đến những khách hàng nhạy cảm về giá, tránh khuynh hướng tạo ra cạnh tranh

về giá giữa các doanh nghiệp, tránh vi phạm pháp luật quy định cho giá cả.
Phương pháp này thường dùng trong trường hợp khó xác định chi phí, phản
ứng cạnh tranh không chắc chắn.
2.1.2.8 Kênh phân phối sản phẩm
Kênh phân phối là tập hợp những cá nhân hay những cơ sở sản xuất kinh
doanh độc lập và phụ thuộc lẫn nhau, tham gia vào quá trình tạo ra dòng vận
chuyển hàng hóa, dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng
Có thể nói đây là một nhóm các tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động
nhằm thỏa mãn nhu cầu của người mua và tiêu dùng hàng hóa của người sản xuất.
Tất cả những người tham gia vào trong kênh phân phối được gọi là các thành viên
của kênh, các thành viên nằm giữa người sản xuất và người tiêu dùng là những
trung gian thương mại, các thành viên này tham gia nhiều kênh phân phối và thực
hiện các chức năng khác nhau:
- Nhà bán buôn: Là những trung gian bán hàng hóa, dịch vụ cho các trung
gian khác như các nhà bán lẻ hoặc những nhà sử dụng công nghiệp.
15


- Nhà bán lẻ: Là những trung gian bán hàng hóa và dịch vụ trực tiếp cho
người tiêu dùng cuối cùng.
- Đại lý và môi giới: Là những trung gian có quyền hợp pháp thay mặt cho
nhà sản xuất cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho các trung gian khác. Trung gian này
có thể đại diện cho nhà sản xuất nhưng không sở hữu sản phẩm mà họ có nhiệm vụ
đưa người mua và người bán đến với nhau.
- Nhà phân phối: Là chỉ chung những người trung gian thực hiện chức năng
phân phối trên thị trường.
Các loại kênh phân phối:
Kênh không cấp
Nhà SX


Kênh 1 cấp

Kênh 2 cấp

Nhà SX

Nhà SX

Kênh 3 cấp
Nhà SX

Đại lý

Nhà bán buôn

Nhà bán lẻ
Khách hàng tiêu dùng


đồ

2.1.



hình

kênh

phân


phối

- Kênh không cấp còn gọi là kênh trực tiếp: Ở kênh này, nhà sản xuất bán
hàng trực tiếp cho người tiêu dùng, không qua trung gian.
- Kênh 1 cấp: có một trung gian là các nhà bán lẻ.
- Kênh 2 cấp: Có hai trung gian là nhà bán buôn và nhà bán lẻ.

16


- Kênh 3 cấp: Có ba cấp trung gian là đại lý đến nhà phân phối và nhà bán lẻ.
2.2 Cơ sở thực tiễn nghiên cứu đề tài
2.2.1 Một vài nét về thị trường gạch đất sét nung ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, vật liệu xây ở nước ta từ xưa đến nay chủ yếu là gạch
đất sét nung. Hầu hết từ Bắc đến Nam đều sử dụng loại gạch này, gạch được sử
dụng vào nhiều công trình như xây dựng nhà ở, nhà làm việc, các công trình kiên
cố hóa kênh mương, các công trình cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng
xa… Cùng với yêu cầu về số lượng không ngừng tăng lên thì yêu cầu về chất lượng
cũng khắt khe hơn. Và đó là lý do thúc đẩy hoạt động SXKD, tiếp thu cải tiến công
nghệ của các DN trong ngành. Theo thống kê của Hội vật liệu xây dựng Việt Nam,
tại Việt Nam, VLXD chủ yếu là gạch đất sét nung, chiếm tới 91,5% tổng lượng
gạch xây được sử dụng. Trong số này, gạch sản xuất bằng công nghệ lò nung
Tuynel mới chiếm khoảng 40%, số còn lại được sản xuất chủ yếu bằng phương
pháp thủ công. Cũng theo thống kê của hội này, nhu cầu TTSP gạch đất sét nung
của nước ta tăng lên rất nhanh: năm 2000 là khoảng 19 tỷ viên, năm 2005 khoảng
31 tỷ viên (Nguyễn Thành Luân, 2006), và năm 2008 là 42 tỷ viên (Theo
TTXVN,2008). Hiện có nhiều Công ty sản xuất và kinh doanh sản phẩm gạch đất
sét nung công nghệ Tuynel với số lượng sản xuất ngày càng nhiều. Tính trên cả
nước đã có khoảng gần 200 Công ty, nhà máy, xí nghiệp sản xuất gạch đất sét nung

