Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Đảng bộ huyện mỹ đức ( hà nội ) thực hiện nhiệm vụ xây dựng đảng từ năm 2008 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.02 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------

LÊ THỊ LOAN

§¶NG Bé HUYÖN Mü §øC (Hµ NéI)
THùC HIÖN NHIÖM Vô X¢Y DùNG §¶NG
Tõ N¡M 2008 §ÕN N¡M 2014
Chuyên ngành

: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số

: 60.22.03.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đăng Tri

HÀ NỘI - 2015


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một trong những đóng góp to lớn và vĩ đại của chủ nghĩa Mác – Lênin
đó là chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác – Lênin
cũng đặt ra yêu cầu đối với giai cấp công nhân muốn hoàn thành đƣợc sứ
mệnh lịch sử của mình, đƣa cách mạng đi đến thành công thì phải thành lập
đƣợc một chính đảng của giai cấp công nhân, chính đảng đó là Đảng Cộng


sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc. Vì vậy, Đảng Cộng sản phải bao gồm những ngƣời ƣu tú nhất, có đủ
năng lực và phẩm chất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng chung.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng
Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Cách mạng Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang giành đƣợc những thắng lợi vĩ đại trong
đấu tranh cách mạng, giành độc lập, tự do cho dân tộc cũng nhƣ trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Để có đƣợc những thắng lợi vĩ
đại đó, một nhân tố không thể thiếu đó là sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, sáng
suốt của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Đảng có vững,
cách mạng mới thành công”. Vì vậy, nhiệm vụ xây dựng Đảng cần tiến hành
thƣờng xuyên, liên tục, kịp thời và phát huy đƣợc hiệu quả. Trong suốt quá
trình hoạt động các mạng, nhất là trƣớc những bƣớc ngoặt của lịch sử, mối
quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chăm lo “xây dựng Đảng”.
Ngày nay, cách mạng nƣớc ta đang chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, càng đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Đảng phải đƣợc xây dựng vững mạnh về chính trị, tƣ
tƣởng và tổ chức, thƣờng xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng
cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo

1


cách mạng của Đảng, đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, Đảng ta luôn coi nhiệm vụ xây dựng Đảng
là một yêu cầu bức thiết, là nhu cầu tồn tại và phát triển không chỉ của bản
thân Đảng mà của sự nghiệp cách mạng chung của đất nƣớc. Đảng ta đã có

nhiều nghị quyết cơ bản và cấp bách về xây dựng Đảng, coi đây là “một
nhiệm vụ then chốt”, đặc biệt, vấn đề này càng đƣợc nhấn mạnh hơn trong
thời kỳ đổi mới, thời kỳ cả nƣớc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với những
điều kiện lịch sử mới. Những nghị quyết quan trọng về công tác xây dựng
Đảng nhƣ Nghị quyết Trung ƣơng 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ƣơng 6
(lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ƣơng 9 (khóa IX, X), Nghị quyết Trung
ƣơng 4 (khóa XI),... đã đặt nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là rất quan
trọng, thực hiện toàn diện từ chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức tốt công tác cán bộ,
xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên kết quả thu đƣợc là có ý
nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của Đảng ta.
Tình hình Đảng có một số những chuyển biến tích cực, tuy nhiên việc
thực hiện chƣa đạt đƣợc những hiệu quả nhƣ mong muốn. Vì vậy, vấn đề là
phải làm theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh “nói phải đi đôi với làm”, phải làm cho
bằng đƣợc các nghị quyết đã đề ra. Đảng phải tự chỉnh đốn, không ngừng rèn
luyện, phấn đấu nâng cao phẩm chất và năng lực để lãnh đạo thành công sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta.
Đảng bộ huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội hơn 60 năm xây dựng và
trƣởng thành đã lãnh đạo các chi bộ Đảng địa phƣơng và nhân dân trong
huyện tiến hành sự nghiệp cách mạng chung giành đƣợc nhiều thắng lợi.
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã xây dựng Đảng ngày càng lớn mạnh về cả số
lƣợng và chất lƣợng đảng viên. Đảng bộ đã không ngừng đƣợc tăng cƣờng và
củng cố. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã lãnh đạo nhân dân trong huyện giành
đƣợc những thành tựu to lớn không chỉ trong thời kỳ đấu tranh cách mạng mà
cả trong thời kỳ đất nƣớc đổi mới, cả nƣớc quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa

2


xã hội hiện nay. Các cán bộ đảng viên thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh luôn phấn đấu theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“giữ gìn sự trong sạch của Đảng nhƣ giữ gìn con ngƣơi của mắt mình”.
Đặc biệt, kể từ 01/08/2008, tỉnh Hà Tây đƣợc sáp nhập vào thành phố
Hà Nội, cùng với đó là sự sáp nhập về mọi mặt, dƣới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện Mỹ Đức
đã thu đƣợc những kết quả đáng tự hào, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm
vụ xây dựng Đảng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay có một số hiện tƣợng cán bộ đảng
viên bị thoái hóa, biến chất, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, đội lốt đảng viên
đứng trong hàng ngũ của Đảng nhƣng lại vi phạm Điều lệ Đảng. Ngoài ra, kẻ thù
tấn công vào Đảng thông qua hình thức mua chuộc một số các cán bộ, đảng viên
không có lập trƣờng kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng, thoái hóa biến chất,
tham ô tham nhũng,…Hiện tƣợng “tự diễn biến” trong Đảng sẽ trở thành một
nguy cơ to lớn gây ảnh hƣởng xấu đến sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù đó chỉ là
những hiện tƣợng rất ít, chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh” nhƣng cũng phần nào
làm suy yếu Đảng, méo mó hình ảnh Đảng trong lòng nhân dân, ít nhiều làm mất
niềm tin của dân vào Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví đó là một căn bệnh, một
u nhọt có thể dẫn tới căn bệnh ung thƣ cho Đảng.
Trong “Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ huyện Mỹ Đức
nhiệm kỳ 2010 – 2015” trong công tác xây dựng Đảng, đã đề cập một cách
toàn diện về công tác giáo dục chính trị; công tác củng cố tổ chức xây dựng
Đảng; công tác kiểm tra, giám sát; công tác dân vận,… Đảng bộ huyện Mỹ
Đức đã và đang triển khai thực hiện học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tƣ Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI
(12/2011)Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Nghị quyết số
11 của Bộ Chính trị khóa XI “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô
Hà Nội giai đoạn 2011 – 2020” và 9 chương trình công tác của Ban Chấp
hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội khóa XV. Những kết quả bƣớc đầu thu

3



đƣợc đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ Mỹ Đức và hứa hẹn
những kết quả tốt đẹp, đầy triển vọng, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng hiện nay.
Chính vì vậy, tác giả chọn luận văn: “Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà
Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014” để
nghiên cứu nhằm góp phần khẳng định giá trị to lớn của sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và của Đảng bộ huyện Mỹ Đức nói
riêng về công tác xây dựng Đảng giai đoạn 2008 – 2014. Đồng thời, khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định sự thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng, nhiệm vụ xây dựng Đảng là một yêu cầu bức thiết.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xây dựng Đảng là mảng đề tài đã đƣợc nhiều tác giả, tổ chức hoặc các
cơ quan ngôn luận nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những nội dung đã đƣợc đề
cập trƣớc đó giúp tôi tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày vấn đề một cách hệ
thống, cụ thể hơn đối với Đảng bộ huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội (2008
– 2014), đặc biệt là vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng XI và Nghị quyết Hội
nghị Trung ƣơng 4 khóa XI (12/2011) của Đảng ta.
Những công trình nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng đã đƣợc công
bố là rất nhiều và có những đóng góp quan trọng về cả lí luận và thực tiễn đối
với Đảng ta, góp phần chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và đƣa ra những giải
pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta. Trong
đó không thể không kể đến những tác phẩm lí luận xuất sắc về vấn đề này của
các nhà lãnh đạo Đảng nhƣ:
Hội thảo lí luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc (2004): Xây dựng Đảng cầm quyền – Kinh nghiệm của Việt Nam,
kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hội thảo đã khẳng định vị trí then chốt của Đảng cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới; khẳng định sự cần thiết khách quan phải tăng

cƣờng và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng; tổng kết một bƣớc những kinh

4


nghiệm lí luận và thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thúc
đẩy đổi mới ở Việt Nam, cải cách mở cửa ở Trung Quốc, đáp ứng lợi ích của
hai dân tộc. Hội thảo đặt ra yêu cầu tất yếu phải luôn kiên trì đẩy mạnh công
tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức cán bộ, phƣơng thức
lãnh đạo, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân trong điều kiện Đảng
cầm quyền lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, một số vấn đề chỉ ra còn giới hạn trong phạm vi lí thuyết và
một số những biện pháp còn chƣa cụ thể, thiết thực đối với Đảng Cộng sản
của mỗi nƣớc.
Bùi Ngọc Thanh (2012): Một số vấn đề về xây dựng Đảng và công tác
cán bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trong cuốn sách này, tác giả Bùi Ngọc Thanh đã chỉ ra những vấn đề
cơ bản nhất của công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ theo tinh thần của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ
ra vấn đề về xây dựng Đảng và công tác cán bộ cần nêu cao tinh thần tự phê
bình và phê bình, phải biết lựa chọn và sử dụng cán bộ nhƣ Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy là “phải khéo dùng ngƣời”, và những vấn đề có tính nguyên tắc
trong công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ.
Mặc dù vậy, trong cuốn sách tác giả mới chỉ đề cập tới một vài khía
cạnh của ngƣời cán bộ đảng viên mà chƣa đề cập tới một cách toàn diện, chƣa
chỉ ra đƣợc những hiện tƣợng phức tạp của một số cán bộ đảng viên có những
hành vi vi phạm Điều lệ Đảng thì cần phải có những biện pháp gì để giáo dục
họ và tăng cƣờng sức mạnh cho Đảng ta?
Nguyễn Phú Trọng (2012): Xây dựng và chỉnh đốn Đảng – Một số vấn
đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Đây là một cuốn sách mới đƣợc xuất bản do Tổng Bí thƣ Đảng Cộng
sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng viết. Trong tác phẩm này, đồng chí Tổng Bí
thƣ đã tổng kết các công tác xây dựng Đảng của Đảng ta kể từ khi ra đời cho
đến nay. Trong đó, Tổng Bí thƣ đã đƣa ra những lí luận của các nhà kinh điển

5


của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng nhƣ các lãnh tụ của các Đảng Cộng sản nhƣ
quan điểm của Mao Trạch Đông,… về xây dựng Đảng. Bên cạnh mặt lí luận
là những bài học thành công và thất bại từ thực tiễn của công tác xây dựng
Đảng của Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc cũng nhƣ của thực tiễn nƣớc ta. Từ
đó, chỉ ra những vấn đề mang tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát
triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung cuốn sách đề cập nhiều vấn đề phong phú về lý luận và thực
tiễn gồm bốn phần:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề chung về Đảng và công tác xây dựng Đảng.
Phần thứ hai: Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng.
Phần thứ ba: Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ.
Phần thứ tƣ: Rèn luyện đạo đức, lối sống.
Ngoài ra, còn có rất nhiều các tác phẩm, các tài liệu, các công trình nghiên
cứu hay các hội thảo đề cập tới vấn đề xây dựng Đảng trên những khía cạnh cụ
thể theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam đƣợc đăng trên các
tạp chí Thông tin lý luận, tạp chí Cộng sản, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí Lịch
sử quân sự,... Một số các bài viết nhƣ: Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ then chốt
tạo chuyển biến cơ bản trong công tác xây dựng Đảng của tác giả Nguyễn Đức
Hạt đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng (2006), Kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ
thống chính trị là một nhiệm vụ trong toàn bộ cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng của đồng chí Lê Khả Phiêu đăng trên Tạp chí xây dựng Đảng
(1999),...

Đồng thời, có một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt NamTrƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học quốc gia
Hà Nội nghiên cứu về xây dựng Đảng nhƣ:
Đoàn Thị Khánh Hà (2002): Đảng bộ thành phố Việt Trì thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Đảng thời kỳ 1996 – 2000.
Ngô Thị Lan Hƣơng (2012): Đảng bộ huyện Sóc Sơn thực hiện nhiệm
vụ xây dựng Đảng từ năm 1996 đến năm 2010.

6


Trần Thị Thảo (2002): Đảng bộ huyện Vụ Bản lãnh đạo thực hiện công
tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2001.
Tất cả những tạp chí, những tác phẩm, những công trình nghiên cứu,
luận văn, ... trên đề cập đến những vấn đề chủ yếu, cốt lõi của công tác xây
dựng Đảng. Tuy nhiên, mỗi tác giả tiếp cận ở những góc độ, khía cạnh khác
nhau và có những ý kiến riêng của mình. Đây là những tƣ liệu mang tính chất
nền tảng, cơ sở và chính là tài liệu quan trọng cho Đảng ta trong quá trình
thực hiện công tác xây dựng Đảng và đặc biệt giúp cho tác giả thực hiện luận
văn: “Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng
từ năm 2008 đến năm 2014”. Tuy luận văn còn có một số hạn chế nhất định
nhƣng đã thể hiện một cách hệ thống những thành tựu cũng nhƣ những hạn
chế của Đảng bộ huyện Mỹ Đức trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng trong giai đoạn 2008 – 2014, đồng thời chỉ ra những giải pháp nhằm
khắc phục những hạn chế đó trong giai đoạn hiện nay. Để việc thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Đảng thu đƣợc những kết quả nhƣ mục tiêu đã đề ra thì
cần có sự tổ chức thực hiện nghiêm túc, có trách nhiệm, linh hoạt, sáng tạo,
phù hợp ở các cấp chi bộ Đảng địa phƣơng, ở tất cả các cấp. Mặc dù phạm vi
nghiên cứu là Đảng bộ một huyện thuộc thành phố Hà Nội nhƣng cũng đóng
góp những giải pháp đối với công tác xây dựng Đảng ở các Đảng bộ các cấp

các nghành khác với những biện pháp cụ thể, linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp.
3.Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Tìm hiểu sự nhận thức, các chủ trƣơng, biện pháp, kết quả tổ chức thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) từ năm
2008 đến năm 2014 là mục đích nghiên cứu chính của đề tài. Từ đó, nhằm
làm rõ thêm lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức thời kỳ này. Những bài học kinh
nghiệm đƣợc rút ra từ việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà
Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014 sẽ là
những kiến nghị, đề xuất, giải pháp để Đảng bộ huyện Mỹ Đức đạt đƣợc

7


những kết quả tốt hơn nữa trong lĩnh vực xây dựng Đảng thời gian tới
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn có nhiệm vụ thu thập, bổ sung và xử lí những nguồn tƣ liệu về
đề tài một cách khoa học để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Trình bày một
cách hệ thống quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện các nhiệm vụ của
công tác xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014. Từ đó, rút ra đƣợc những
nhận xét về thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm
của quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ
năm 2008 đến năm 2014.
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Những chủ trƣơng, kế hoạch, biện pháp của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
trong công tác xây dựng chính Đảng và những kết quả, ý nghĩa của việc thực
hiện những chủ trƣơng trên.
4.2. Phạm vi
- Về nội dung: Tìm hiểu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện

nhiệm vụ xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức; những
thành tựu, hạn chế và rút ra một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lí luận và
thực tiễn đối với công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức hiện nay.
- Về thời gian: từ năm 2008 đến năm 2014.
- Về không gian: Trên địa bàn huyện Mỹ Đức bao gồm 22 xã, thị trấn.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong thời kỳ
2008 – 2014.
* Nguồn tài liệu:
Văn kiện Đảng toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập; Các công trình khoa
học, tạp chí, sách báo nghiên cứu về vấn đề xây dựng Đảng; những văn kiện,

8


Nghị quyết, chỉ thị, báo cáo chính trị của Trung ƣơng Đảng; các chủ trƣơng,
chƣơng trình hành động, báo cáo của Thành uỷ Hà Nội, Ủy ban nhân dân, Hội
đồng nhân dân thành phố, các Báo cáo tổng kết, Nghị quyết, kế hoạch,... của
Đảng bộ huyện Mỹ Đức, Đảng uỷ cấp cơ sở về vấn đề xây dựng Đảng. Ngoài
ra luận văn còn sử dụng tài liệu, các công trình trình bày ở trên.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu sử dụng phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic.
Bên cạnh đó còn sử dụng các phƣơng pháp liên ngành nhƣ: Phân tích, tổng
hợp, đánh giá, thống kê, so sánh, khảo sát, điều tra...
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài đƣợc kết cấu
thành 3 chƣơng, 6 tiết.
Chƣơng 1:CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM

VỤ XÂY DỰNG ĐẢNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ ĐỨC

TƢ̀ NĂM

2008 ĐẾN NĂM 2010
Chƣơng 2: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM
VỤ XÂY DỰNG ĐẢNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ ĐƢ́C TƢ̀ NĂM
2011 ĐẾN NĂM 2014
Chƣơng 3: NHẬN XÉ T VÀ KINH NGHIỆM

9


Chương 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
XÂY DƢ̣NG ĐẢNG CỦ A ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ ĐƢ́C
TƢ̀ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2010
1.1 Chủ trƣơng xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
(2008 – 2010)
1.1.1 Các yếu tố tác động, chi phối và tình hình thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng ở huyê ̣n Mỹ Đức đến năm 2008
* Các yếu tố tác động, chi phối đến việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng ở Đảng bộ huyện Mỹ Đức
Về tự nhiên: Huyện Mỹ Đức nằm ở phía tây nam của thành phố Hà
Nội, cách trung tâm Hà Nội gần 50 km; gồm 22 xã, thị trấn, trong đó có 21
xã, thị trấn đồng bằng dọc sông Đáy, một xã miền núi có dân tộc Mƣờng.
Huyện có hai tôn giáo là Phật giáo và Thiên Chúa giáo. “Phía Bắc giáp huyện
Chƣơng Mỹ, phía Đông giáp huyện Ứng Hoà (ranh giới tự nhiên là sông
Đáy), phía Tây giáp huyện Lƣơng Sơn, Kim Bôi và Lạc Thuỷ tỉnh Hoà Bình,
phía Nam giáp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam”[07; 05].

Địa dƣ hành chính huyện Mỹ Đức ra đời trải qua một quá trình đấu
tranh lâu dài trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc từ thời kỳ nghìn
năm Bắc thuộc đến cuối thế kỷ thứ XIX.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện Mỹ Đức hiện nay là 23.146,93 ha,
chiếm 6,93% tổng diện tích tự nhiên của Hà Nội (trong đó đất nông nghiệp là
14.396,26ha, chiếm 62,2% tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp
6.567,42ha, chiếm 28,37% so với tổng diện tích tự nhiên; đất chƣa sử dụng
2.183,25ha, chiếm 9,43% tổng diện tích tự nhiên). Dân số năm 2012 là 170.831
nhân khẩu (chiếm 2,65% tổng dân số của Hà Nội). Mật độ dân số trung bình là
747 ngƣời/km2. Trung tâm của huyện là thị trấn Đại Nghĩa. [13; 02].
Huyện Mỹ Đức có điều kiện thuận tiện giao lƣu kinh tế - xã hội với các
10


địa phƣơng trong và ngoài tỉnh thông qua hệ thống đƣờng bộ và đƣờng thủy,
khai thác thị trƣờng Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam. Mỹ Đức là một huyện có cả
đồng bằng và rừng núi, có nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành công nghiệp
chế biến, thủ công mỹ nghệ, công nghiệp khai thác. Hơn nữa, huyện có rừng
và danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhƣ Chùa Hƣơng, điểm du lịch Hồ Quan
Sơn. Toàn huyện có trên 200 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 67 di tích
lịch sử văn hóa đã đƣợc xếp hạng. Vì vậy, Mỹ Đức có nhiều điều kiện phát
triển, mở rộng dịch vụ du lịch văn hóa.
Là huyện thuần nông, thổ nhƣỡng của Mỹ Đức chủ yếu là đất phù sa
không đƣợc bồi, đất vùng trũng thuộc loại đất thịt nặng, nghèo nàn. Đất đai
vùng này thích ứng cho cây lƣơng thực, cây rau màu, cây nông nghiệp,... cho
năng suất cao, khối lƣợng sản phẩm lớn không thua kém các vùng có trình độ
thâm canh khá.
Về kinh tế
Ngƣời dân Mỹ Đức từ xƣa tới nay luôn cần cù, giản dị, trung thực, chịu
thƣơng, chịu khó và có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động –

sản xuất, trong chiến đấu và trong cuộc sống. Tiếp tục phát huy những kết quả
đạt đƣợc sau những năm thực hiện đƣờng lối đổi mới do Đảng khởi xƣớng và
lãnh đạo, trong những năm qua, Đảng bộ huyện xác định phát triển kinh tế
nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Mặc dù là một huyện nông nghiệp, xuất
phát điểm thấp, dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện, nhân dân trong
huyện đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vƣơn lên và giành đƣợc nhiều kết quả đáng
khích lệ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc
phòng,… Tốc độ tăng trƣởng kinh tế hàng năm đạt 9,5 %. Bình quân thu nhập
đầu ngƣời năm 2008 là 5,9 triệu đồng, năm 2010 là 10,40 triệu đồng [13; 03].
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Tính đến năm 2008 tỷ trọng nônglâm nghiệp 57,9% ; tiểu thủ công nghiệp- xây dựng 18,8%; dịch vụ- du lịch là
23,3% [13; 03].
Công tác đầu tƣ xây dựng cơ bản giao thông – thủy lợi và các công

11


trình phúc lợi xã hội phục vụ cho đời sống dân sinh, thúc đẩy cho kinh tế phát
triển đƣợc huyện chủ động và có nhiều cố gắng. Đầu tƣ xây dựng cơ bản tăng
bình quân 30,3%/năm. Huyện đã chủ trƣơng tranh thủ sự hỗ trợ vốn của Nhà
nƣớc, của thành phố và huy động nguồn lực trong nhân dân để xây dựng:
điện, đƣờng, trƣờng, trạm, trụ sở làm việc, nhà văn hóa thôn, công trình thủy
lợi, vệ sinh môi trƣờng,… Các công trình này đều đƣợc đẩy mạnh và triển
khai thực hiện tốt. Đến nay hệ thống đƣờng giao thông trong huyện, nhất là hệ
thống giao thông nông thôn đã cơ bản đƣợc bê tông hóa, nhựa hóa đảm bảo
đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển cho nhân dân.
Về chính trị
Mỹ Đức là huyện sớm có phong trào cách mạng ở phía nam thành phố,
với hai chi bộ Đốc Tín và Vĩnh Lạc từng giữ vai trò lãnh đạo cách mạng trên
địa bàn huyện trong cuộc vận động giải phóng dân tộc thời kỳ 1939 - 1945.
Tháng 9/1945, Chi bộ Đảng huyện Mỹ Đức ra đời. Trong bối cảnh sau cách

mạng tháng Tám, Đảng ta phải rút vào hoạt động bí mật, tổ chức Đảng gọi là
Hội. Giữa năm 1946, Ban cán sự Đảng bộ huyện Mỹ Đức đƣợc thành lập.
Tháng 10/1946, Ban cán sự chuyển thành Ban Huyện ủy. Đó là cơ sở để
tháng 11/1947 Đảng bộ huyện Mỹ Đức ra đời.
Xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong những
năm qua, công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng đƣợc các cấp ủy Đảng từ huyện
đến cơ sở thƣờng xuyên chú trọng. Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ƣơng,
của Thành phố và của huyện đều đƣợc quán triệt đầy đủ, kịp thời tới toàn thể
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong huyện. Đặc biệt, trong việc
triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Hàng năm đều có kế hoạch tổ chức thực hiện cuộc vận động
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập nghiêm túc các chuyên đề theo
đúng kế hoạch chỉ đạo của cấp trên. Thông qua việc học tập, giúp cho cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ
bản, về những giá trị to lớn của tƣ tƣởng, tấm gƣơng đạo đức cách mạng của

12


Ngƣời, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tƣ tƣởng, chính trị đạo
đức, lối sống và các tệ nạn xã hội,… tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn
Đảng bộ và toàn dân.
Điều kiện chính trị xã hội ở huyện Mỹ Đức còn có những đặc thù riêng
tác động đến chất lƣợng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thị trấn của huyện. Đó
là một số xã ở huyện vừa có đồng bào ngƣời kinh xen lẫn với đồng bào dân
tộc, chủ yếu là dân tộc Mƣờng, hai xã phần lớn theo đạo Thiên Chúa. Vì vậy,
những vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc, bồi dƣỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ
cán bộ dân tộc và tôn giáo, chính sách đối với cán bộ dân tộc cần phải đƣợc
quan tâm.
Những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên đây của huyện

Mỹ Đức đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở
huyện, tạo điều kiện cho huyện phát triển về các mặt kinh tế chính trị, văn
hóa, xã hội; đồng thời cũng bộc lộ một số hạn chế. Điều đó đã phản ánh qua
kết quả và những hạn chế chất lƣợng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thị trấn
của huyện Mỹ Đức.
Về văn hóa- xã hội, giáo dục, y tế
Sự nghiệp giáo dục – y tế đƣợc đầu tƣ xây dựng kiên cố, phát triển
mạnh. “Cả 22/22 trạm y tế xã, thị trấn đã đạt chuẩn quốc gia và đều có bác sỹ.
Hiện nay toàn huyện Mỹ Đức có 83 trƣờng học các cấp (trong đó 5 trƣờng
phổ thông trung học và trung tâm hƣớng nghiệp dạy nghề, trung tâm giáo dục
thƣờng xuyên; 23 trