Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Nghiên cứu tác động của khu công nghiệp tới thu nhập của lao động nông thôn tại xã Bạch Sam huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.71 KB, 105 trang )

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Khu công nghiệp được định nghĩa là khu vực công nghiệp tập trung,
được hình thành do quyết định của Chính phủ với các ranh giới được xác
định, cung ứng các dịch vụ để hỗ trợ sản xuất và không có khu dân cư. Nhìn
một cách tổng thể trong hơn 20 năm đất nước đổi mới, hàng loạt khu công
nghiệp mọc lên, các vùng kinh tế trọng điểm ra đời đã góp phần quan trọng,
đem lại những thành tựu to lớn, đóng góp tích cực vào sự phát triển công
nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương cũng như vào sự phát
triển chung của nền kinh tế nước ta; tạo ra một kênh việc làm mới trong việc
thu hút lao động nông thôn rất có tiềm năng và hiệu quả, góp phần quan trọng
giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ (kể cả lao động của những hộ bị thu
hồi đất) và lao động nhập cư. Những năm gần đây, lực lượng lao động trong
khu công nghiệp tăng lên mạnh mẽ cùng với sự phát triển của khu công
nghiệp. Bên cạnh đó, sự phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN,
KCX) cũng đã kéo theo nhiều hệ lụy như diện tích đất nông nghiệp bị thu
hẹp, đời sống của người lao động gặp rất nhiều khó khăn, thu nhập của người
nông dân bị ảnh hưởng, môi trường trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
bị ô nhiễm đến mức báo động và xa hơn chính là "hậu" công nghiệp sẽ là gì?
Phát triển các KCN hiện nay trên địa bàn cả nước có thể nói, sự "được - mất"
của "hậu" công nghiệp còn nhiều việc phải làm.
Với một vị trí thuận lợi trong vùng kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ với
nhiều lợi thế về vị trí địa lý, hiện nay trên địa bàn xã Bạch Sam đã thu hút đến
hai khu công nghiệp được phép thành lập và phát triển do Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt đó chính là khu công nghiệp Minh Đức và khu công nghiệp
Minh Quang. Với hơn 55,15 ha đất nông nghiệp bị "chia cắt" là vấn đề giải
quyết việc làm của người nông dân sau khi đất nông nghiệp đưa vào xây dựng
khu công nghiệp và nếu không giải quyết được vấn đề này thì sẽ ảnh hưởng


rất lớn đến thu nhập cũng như cơ cấu thu nhập của các hộ nông dân. Và trên
thực tế các hộ nông dân đang bước đầu có những hướng đi nhằm thích ứng


khác nhau trong việc tiếp cận và tìm kiếm kênh việc làm mới, khiến cho cơ
cấu lao động nông nghiệp giảm và thay vào đó chính là số lượng lao động
ngành nghề dịch vụ tăng một cách đáng kể. Năm 2008 số lao động nông
nghiệp trong nhóm hộ điều tra giảm 21,65% so với năm 2004; trong khi đó
lao động phi nông nghiệp có chiều hướng gia tăng, chiếm 33,75% năm 2004
đến năm 2008 lên tới 46,34%. Đặc biệt trong nhóm hộ điều tra có tới 23 lao
động làm trong các khu công nghiệp (chiếm 30,26% tổng số lao động phi nông
nghiệp) và số lao động này trong năm 2004 chưa xuất hiện nhưng nếu tính bình
quân số công nhân trên hộ điều tra thì con số này là 0,38 lao động/ hộ, rất thấp
so với thực tế tổng lao động/ hộ là 2,31. Điều này sẽ góp phần dẫn tới tình
trạng dư thừa lao động nông thôn, chính vì vậy nhu cầu chuyển sang hình thức
buôn bán, làm thương mại dịch vụ (kinh doanh nhà trọ, kinh doanh hàng ăn,
dịch vụ Internet, kinh doanh cây giống, chạy xe ôm, chạy xe ngựa, thợ xây,
phụ hồ v.v...), hoặc đi làm thuê tự do, hoặc là làm công nhân đang được các
hộ quan tâm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của khu công nghiệp. Theo
đó, cơ cấu thu nhập của các nhóm hộ nông dân đang dần được cải thiện một
cách đáng kể (giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ dần tỷ trọng các
ngành nghề, dịch vụ và từ lương công nhân). Tổng thu nhập bình quân/ hộ
tăng mạnh từ 16,37 triệu đồng năm 2004; đến năm 2008 là 32,06 triệu đồng.
Kéo theo đó là thu nhập bình quân/ lao động tăng từ 6,14 triệu đồng năm
2004 lên đến 11,75 triệu đồng năm 2008.
Không dừng lại ở đó, khu công nghiệp đã và đang tác động đến mọi
mặt đời sống, kinh tế - xã hội của người dân, nhất là các hộ bị mất đất canh
tác. Cơ hội tìm kiếm kênh việc làm mới tại các khu công nghiệp thì nhiều
nhưng lao động nông nghiệp là lao động phổ thông, hầu hết chưa qua đào
tạo tay nghề, còn yếu về tác phong công nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật kém
vì đa số họ chưa quen với môi trường công nghiệp. Ðiều này, khiến các hộ
ii



có hướng đi khác nhau trong việc tìm kiếm việc làm, trong đó có tới 50 % ý
kiến các hộ cần phải cải thiện, nâng cấp lao động bằng cách đầu tư cho con
cái đi học và theo đó mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của các khu
công nghiệp. Ngoài ra, nhiều diện tích đất canh tác của các hộ nông dân coi
như không sử dụng được đang dần tăng lên do sau khi bị thu hồi đất thì các
hộ này vẫn còn dải đất sát cạnh đất bị thu hồi. Tuy nhiên, các dải đất này
đang dần bị lãng phí do diện tích còn lại còn quá nhỏ và các khu công
nghiệp đang dần phát huy khả năng của mình trong việc tác động xấu đến
môi trường quanh khu công nghiệp, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát
triển của cây trồng vật nuôi. Các tệ nạn xã hội đang có tiềm ẩn bùng phát
trong những năm gần đây, với 60% ý kiến nhận xét, có tới 65% ý kiến cho
rằng môi trường đang ảnh hưởng nặng nề,....
Có thể nói, đất nông nghiệp là trung tâm của các mối quan hệ trong xã
hội nông thôn, là sự liên kết cuộc sống của họ trong nhiều thế hệ. Chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức
tạp, đòi hỏi phải có sự giải quyết thấu tình đạt lý của các cấp chính quyền,
điều quan trọng là trước mắt cần phải có sự đánh giá, điều tra về thực trạng sử
dụng đất để từ đó tiến hành phân loại đất, xem loại đất nào để lại phục vụ sản
xuất nông nghiệp, loại đất nào phù hợp cho phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Trên cơ sở đó, đưa ra những luận cứ khoa học đánh giá về sự "lợi, hại" của
việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp. Và khi đã quy
hoạch phát triển công nghiệp, làm khu công nghiệp thì cần phải theo một quy
hoạch thống nhất, cần có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng khu
công nghiệp dựa trên lợi thế của từng KCN nhằm chọn loại dịch vụ, ngành
nghề gì đặt vào đó để sản xuất, tức loại ngành nào đặt nhà xưởng ở khu công
nghiệp nào để đảm bảo được môi trường sinh thái và sức khoẻ con người
không bị ảnh hưởng. Đi liền với nó là phải đào tạo và sử dụng được lao động
tại địa phương vào làm việc tại các khu công nghiệp cũng như tận dụng khả
năng của các khu công nghiệp trong việc phát triển ngành nghề, dịch vụ.
iii



MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai.....Error: Reference source
not found
Bảng 3.2: Tình hình nhân khẩu và lao động của xã Bạch Sam...........Error:
Reference source not found
Bảng 3.3: Tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật năm 2008.......Error: Reference
source not found
Bảng 4.1: Cơ cấu kinh tế của xã Bạch Sam........Error: Reference source not
found
Bảng 4.2: Tình hình chung về các nhóm hộ điều tra..Error: Reference source not
found
Bảng 4.3: Thực trạng thu hồi đất sản xuất của các nhóm hộ điều tra........Error:
Reference source not found
Bảng 4.4: Tác động của khu công nghiệp đến cơ cấu lao động nông thôn
...................................................................... Error: Reference source not found
Bảng 4.5: Tác động của khu công nghiệp đến cơ cấu việc làm của lao động
trong các nhóm hộ điều tra.............................. Error: Reference source not found
Bảng 4.6: Tác động của khu công nghiệp đến cơ cấu ngành nghề của các nhóm hộ điều tra
...................................................................... Error: Reference source not found
Bảng 4.7: Tác động của khu công nghiệp đến thu nhập của lao động
trong các nhóm hộ điều tra........................Error: Reference source not found

iv


Bảng 4.10: So sánh thu nhập của lao động trong các nhóm hộ điều tra

...................................................................... Error: Reference source not found
Bảng 4.11: Đánh giá của các nhóm hộ điều tra về xu hướng thay đổi thu nhập
...................................................................... Error: Reference source not found
Bảng 4.12: Tác động của khu công nghiệp đến cơ cấu thu nhập của người
lao động trong các nhóm hộ điều tra........Error: Reference source not found
Bảng 4.13: Kế hoạch ổn định và nâng cao thu nhập của các nhóm hộ điều tra
...................................................................... Error: Reference source not found
Bảng 4.14: Ý kiến đánh giá tác động của khu công nghiệp đến hộ nông dân
...................................................................... Error: Reference source not found
Bảng 4.15: Ý kiến hộ điều tra về tìm kiếm việc làm Error: Reference source
not found

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.8: Thu nhập bình quân/ hộ/ năm........Error: Reference source not
found
Biểu đồ 4.9: Thu nhập bình quân/ lao động/ năm Error: Reference source not
found

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1: Bản đồ địa chính xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên
...................................................................... Error: Reference source not found

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND

: Ủy ban nhân dân

HĐND

: Hội đồng nhân dân


NXB

: Nhà xuất bản

NN

: Nông nghiệp
v


KCN

: Khu công nghiệp

KCX

: Khu chế xuất

CN

: Công nghiệp

CN – XD

: Công nghiệp – Xây dựng

TTCN

: Tiểu thủ công nghiệp


TMDV

: Thương mại dịch vụ

HTX

: Hợp tác xã

BQ

: Bình quân

LĐNN

: Lao động nông nghiệp

BQLĐNN

: Bình quân lao động nông nghiệp

GTSX

: Giá trị sản xuất

GTSXNN

: Giá trị sản xuất nông nghiệp

SXNN


: Sản xuất nông nghiệp

THCS

: Trung học cơ sở

PTTH

: Phổ thông trung học

vi


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Cho đến nay, tuy nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn, đã có
những bước biến chuyển đi lên nhưng nói chung vẫn còn là một nước nghèo,
nước nông nghiệp, thuộc nhóm các nước đang phát triển trên thế giới. Nền kinh
tế của nhóm các nước đang phát triển nói chung hay nền kinh tế Việt Nam nói
riêng có chung một đặc trưng đó là hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở
sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, kỹ thuật sản xuất thủ công còn
lạc hậu,….Chính vì vậy, hiệu quả sản xuất thấp nên một điều hiển nhiên đó là
mức thu nhập bình quân đầu người thấp. Mức thu nhập thấp dẫn đến tình trạng
chỉ đủ đáp ứng những nhu cầu cần thiết, nhu cầu tối thiểu nên họ không còn đủ
khả năng để tích luỹ từ đồng lương ít ỏi này. Mức thu nhập thấp cũng làm cho
đời sống vật chất, tinh thần thấp, không phong phú, nó còn là hạn chế những
nhu cầu cơ bản của con người về văn hoá, giáo dục, y tế,….
Để hội nhập với cộng đồng quốc tế, để theo kịp xu hướng phát triển
chung của nhân loại chúng ta cần phải có những bước đột phá mới nhằm tạo

điều kiện cho nền kinh tế đất nước ngày một lớn mạnh với phương thức sản
xuất, phương hướng phát triển phù hợp. Trong quá trình tìm kiếm con đường
phát triển, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh đến chủ trương, chính
sách công nghiệp hoá - hiện đại hoá, theo đó đến năm 2020 phấn đấu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước chính là xây dựng nước ta trở thành một một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh xã hội công bằng văn minh. Để thực hiện mục tiêu trên từ năm 1991 các
khu công nghiệp, khu chế xuất (KCX, KCN) tập trung đã được phát triển
nhiều tại các địa phương trên cả nước và khi các KCN này hình thành và phát
triển đã đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội như: tăng thu
1


nhập cho lao động, giải quyết việc làm, thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đất
đai, cơ cấu lao động,... Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Khuyến
khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp
phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm
xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc
khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất". Tuy
nhiên, việc quy hoạch, phát triển và xây dựng tràn lan các KCN đang diễn ra
tại nhiều địa phương đã nảy sinh ra nhiều vấn đề tiêu cực tác động không nhỏ
đến bộ phận dân cư trong khu vực do đất canh tác bị thu hồi và do chất thải từ
KCN hay tình hình di cư lao động ngày càng lớn,...Do đó quá trình xây dựng
và phát triển KCN cần gắn liền với việc giải quyết tốt vấn đề lao động, việc
làm, nhằm nâng cao thu nhập để ổn định đời sống cho người dân, đây chính là
vấn đề có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Bạch Sam, một xã nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng và vùng tam
giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, cách thủ đô Hà

Nội 35 km về phía Tây. Ngoài ra, Bạch Sam nằm trong quy hoạch KCN Minh
Đức và KCN Minh Quang với 2,5 Km quốc lộ 5A chạy qua đại bàn nên đã
thu hút một lượng lớn các dự án đầu tư của các doanh nghiệp, góp phần
không nhỏ trong quá trình giao lưu kinh tế - văn hóa - xã hội với các xã trong
và ngoài huyện. Phát huy lợi thế đó cùng với sự cần cù năng động của người
dân, những năm gần đây, xã đã đẩy mạnh công nghiệp, dịch vụ, coi đây là
động lực phát triển kinh tế xã hội. Nhưng nếu nhìn về khía cạnh thực tế thì
các KCN tác động như thế nào đến quá trình chuyển dịch lao động nông thôn
cũng như thu nhập của nhóm này? cách giải quyết cũng như mong muốn của
họ ra sao? Xuất phát từ những thực tế trên, tôi đã tiến hành chọn và nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu tác động của khu công nghiệp tới thu nhập của lao
động nông thôn tại xã Bạch Sam - huyện Mỹ Hào - tỉnh Hưng Yên”.

2


1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu tác động của KCN tới thu nhập của lao động
nông thôn tại xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Từ đó làm cơ sở
đề xuất một số giải pháp chính sách góp phần nâng cao thu nhập, công ăn việc
làm cũng như cải thiện điều kiện sống cho người lao động nông thôn.
1.2.2 Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
- Những đóng góp và ảnh hưởng của KCN đối với kinh tế - xã hội tại
địa bàn nghiên cứu.
- Tác động của KCN tới lao động, việc làm của lao động nông thôn và
thu nhập của lao động nông thôn trên địa bàn nghiên cứu.
- Đánh giá chung tác động KCN đến hộ nông dân trên địa bàn nghiên cứu
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao thu nhập, việc làm,
cải thiện điều kiện sống cho người lao động và đưa ra các khuyến cáo cho các

chính sách đối với người lao động.
1.3 Câu hỏi nguyên cứu
- KCN có những đóng góp gì đối với kinh tế xã hội cũng như sinh kế
của người dân?
- Tác động KCN đến quá trình dịch chuyển lao động từ lao động nông
nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ?
- Tác động của KCN thế nào đến thị trường lao động, việc làm trên địa
bàn xã Bạch Sam?
- Liệu KCN có đảm bảo tốt thu nhập cho lao động trong khu vực nông thôn?
- Hành vi ứng xử của người lao động như thế nào về việc xây dựng,
phát triển KCN cũng như vấn đề ra quyết định trong việc thay đổi ngành nghề
cũng như học nghề?
- Các giải pháp, đề xuất đưa ra nhằm giải quyết những tác động tiêu
cực của KCN đến lao động nông thôn trong tương lai?
3


1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các vấn đề về thu nhập của lao động
nông thôn, nguyên nhân cũng như tác động của khu công nghiệp đến thu nhập
tại xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu tác động của khu công
nghiệp tới thu nhập của lao động nông thôn của xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào,
tỉnh Hưng Yên.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu được tiến hành trên địa bàn xã Bạch Sam,
huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
- Phạm vi thời gian: nghiên cứu, đánh giá, tìm hiểu các thông tin, số
liệu liên quan đến đề tài được thu thập trong 3 năm gần đây (2006 - 2008).


4


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Một số vấn đề về lý luận cơ bản về khu công nghiệp
2.1.1 Một số khái niệm liên quan đến khu công nghiệp
Khu công nghiệp đã hình thành và phát triển hơn 100 năm nay, tuy nhiên
khái niệm về khu công nghiệp chưa thực sự có sự thống nhất và còn có những
quan niệm khác nhau. Các quan niệm này được xây dựng để thực hiện mục tiêu
nhất định như phát triển khu công nghiệp, quản lý Nhà nước về khu công nghiệp
hoặc khai thác những tác động của nó đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Theo quan niệm của các nhà quản lý Thái Lan và một số nhà kinh tế học
các nước công nghiệp thế hệ thứ hai Đông Nam Á như Malaysia, Philippines
cho rằng khu công nghiệp là thành phố công nghiệp, một cộng đồng hoàn
chỉnh, được quy hoạch đầy đủ các tiện nghi đa dạng, có hệ thống cơ sở hạ tầng
hoàn hảo, hệ thống xử lý nước thải, hệ thống thương mại, hệ thống thông tin
liên lạc, bệnh viện, trường học và khu chung cư,...(Đặng Văn Thắng, 2006).
Theo Hiệp hội thế giới về KCN, KCX là tất cả các khu vực được chính
phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như cảng tự do, khu mậu dịch
tự do, KCN tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được
tổ chức này công nhận. Như vậy, quan niệm của Hiệp hội thế giới về KCX là
một quan niệm rất rộng và nó đòi hỏi các chính sách quản lý có độ linh hoạt
cao và mức độ "tự do hoá" khá lớn. Tuy nhiên, cũng có quan niệm cho rằng
KCN là một khu vực phụ (subregion) không nhất thiết phải có sự ngăn cách
biệt lập và trên thực tế có nhiều tập đoàn và tổ hợp công nghiệp với một chuỗi
đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau trên một khu vực rộng lớn và
việc bố trí mặt bằng các khu sản xuất trên quy mô lớn như vậy hình thành một
loại hình tổ chức mới của KCN mà không nhất thiết phải có một quy chế đặc
thù (Nguyễn Thường Lạng, 2006).

Theo Nghị định số 36/1997/NĐ-CP ngày 24 tháng 04 năm 1997 của
Chính phủ về quy hoạch xây dựng quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao,
Chính phủ khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các tổ chức
5


kinh tế, cá nhân nước ngoài và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu
tư vào KCN, KCX và khu công nghệ cao (gọi chung và tắt là KCN, trừ trường
hợp có quy định riêng cho từng loại khu) trên cơ sở Quy chế này và các quy định
của pháp luật Việt Nam.
Trong Quy chế này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. "Khu công nghiệp" là khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,
có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong KCN có thể có doanh
nghiệp chế xuất.
2. "Khu chế xuất" là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu
và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
3. "Khu công nghệ cao" là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm
nghiên cứu - triển khai khoa học - công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan,
có ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất.
4. "Doanh nghiệp chế xuất" là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất
khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động
xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo Quy chế này.
5. "Doanh nghiệp khu công nghiệp" là doanh nghiệp được thành lập và
hoạt động trong KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.

6. "Doanh nghiệp sản xuất khu công nghiệp" là doanh nghiệp sản xuất
hàng công nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN.
7. "Doanh nghiệp dịch vụ khu công nghiệp" là doanh nghiệp được
thành lập và hoạt động trong KCN, thực hiện dịch vụ các công trình kết cấu
hạ tầng KCN, dịch vụ sản xuất công nghiệp.
6


8. "Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh" (trừ trường hợp có quy định
riêng cho từng loại Ban quản lý) là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN, KCX
trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương hoặc Ban quản lý KCN trên địa bàn liên tỉnh hoặc Ban quản lý một
KCN (trường hợp cá biệt) hoặc Ban quản lý khu công nghệ cao; do Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập.
Tóm lại, cho dù KCN được hiểu theo cách nào, theo khía cạnh nào
thì việc hình thành và phát triển KCN như là quá trình kinh tế khách quan,
quá trình có tính quy luật gắn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
KCN chính là tổng hợp các quan hệ kinh tế: quan hệ giữa các thành phần
kinh tế, các ngành kinh tế, quan hệ đầu tư, nghiên cứu ứng dụng chuyển
giao công nghệ,....do Nhà nước thành lập, có quy chế riêng, quy định về
ngành nghề, ranh giới địa lý, những điều kiện cơ sở hạ tầng với những
chính sách, cơ chế, chế độ quản lý riêng nhằm mục đích chiến lược của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.1.2 Đặc điểm khu công nghiệp
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, và các doanh nghiệp này có đủ cơ sở pháp lý hoạt động trong khu
công nghiệp sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định
chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư và giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh theo quy định của Luật đầu tư. Đối với doanh nghiệp (trong
nước và có vốn đầu tư nước ngoài) khi đầu tư, hoạt động sản xuất kinh

doanh trong KCN phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam như: quy
chế về KCN; Luật đầu tư trong nước; Luật đầu tư nước ngoài; Luật doanh
nghiệp; Luật lao động; Luật thuế; Luật Công ty,...
Khu công nghiệp có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống,
có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, hệ thống xử lý nước thải, hệ thống thương
mại, hệ thống thông tin liên lạc, bệnh viện, trường học và khu chung cư,...
7


2.1.3 Vai trò của khu công nghiệp
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá việc xây dựng các khu
công nghiệp là cần thiết và được Nhà nước khuyến khích. Các KCN ra đời đã
tạo nên một mảnh đất thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghiệp trong và
ngoài nước có điều kiện đầu tư sản xuất kinh doanh, nó thúc đẩy việc ra đời
của các khu đô thị mới, phát triển dịch vụ và các ngành phụ trợ, tạo điều kiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội. Theo Vũ Anh Tuấn (2006) thì vai trò của
KCN ngày càng trở lên quan trọng trong tiến trình phát triển, hội nhập kinh tế
của đất nước và nó thể hiện rõ ở một số khía cạnh:
- Góp phần tăng trưởng GDP, thúc đẩy đầu tư và sản xuất công nghiệp
để xuất khẩu, phục vụ các ngành kinh tế và tiêu dùng trong nước.
- Có khả năng tạo ra kết cấu hạ tầng, thuận lợi về giao thông vận tải,
cung cấp điện, cấp nước và thải nước. Xử lý môi trường bảo đảm có hiệu
quả và phát triển bền vững lâu dài, có đủ dư địa để mở rộng và phù hợp với
những tiến bộ khoa học và công nghệ của nền văn minh công nghiệp và hậu
công nghiệp của thế giới.
- Có khả năng cung cấp nguyên liệu tương đối thuận tiện, hoặc tốt hơn là
trực tiếp với nguồn nguyên liệu. Đôi khi do cự ly vận tải và yêu cầu bảo quản
nguyên liệu, quy mô xí nghiệp công nghiệp phải thích hợp để đảm bảo hiệu quả.
- Các KCN có khả năng giải quyết một lượng lớn lao động, đặc biệt
là khu vực nông thôn với chi phí tiền lương thích hợp, đáp ứng nhu cầu

sinh kế của người dân.
- Có khả năng giải quyết thị trường tiêu thụ sản phẩm cả nội tiêu và ngoại tiêu.
- Tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp đặc biệt là trồng trọt trong việc sử
dụng đất để xây dựng KCN.
- Phát triển KCN tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp chính quyền địa phương
trong công tác quy hoạch, phân bố và quản lý nguồn lực. Bên cạnh đó thì công tác
quản lý môi trường cũng có nhiều thuận lợi trong tiết kiệm chi phí xử lý phế thải
công nghiệp, đặc biệt là đảm bảo việc hình thành một đô thị hợp lý, bền vững.
8


- Ngoài vai trò về kinh tế xã hội thì việc phát triển KCN còn có ý nghĩa
về an ninh quốc phòng.
Tóm lại, KCN có vai trò và là ‘‘hạt nhân” rất quan trọng trong việc đẩy
nhanh tốc độ tăng truởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, nó chính là con đường ngắn nhất đưa đất nuớc cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và phát triển
của KCN cần phải đi liền với các chính sách ưu đãi về thuế (thuế đất, thuế thu
nhập doanh nghiệp,...); hỗ trợ về vốn; lãi suất ưu đãi sao cho phù hợp với nhà
đầu tư. Ngoài ra cần từ bỏ quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu
kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói Việt Nam chỉ
khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất nhất không
nhất quán, không minh bạch. Bài học Trung Quốc là trước cho, sau lấy có tính
làm ăn lâu dài là những kinh nghiệm trong thu hút đầu tư FDI vào các KCN.
2.1.4 Phân loại khu công nghiệp
Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu về khu công nghiệp thì có các tiếp
cận phân loại khác nhau:
* Căn cứ vào tính chất ngành nghề: Khu công nghiệp được chia thành 3
loại: KCN chuyên ngành, KCN đa ngành và KCN sinh thái.
+ KCN chuyên ngành: Đây là KCN hình thành do phân công chuyên

môn hoá, bao gồm các xí nghiệp trong cùng một ngành sản xuất ra một loại
sản phẩm. KCN chuyên ngành hoạt động trong một số ngành như cơ khí, hoá
chất, vật liệu xây dựng.
+ KCN đa ngành: Đây là KCN bao gồm nhiều xí nghiệp thuộc nhiều
ngành khác nhau. Loại hình này cho phép khai thác, sử dụng có hiệu quả cơ
sở hạ tầng kĩ thuật, dịch vụ.
+ KCN sinh thái: là một “cộng đồng” các doanh nghiệp sản xuất và
dịch vụ có mối liên hệ mật thiết trên cùng một lợi ích: hướng tới một hoạt
động mang tính xã hội, kinh tế và môi trường chất lượng cao, thông qua sự
hợp tác trong việc quản lý các vấn đề về môi trường và nguồn tài nguyên.
9


Bằng các hoạt động hợp tác chặt chẽ với nhau, “cộng đồng” KCN sinh thái sẽ
đạt được một hiệu quả tổng thể lớn hơn nhiều so với tổng các hiệu quả mà
từng doanh nghiệp hoạt động riêng lẻ gộp lại (Nguyễn Cao Lãnh, 2006).
* Căn cứ vào đặc thù của từng đối tượng quản lý: KCN được chia thành
3 loại: KCN tập trung, KCN chế xuất và khu nghiệp công nghệ cao.
+ KCN tập trung: Trên thực tế, lợi thế cạnh tranh khu vực đang dần
chuyển biến sang một hướng khác. Đó là việc hình thành nên các KCN tập
trung (mang tính tự phát), mà Michael E. Porter, giáo sư kinh tế Đại học
Havard, gọi là những "clusters". Theo định nghĩa của Porter, "cluster" là tập
hợp các công ty cùng với các tổ chức tương tác qua lại trong một lĩnh vực cụ
thể. Xung quanh nhà sản xuất hình thành các nhà cung cấp chuyên môn hoá
các phụ kiện và dịch vụ cũng như cơ sở hạ tầng. KCN tập trung bao trùm lên
cả các kênh phân phối và khách hàng, và bên cạnh đó là những nhà sản xuất
sản phẩm phụ trợ, các công ty thuộc các ngành liên quan về kỹ thuật, công
nghệ hoặc cùng sử dụng một loại đầu vào. Các KCN tập trung còn hình thành
cả các tổ chức chính phủ và phi chính phủ như các trường đại học, các viện
công nghệ, các trung tâm nghiên cứu, hiệp hội thương mại... cung cấp các

dịch vụ đào tạo chuyên môn, giáo dục, thông tin, nghiên cứu và hỗ trợ kỹ
thuật (Trịnh Minh Giang, 2006).
+ KCN chế xuất: Theo hiệp hội KCX thế giới (WEPZA) KCX là khu
vực tự do, do chính phủ xây dựng để xuác tiến các mục tiêu chính sách được áp
dụng thí điểm đột phá. Khác với chính sách áp dụng cho khu vực nội địa, phần
lớn các chính sách áp dụng cho KCX là cởi mở hơn. Tổ chức phát triển Liên
hiệp quốc (UNIDO) lại cho rằng khu công nghiệp chế xuất là khu vực sản xuất
công nghiệp, giới hạn hành chính, về địa lý, được hưởng chế độ thuế quan cho
phép tự do nhập trang thiết bị và sản phẩm nhằm mục đích sản xuất sản phẩm
xuất khẩu, chế độ thuế quan được ban hành, cùng với những quy định về pháp
luật ưu đãi, nhằm thu hút đầu tư nước ngoài,...(Đặng Văn Thắng, 2006).

10


+ KCN công nghệ cao: là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phat triển công nghệ cao gồm
nghiên cứu - triển khai khoa học công nghệ, đào tạo các dịch vụ liên quan, có
ranh giới địa lý xác định, do chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ mỗi nước
quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế
xuất. (Hoàng Văn Dụ, 2008).
* Căn cứ theo cấp quản lý: Bao gồm KCN do chính phủ thành lập;
KCN do tỉnh, thành phố thành lập và cụm công nghiệp do huyện thị thành lập.
Tuy nhiên, cho dù phân loại theo tiêu chí nào đi chăng nữa thì ở Việt
Nam hiện nay bao gồm những KCN sau:
+ KCN được thành lập dựa trên cơ sở xí nghiệp công nghiệp hiện có,
dựa trên cơ sở cải tạo hoàn thiện kết cấu hạ tầng và bảo vệ môi trường.
+ KCN hình thành do giải toả các xí nghiệp công nghiệp đơn lẻ, kỹ
thuật lạc hậu để chỉnh trang lại đô thị và chống ô nhiễm môi trường.
+ KCN hình thành để thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp quy mô

vừa và nhỏ thuộc các ngành công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất hàng
tiêu dùng hoặc phát triển làng nghề truyền thống.
+ KCN có quy mô lớn, tập trung, hiện đại do Chính phủ thành lập.
Tóm lại, các KCN hiện nay ở Việt Nam khá là đa dạng về ngành nghề,
lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, đa dạng cả về thành phần kinh tế,
quy mô và trình độ. Tính chất đa dạng hoá phát triển KCN ở nước ta, một mặt
cho phép phát triển ngành nghề, khai thác tiềm năng, tạo công ăn việc làm và
thu nhập cho người lao động, mặt khác nó tạo ra khả năng thu hút vốn đầu tư,
khoa học kỹ thuật tiên tiến và công nghệ quản lý hiện đại.
2.1.5 Tác động khu công nghiệp tới vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường
2.1.5.1 Tác động của khu công nghiệp tới vấn đề kinh tế
* Tác động tích cực
Theo ông Lê Văn Học (2006) thì việc xây dựng và phát triển khu công
nghiệp tác động tích cực đến nhiều khía cạnh của vấn đề kinh tế. Cụ thể:
11


- KCN có tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng
địa phương theo hướng CNH - HĐH, đa dạng ngành nghề, trình độ và khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm được nâng cao từ đó góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế chung của cả nước, mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế.
- Đối với địa phương có KCN sẽ góp phần làm cho cơ cấu kinh tế của
địa phương thay đổi theo hướng tích cực, làm tăng lượng GDP cũng như tăng
giá trị sử dụng đất.
- Khi KCN phát triển sẽ mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một
kênh mới rất có tiền năng để thu hút được một lượng lớn lực lượng lao động
tại chỗ cũng như trong vùng, giải quyết việc làm cho lao động nhờ đó đời
sống kinh tế được nâng cao và việc khám chữa bệnh của người dân cũng
được cải thiện tốt hơn.
- Kinh tế xã hội ngày biến đổi không ngừng, xu hướng toàn cầu hoá diễn

ra ngày một phức tạp, sức ép của nền kinh tế thị trường đòi hỏi chất kượng lao
động ngày một cao. Do đó mà lao động làm việc trong KCN thường xuyên
được đi học tập để nâng cao tay nghề. Chính vì vậy ngoài việc làm tăng thu
nhập, tạo công ăn việc làm ổn định thì các KCN còn giúp cho người lao động
có một tương lai về học tập, nâng cao được dân trí.
- KCN hoạt động thì nhu cầu về nhà ở, mức tiêu thụ hàng hoá sản
phẩm cũng sẽ tăng lên, từ đó sẽ hình thành mạng lưới đa dạng về ngành
nghề dịch vụ ở địa phương.
* Tác động tiêu cực
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xấu đi nếu không có sự chỉ đạo
chặc chẽ của các cấp chính quyền.
- Đa phần các KCN xây dựng trên đất nông nghiệp đang canh tác, lúc này
sẽ làm một số người dân bị mất đất canh tác, số hộ này sẽ khó có thể chuyển đổi
được việc làm mới, số lao động có độ tuổi trên 35 có nguy cơ thất nghiệp từ đó
ảnh hưởng đến kinh tế và dẫn đến thu nhập giảm. Đây cũng là một yếu tố nảy
sinh mâu thuẫn giữa các KCN với người nông dân trong khu vực.
12


- Trong quá trình đầu tư thành lập các KCN, các nhà quản lý chưa xây
dựng những cơ sở hạ tầng thiết yếu về chỗ ở, nơi khám chữa bệnh, đào tạo
cho người lao động ở tỉnh xa, dẫn đến tình trạng lộn xộn gây mất trật tự an
ninh, người lao động vừa phải lo tìm việc làm, chỗ ở và nơi khám chữa bệnh.
Điều này tạo sự gắn kết giữa người lao động và doanh nghiệp không cao. Nếu
nhu cầu tối thiểu này được các KCN quan tâm tốt hơn sẽ là một trong những
yếu tố quan trọng thu hút người lao động.
2.1.5.2 Tác động của khu công nghiệp tới vấn đề xã hội
* Tác động tích cực
- Thay đổi bộ mặt văn hoá của địa phương và nếp sống cộng đồng
theo hướng tốt hơn.

- Do kinh tế tăng nên, các hộ nông dân ở đây có các điều kiện tiếp xúc
với thông tin đại chúng nhiều hơn, cơ hội hưởng thụ văn hoá tốt hơn.
* Tác động tiêu cực
- Thực tế việc xây dựng và phát triển KCN ở nước ta đã và đang nảy
sinh những vấn đề xã hội đáng quan tâm. Những vấn đề liên quan đến tái định
cư, nhà ở cho công nhân và vấn đề về việc làm cho lao động nông thôn khi
chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng kết cấu hạ tầng công nghiệp, dịch vụ.
Ngoài ra, việc giải phóng mặt bằng, đền cù đất đai cho người dân, một số
người đã sử dụng sai mục đích, vô tình đã đẩy họ vào các tệ nạn cờ bạc, rượu
chè,...
- Các KCN được xây dựng sẽ tạo một lượng lao động, các thành phần
dân cư trong xã hội ở các tỉnh xa đến mưu sinh nhưng mâu thuẫn hiện nay
chính là các KCN cần lao động có tay nghề kỹ thuật cao, trong khi lao động
nông thôn và con em họ lại chưa có nghề nghiệp. Do đó việc đào tạo, tuyển
dụng lao động tay nghề còn gặp nhiều khó khăn. Vì nhu cầu mưu sinh, điều
này sẽ khiến các tệ nạn xã hội nhiều hơn.

13


- Công nhân được tuyển vào làm trong các KCN tuy thu nhập cao hơn
nhiều lần so với làm nông nghiệp nhưng do tác phong làm việc công nghiệp,
hao phí lao động và nhà ở sinh hoạt còn gây nhiều khó khăn.
- Ngoài ra, quá trình phát triển KCN có nguy cơ làm mất đi những phong
tục tập quán tốt đẹp của địa phương do lối sống của đô thị xâm nhập vào.
2.1.5.3 Tác động của khu công nghiệp tới vấn đề môi trường
Trong thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường trong KCN mặc dù
đã được chú trọng hơn nhưng đa số các KCN trên phạm vi cả nước còn chưa
được cải thiện nhiều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường
theo quy định.

* Tác động tích cực
KCN đã có những đóng góp nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh
thái do KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều
kiện tập trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra để xử lý, tránh tình
trạng khó kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm
sản xuất. KCN góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất từ nội
đô; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường trong việc kiểm soát ô nhiễm và có biện pháp xử lý kịp thời đối với
hành vi gây ô nhiễm của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp ngoài
KCN. Thực tế cho thấy một số KCN thực hiện rất tốt và hài hoà mục tiêu thu
hút đầu tư với giải quyết vấn đề về môi trường, thực sự là những "công viên
công nghiệp", là mẫu hình để các KCN khác tiếp tục triển khai áp dụng, điển
hình là KCN Biên Hoà II, KCN Thăng Long (Lê Văn Học, 2006).
* Tác động tiêu cực
Khu công nghiệp, khu chế xuất là nơi tập trung số lượng lớn các nhà
máy công nghiệp. Tại đây, nếu chất thải công nghiệp không được xử lý tốt
sẽ làm cho môi trường bị ô nhiễm trên diện rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến
môi trường sống cũng như sức khỏe của người lao động và nhân dân trong
vùng. Thế nhưng, do sự phát triển không đồng bộ và chưa quan tâm đúng
14


mức nên ở hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất, việc gây ô nhiễm môi
trường đang trong tình trạng báo động đỏ, đe dọa sự phát triển bền vững
trong thời gian tới (Phạm Thắng, 2006).
Nhiều KCN chưa xây dựng nơi tập trung và xử lý rác thải. Việc thu
gom và vận chuyển rác thải chỉ thực hiện trong phạm vi từng nhà máy. Những
nhà máy sản xuất bao bì, hoá chất, nhựa,…thường có những chất khó phân
huỷ, gây độc hại cho môi trường nước mặt, nước ngầm và đất.
Ô nhiễm về nước thải công nghiệp càng trở nên nghiêm trọng. Hiện chỉ

có 33 KCN đã có công trình xử lý nước thải tập trung, 10 KCN đang xây
dựng, còn lại các KCN khác đều trực tiếp thải ra sông, biển đã gây ô nhiễm
nghiêm trọng môi trường xung quanh, nhất là những KCN tập trung các
ngành công nghiệp dệt, thuộc da, hoá chất…có lượng nước thải thải ra với
khối lượng lớn và có tính độc hại cao. Chất thải công nghiệp ở nước ta hiện
nay chiếm khoảng 20% - 25% tổng lượng chất thải rắn (Lê Văn Học,2006).
2.2 Một số kinh nghiệm thực tế về phát triển khu công nghiệp ở một số
nước và thực trạng phát triển khu công nghiệp trên địa bàn xã Bạch Sam
2.2.1 Một số kinh nghiệm thực tế về phát triển khu công nghiệp ở một số nước
2.2.1.1 Đài Loan
Hơn 4 thập kỷ qua, phát triển công nghiệp luôn là động lực cho phát
triển kinh tế của Đài Loan, trong đó các KCN giữ một vị trí quan trọng. Các
chính sách phát triển KCN luôn thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế
khác nhau, chuyển dịch dần từ mô hình sản xuất tập trung truyền thống sử
dụng nhiều lao động sang hình thức các KCN công nghệ cao, tạo ra nhiều giá
trị thặng dư. Những chính sách thông thoáng, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, hỗ
trợ tài chính, khuyến khích phát triển kinh tế đã đem lại những kết quả to lớn
cho phát triển kinh tế Đài Loan trong những thập niên vừa qua.

15


Quá trình phát triển các KCN của Đài Loan khởi điểm từ những chính
sách ban đầu chỉ đơn thuần tạo mặt bằng để xây dựng các xí nghiệp công
nghiệp được kết hợp với chính sách phát triển cân đối theo vùng và nâng cao
chính sách phát triển kinh tế.
Theo Lê Tuấn Dũng (2007): Nhìn lại tiến trình phát triển các KCN ở
Đài Loan, chúng ta có thể phân làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn khởi đầu (1960-1970): khi các ngành công nghiệp đã phát
triển tương đối ổn định, vấn đề quy hoạch đất cho phát triển công nghiệp đã

được đặt ra. Luật khuyến khích đầu tư ban hành năm 1960 là văn bản pháp lý
đầu tiên quy định về việc thành lập các KCN ở Đài Loan.
- Giai đoạn tăng trưởng (1971-1980): hình thành các KCN dựa trên các
kế hoạch phát triển kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển các ngành công
nghiệp mũi nhọn như lọc hoá dầu, luyện kim và đóng tàu biển. Chính quyền Đài
Loan đã phát triển các KCN chuyên ngành tại Lâm Viên, Đại Xã, một số KCN
nông thôn ở Bắc Đẩu, Trúc Sơn và những vùng phụ cận khác nhằm thu hút lực
lượng lao động dồi dào ở khu vực nông thôn. Các KCN khác đã được thành lập
tại huyện Nam Tử ở Cao Hùng và huyện Đàm Tử ở Đài Trung. Việc phân bố
các KCN giai đoạn này đã được mở rộng sang miền bắc và miền đông Đài Loan.
- Giai đoạn chuyển đổi (1981-1990): do khủng hoảng kinh tế toàn cầu
nên nhu cầu phát triển công nghiệp trong nước giảm sút, ảnh hưởng đến tiến
trình phát triển các KCN ở Đài Loan. Giai đoạn này, KCN công nghệ cao Tân
Trúc đã được thành lập nhằm thu hút các dự án đầu tư công nghệ mới, tạo nền
tảng cho việc chuyển đổi nền công nghiệp Đài Loan từ các ngành công nghiệp
truyền thống sang các ngành công nghệ cao. Đồng thời chính quyền đã thí
điểm quy hoạch Khu vực đặc biệt phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
KCN ven biển Cao Hùng nhằm hỗ trợ các xí nghiệp vừa và nhỏ.
- Giai đoạn từ sau năm 1990: là giai đoạn phát triển mới của Đài
Loan. Thời gian này do phát sinh những vấn đề về tình trạng ô nhiễm môi
trường, khan hiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên và áp lực cạnh tranh của các
16


ngành công nghiệp trong nước, nên phương thức tổ chức KCN đã chuyển
sang hướng chuyên môn hoá, đa dạng hoá hoạt động như KCN Xi măng Hoà
Bình tại Hoa Liên, KCN ven biển Chương Hoá, Vân Lâm, Khu công nghệ
phần mềm Nam Cảng ở Đài Bắc, các KCN công nghệ cao ở Đài Nam và Vân
Lâm. Đồng thời Luật nâng cao các ngành công nghiệp ban hành năm 1990 đã
quy định những ngành công nghiệp mới cần được ưu tiên phát triển và đề ra

các yêu cầu về chất lượng môi trường trong các KCN.
Theo số liệu của Bộ Kinh tế Đài Loan, cho đến năm 2006 Đài Loan có
88 KCN đang hoạt động trên khắp cả nước với tổng diện tích đất tự nhiên hơn
11.422 ha, thu hút được hơn 11.000 dự án đầu tư, trong đó Cục Phát triển công
nghiệp (IDB) trực tiếp quản lý 54 KCN có vai trò quan trọng tới việc phát triển
các vùng trong lãnh thổ. Ngoài ra có 23 KCN đang trong quá trình xây dựng
với tổng diện tích 18,414 ha và 18 KCN khác đã được quy hoạch với tổng diện
tích gần 4.400 ha. Nhằm thu hút đầu tư vào các KCN, đặc biệt là các dự án có
hàm lượng công nghệ cao, tạo giá trị gia tăng lớn, chính quyền đã áp dụng
nhiều chính sách ưu đãi khác nhau về thuế, hỗ trợ tài chính hoặc vay ưu đãi từ
chính phủ, quy định mức khấu hao đặc biệt cho các thiết bị máy móc... Các thủ
tục xin giấy phép đầu tư, giấy phép hải quan trong các KCN, KCX đều thực
hiện chế độ “một cửa” cho nhà đầu tư (Lê Tuấn Dũng, 2006).
Công tác phát triển các KCN ở Đài Loan được phân thành 4 nhiệm vụ
quản lý chủ yếu sau: (i) Lựa chọn địa điểm và đánh giá tính khả thi của dự án
đầu tư; (ii) Lập kế hoạch, thiết kế và xây dựng KCN; (iii) Bán và cho thuê đất
trong KCN; (iv) Quản lý điều hành KCN. Cục Phát triển công nghiệp (IDB)
thuộc Bộ Kinh tế là cơ quan chịu trách nhiệm chính thực hiện xây dựng và
triển khai chính sách phát triển các KCN ở Đài Loan. Đối với các KCN do tư
nhân xây dựng, chủ đầu tư chịu trách nhiệm hoàn toàn việc đầu tư xây dựng
và kinh doanh hạ tầng KCN theo đúng quy hoạch của chính quyền. Đối với
các KCN do chính quyền Đài Loan đầu tư, Cục Phát triển kinh tế sẽ thành lập
nhóm công tác phát triển KCN với thành phần đại diện các cấp chính quyền
17


trung ương và địa phương cũng như các cơ quan chức năng của Bộ Kinh tế
như Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững, Cơ quan quản lý doanh nghiệp
vừa và nhỏ, Cục Bảo vệ môi trường... Nhóm công tác này được tổ chức thành
những bộ phận chuyên trách đảm nhiệm các chức năng, nhiệm vụ cụ thể: Bộ

phận hoạt động kinh doanh có trách nhiệm đầu tư, xây dựng và phát triển
KCN sau khi dự án đầu tư đã được thông qua; tự huy động các nguồn vốn cần
thiết để triển khai dự án và thu hồi vốn đầu tư qua việc bán, cho thuê đất đã có
hạ tầng kỹ thuật hoàn chính. Việc lập kế hoạch, thiết kế và giám sát xây dựng
sẽ do các bộ phận tư vấn kỹ thuật chuyên trách đảm nhiệm. Việc phối hợp
công tác xây dựng với phát triển KCN như thu hồi đất, đăng ký đất đai, kết
nối hạ tầng đòi hỏi sự hỗ trợ của các cấp chính quyền trung ương, địa phương
có liên quan. Sau khi đã hoàn tất việc xây dựng KCN, nhóm công tác phát
triển KCN sẽ ban hành các điều lệ quản lý nhằm quy định các hoạt động của
các nhà máy trong KCN, các quy định về bảo vệ môi trường, thuê nhân công
và các dịch vụ tiện ích khác... (Lê Tuấn Dũng, 2006).
Căn cứ vào điều kiện tài nguyên, đặc điểm kinh tế xã hội từng khu vực,
kết hợp với việc dự báo, đánh giá xu hướng phát triển khoa học-kỹ thuật, công
nghệ, triển vọng thị trường thế giới trong thời gian 10-20 năm, mà chính quyền
Đài Loan xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế quốc dân, quy hoạch
phát triển các KCN và đưa ra các chính sách phát triển phù hợp theo từng giai
đoạn. Chính sách phát triển KCN được hoạch định theo trình tự các bước:
(i) xác định trọng tâm vấn đề cần giải quyết; (ii) xác lập mục tiêu cần phải đạt
được; (iii) đề xuất các giải pháp và lựa chọn phương án, chính sách tối ưu. Để
đảm bảo tính khách quan trong điều hành nền kinh tế, các cơ quan hoạch định
chính sách và chiến lược phát triển, quy hoạch, được tách ra khỏi cơ quan quản
lý điều hành. Thí dụ Hội đồng Kế hoạch và Phát triển kinh tế chịu trách nhiệm
hoạch định chiến lược phát triển, quy hoạch các ngành, các vùng, kế hoạch
phát triển, các chính sách phát triển KCN...; Bộ Kinh tế chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch và cụ thể hoá các chính sách. Trong
18


quá trình triển khai, các cơ quan này có thể kiểm tra công việc của nhau để kịp
trình Chính phủ những giải pháp, điều chỉnh thích hợp nhằm khắc phục kịp

thời những khiếm khuyết hoặc sai lệch trong quy hoạch, kế hoạch, chính sách
hay trong công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện... (Lê Tuấn Dũng, 2006).
Đứng trước tình hình biến đổi lớn từ giữa thập kỉ 1980 dẫn đến nhịp độ
tăng trưởng của các ngành kinh tế không ổn định và mất cân đối..., chính
quyền Đài Loan đã thực thi chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế,
trên cơ sở đó đề ra nhiều chính sách và biện pháp điều chỉnh phát triển kinh
tế, nhằm tiếp tục đưa Đài Loan bước vào thời kỳ tăng trưởng mới, hướng
ngoại mạnh mẽ và toàn diện theo phương châm “Ba hoá”: tự do hoá, quốc tế
hoá và chế độ hoá, tiến hành chiến lược nâng cấp ngành nghề, chuyển trọng
tâm xây dựng công nghiệp sang các ngành sử dụng kỹ thuật cao, cơ giới hoá,
tự động hoá, tiết kiệm tối đa năng lượng và nguyên liệu. Mục tiêu cơ bản của
chính sách “Ba hoá” là thực hiện mở rộng toàn diện, tập trung mọi nguồn lực
để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài (kể cả của Hoa kiều và từ Trung Quốc đại
lục), khuyến khích tự do cạnh tranh, kiện toàn điều tiết thị trường, sau đó
chuyển sang tăng tốc công nghiệp. Chính quyền Đài Loan đã đề ra mục tiêu
tăng giá trị sản xuất công nghiệp từ 254,5 tỷ USD năm 2003 đạt mức 350,5 tỷ
USD vào năm 2008, giá trị sản xuất bình quân hàng năm của mỗi công nhân
tăng tương ứng từ 110 nghìn USD lên 150 nghìn USD. Đồng thời Đài Loan
cũng đưa ra 06 nguyên tắc cơ bản đối với phát triển công nghiệp đó là: (i) có
tiềm lực thị trường vững mạnh; (ii) liên kết chặt chẽ giữa các ngành; (iii) tạo
giá trị gia tăng cao; (iv) công nghệ tiên tiến; (v) mức độ ô nhiễm thấp; (vi)
tiêu thụ ít năng lượng (Lê Tuấn Dũng, 2006).
Theo Lê Tuấn Dũng (2006): Để đạt được các mục tiêu trên thì phát
triển công nghiệp nói chung và phát triển KCN nói riêng của Đài Loan đòi hỏi
phải có những thay đổi to lớn không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Sau
khi Đài Loan gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới WTO vào đầu năm

19



×