công nghệ Tuynel đã và đang hình thành như: Hạ Long 1 – Viglacera, Thạch Bàn,
Giếng Đáy, Bình Định, Bình Dương, Long Thành Đồng Nai, An Lộc, Kiên Giang,
Côn Sơn, Dacom,… với tổng công suất trên 24 tỷ viên/năm.
Khi mà thu nhập và trình độ dân trí không ngừng tăng lên thì đòi hỏi về chất
lượng SP cũng tăng lên rất nhanh. Không giống trước đây, các công trình chủ yếu
sử dụng sản phẩm của các lò gạch thủ công thì hiện nay thị trường đòi hỏi những
SP đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, đảm bảo an toàn khi sử dụng, cùng với nó là kiểu
dáng, kích thước, mẫu mã đa dạng để đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ của công trình. Do
đó, các DN luôn chú trọng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng SP của đơn vị
17


mình. Cuộc cạnh tranh giành giật thị trường giữa các hãng hiện nay đang diễn ra rất
gay gắt mạnh mẽ. Chính vì thế việc tạo ra lợi thế cạnh tranh với các đối thủ là điều
mà các nhà sản xuất kinh doanh gạch đất sét nung luôn quan tâm.
2.2.2 Một số nghiên cứu trước đây về tiêu thụ sản phẩm gạch
1. Nguyễn Thành Luân (2006), ‘Phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm gạch
đất sét nung tại Công ty Cổ phần Hạ Long 1 – Viglacera’, Luận văn tốt nghiệp đại
học. Nghiên cứu đã trình bày về cơ sở lý luận tiêu thụ sản phẩm và thực tiễn tiêu
thụ sản phẩm gạch đất sét nung của Công ty Cổ phần Hạ Long 1 – Viglacera.
Về phân tích hoạt động TTSP gạch đất sét nung của Công ty, nghiên cứu tập
trung đi vào tìm hiểu tình hình tiêu thụ của một số sản phẩm gạch đất sét nung của
Công ty sản xuất theo công nghệ lò đứng và lò Tuynel về số lượng sản xuất, sản
lượng tiêu thụ, thị trường tiêu thụ, giá bán sản phẩm, hệ số tiêu thụ,…
Nghiên cứu cũng tập trung phân tích các hoạt động tiêu thụ sản phẩm gạch đất
sét nung của Công ty như hoạt động nghiên cứu dự báo thị trường, tổ chức thực hiện
chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược chiêu thị,…
2. Dương Thế Hữu (2005), ‘Thực trạng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh
hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở Công ty gạch ốp lát Thái Bình’, Luận văn tốt nghiệp
đại học. Nghiên cứu tập trung vào thực trạng hệ thống kênh phân phối sản phẩm

của Công ty và tiêu thụ sản phẩm trên các khu vực thị trường và theo kênh tiêu thụ
như số đại lý ở các khu vực thị trường, doanh thu từ các khu vực thị trường, sản
lượng tiêu thụ qua các kênh phân phối,…
Nghiên cứu cũng đã làm rõ các hoạt động tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm
của Công ty như thực trạng về giá cả, phân phối, các hoạt động hỗ trợ bán hàng…
Hai nghiên cứu trên đã đánh giá được kết quả trong hoạt động tiêu thụ sản
phẩm, những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại hạn chế. Tuy nhiên, lại
chưa đánh giá được hiệu quả trong tiêu thụ sản phẩm, cũng như chưa phân tích để
thấy những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong hoạt động TTSP của
Công ty trong thời gian qua cũng như trong tương lai. Đây chính là những vấn đề
mà nghiên cứu của tôi bổ sung.
18


PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm của công ty
3.1.1 Vị trí địa lý của công ty
Nằm trên quốc lộ 39B, km 0 + 700 từ Thị trấn Tiền Hải đi khu nghỉ mát
Đồng Châu, Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải thuộc địa bàn quản lý
của thị trấn Tiền Hải, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Với vị trí nằm trên khu trung
tâm của thị trấn, gần với khu công nghiệp Tiền Hải nên Công ty có điều kiện thuận
lợi để phát triển sản xuất, trao đổi buôn bán với các huyện và tỉnh khác. Lợi thế này
tạo ra sức mạnh cạnh tranh lớn cho Công ty. Đồng thời, do nằm trên một địa bàn có
tốc độ phát triển kinh tế cao, thu nhập của người dân không ngừng tăng lên, các
công trình xây dựng lớn nhỏ đang mọc lên như nấm, giao thông khá phát triển. Đây
là một điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc TTSP, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
3.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải tiền thân là Công ty xây lắp
Tiền Hải được thành lập theo quyết định số 444 ngày 18/09/1985 của UBND tỉnh

Thái Bình thực hiện nghị định số 388 ngày 20/11/1991 của Chính phủ nhằm sắp
xếp ổn định lại các DN Nhà nước. Công ty xây lắp Tiền Hải được thành lập lại DN
Nhà nước theo thông báo của Bộ xây dựng số 364 ngày 7/01/1992, được UBND
tỉnh ra Quyết định số 08 ngày 7/01/1993 và được trọng tài kinh tế cấp giấy phép
kinh doanh số 106763 ngày 04/03/1993. Năm 2005 thực hiện Nghị định số
187/2004 của Chính phủ ngày 16/11/2004, ngày 04/05/2005 UBND tỉnh Thái Bình
ra quyết định số 979 chuyển Công ty xây lắp Tiền Hải là DN Nhà nước thành Công
ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải, được Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Thái

19


Bình cấp giấy phép đăng ký kinh doanh số 0803000249 ngày 29/11/2005. Công ty
có tên giao dịch là “Tien Hai construction and investment join stock company”.
Ngành nghề kinh doanh chính của Công ty là sản xuất các sản phẩm gốm sứ,
vật liệu chịu lửa; mua bán vật liệu xây dựng; xây dựng các công trình dân dụng,
công nghiệp, giao thông thuỷ lợi; lắp đặt trang thiết bị cho các công trình xây dựng
tư vấn đấu thầu, tư vấn thẩm định thiết kế công trình, theo dõi giám sát thi công. Từ
tháng 04/2000 được sự cho phép của UBND và Sở xây dựng tỉnh Thái Bình, Công
ty xây lắp Tiền Hải đã mạnh dạn đầu tư xây dựng hai nhà máy sản xuất gạch đất sét
nung với công suất thiết kế là 30.000.000 viên/năm. Tổng số vốn đầu tư cho xây
dựng công trình ban đầu là 20 tỷ đồng. Toàn bộ dây chuyền công nghệ sản xuất
gạch đất sét nung được nhập từ Nga. Ngày 08/04/2001 dây chuyền được xây dựng
xong và chính thức đi vào chạy thử thành công. Có thể nói Công ty cổ phần đầu tư
và xây dựng Tiền Hải là một DN được hình thành trong cơ chế thị trường có sự
cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên sau 8 năm sản xuất kinh doanh cho thấy rằng Công
ty đã phát triển và đứng vững trên thị trường, sản phẩm của Công ty có mặt trên thị
trường trong và ngoài tỉnh Thái Bình góp phần tạo việc làm cho nhiều lao động tại
địa phương.
3.1.3 Tình hình lao động của Công ty

Lao động là một trong những nguồn lực không thể thiếu trong bất kỳ hoạt
động SXKD nào, đặc biệt với doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất như Công
ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải. Xuất phát từ ngành nghề đăng ký SXKD
là sản xuất và bán các SP vật liệu xây dựng đất sét nung, cụ thể là gạch đất sét nung
và quy mô SXKD của Công ty cũng không lớn nên yêu cầu về số lượng lao động là
khá nhỏ. Đồng thời, trong lĩnh vực sản xuất thì yêu cầu về số lượng lao động có
trình độ chuyên môn cao cũng không quá khắt khe. Cụ thể số lượng lao động của
Công ty qua 3 năm 2006 – 2008 thể hiện như sau:
Tổng số lao động của Công ty qua 3 năm (2006 – 2008) không có sự biến
động lớn, năm 2006 là 364 người, năm 2007 giảm xuống chỉ còn 350 người, đến
20


năm 2007 số lượng lao động của Công ty là 366 người, tốc độ tăng bình quân qua
3năm là 0,27%. Cụ thể, xét theo tính chất lao động, công nhân sản xuất chiếm tỷ lệ

21


Bảng 3.1 Tình hình sử dụng lao động của Công ty qua 3 năm 2006 - 2008
2006

2007

2008

SL
CC
(người) (%)
364

100,0
0

SL
CC
(người) (%)
350
100,0
0

SL
CC
(người) (%)
366
100,0
0

I. Phân theo tính chất LĐ
1. CN sản xuất
2. Nhân viên phục vụ

298
12

81,87
3,30

288
12


82,29
3,43

295
12

80,60
3,28

3. CB quản lý

54

14,83

50

14,28

59

16,12

II. Theo trình độ chuyên môn
1. Đại học

12

3,30


12

3,43

14

3,83

2. Cao đẳng
3. Trung cấp

0
22

6,04

0
22

6,29

2
22

0,55
6,01

4. CNKT và LĐ phổ thông

330


90,66

316

90,29

328

III. Theo thời gian ký kết hợp
đồng
1. Ngắn hạn ( HĐ)
153

42,03

130

37,14

140

Chỉ tiêu
Tổng số LĐ

22

Tốc độ phát triển (%)
07/06


08/07

BQ

96,15

104,5
7

100,27

96,64
100,0
0
92,59

102,43 99,50
100,0 100,00
0
118,0 104,53
0
116,67 108,01

89,62

100,0
0
_
100,0
0

95,76

38,25

84,97

107,69 95,66

_
100,0
0
103,8
0

_
100,00
9970


2. Dài hạn (Biên chế)

211

57,97

220

23

62,86


226

61,75 104,27 102,73 103,49
Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính


cao nhất do đặc thù của Công ty đòi hỏi nhiều lao động chân tay như công nhân
bốc xếp, công nhân vận chuyển nhưng lao động sản xuất của Công ty những năm
qua lại có xu hướng giảm, bình quân qua 3 năm giảm 0,5%. Nguyên nhân do trên
địa bàn có nhiều công ty mới thành lập, đây là lý do nhiều công nhân có kinh
nghiệm và tay nghề bỏ Công ty qua các công ty khác làm ( họ bị hấp dẫn về thu
nhập). Số lượng nhân viên phục vụ của Công ty đựơc duy trì ở mức ổn định với 12
người nên không có sự biến động gì. Đồng thời, cán bộ quản lý cũng có sự biến
động, trung bình qua 3 năm cán bộ quản lý của Công ty tăng 4,53%, lý do của sự
biến động này là những năm gần đây sản xuất của Công ty đã đi vào ổn định, sản
lượng sản xuất ngày càng tăng do đó đòi hỏi những cán bộ có trình độ để quản lý,
giám sát công việc.
Cùng với sự biến động về số lượng lao động thì chất lượng lao động cũng có
sự thay đổi. Cụ thể ở 2 nhóm đại học, cao đẳng và công nhân kỹ thuật và lao động
phổ thông số lượng lao động có trình độ đại học và cao đẳng tăng lên do nhu cầu
số lượng cán bộ quản lý của Công ty tăng, còn số lượng lao động phổ thông và
công nhân kỹ thuật giảm đi đã được phân tích ở trên. Nhìn chung, qua 3 năm số
lượng lao động có trình độ đại học tăng bình quân 8,01%, còn lao động phổ thông
và công nhân kỹ thuật giảm bình quân 0,3%.
Ngoài ra, khi phân theo thời gian ký kết hợp đồng lao động thì số lượng lao
động có thời gian ký kết hợp đồng dài hạn có xu hướng tăng lên và số lao động có
thời gian ký kết hợp đồng ngắn hạn có xu hướng giảm là do số lao động hợp đồng
ngắn hạn sau thời gian kiểm tra tay nghề đã được Công ty ký kết hợp đồng dài hạn.
3.1.4 Tình hình tài sản và nguồn vốn của Công ty

Cũng như lao động, vốn là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình
SXKD của bất kỳ DN nào. Duy trì được cơ cấu vốn hợp lý đảm bảo cho Công ty
phản ứng nhanh nhạy được với các biến động của thị trường về mặt tài chính và giá
cả. Đây là yếu tố rất quan trọng giúp DN tồn tại, đứng vững trong sự cạnh tranh
khốc liệt của kinh tế thị trường. Là một DN có quy mô nhỏ nên tổng nguồn vốn của
24


Công ty cũng không lớn, cụ thể: năm 2006 là 42.522,74 triệu đồng, năm 2007 là
42.154,33 triệu đồng và năm 2008 là 54.211,88 triệu đồng, trung bình qua 3 năm
nguồn vốn của Công ty tăng 12.91%. Nguyên nhân là do Công ty mở rộng sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm nên nhu cầu về vốn của Công ty tăng do đó
Công ty vay thêm từ các DN khác và từ ngân hàng.
Về mặt tài sản của Công ty, tài sản cố định và đầu tư dài hạn luôn chiếm tỷ lệ
cao và luôn duy trì ở mức trên 60% tổng số tài sản. Tài sản cố định của Công ty tập
trung chủ yếu vào các dây chuyền sản xuất, qua 3 năm nghiên cứu tài sản cố định
và đầu tư dài hạn tăng bình quân 11,16%. Với một cơ cấu tài sản như vậy sẽ đảm
bảo cho DN phát triển một cách vững chắc về sau. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn
hạn chiếm khoảng trên 30% tổng số tài sản, trong đó hàng tồn kho thường chiếm tỷ
trọng cao nhất. Năm 2006, hàng tồn kho chiếm tới 74,46%, năm 2007 chiếm
66,53% và năm 2008 là 70,87%. Bình quân qua 3 năm giá trị hàng tồn kho tăng
13,83%, đây là khó khăn trong tiêu thụ Công ty cần tìm giải pháp khắc phục.
Trong tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, biến động lớn nhất là các khoản phải
thu, đó là các khoản hàng bán chịu chưa đòi được hoặc các công trình xây dựng
chưa thanh toán được. Bình quân qua 3 năm nghiên cứu số phải thu tăng 37,24%,
điều này cho thấy Công ty chưa khắc phục được tình trạng bị các đơn vị khác
chiếm dụng vốn trong khi vốn vẫn phải đi vay từ ngân hàng và các đơn vị khác và
chịu lãi suất.
Về nguồn hình thành tài sản, vốn chủ sở hữu của Công ty chiếm tỷ lệ cao
trên dưới 60% và trong 3 năm qua không ngừng tăng lên, bình quân qua 3 năm tăng

13,45%. Với nguồn vốn chủ sở hữu này giúp Công ty ít chịu ảnh hưởng bởi các tác
động tài chính, đảm bảo cho quá trình SXKD phát triển tốt. Trong nguồn hình
thành tài sản thì nợ phải trả của Công ty cũng có xu hướng tăng lên, bình quân qua
3 năm nợ phải trả của Công ty tăng bình quân 12,04%. Trong đó nợ dài hạn tăng
mạnh nhất, bình quân tăng 32,71% nguyên nhân năm 2007 Công ty vay của Ngân
hàng để đầu tư nâng cấp dây chuyền sản xuất gạch Nem tách. Nợ ngắn hạn cũng có
25


×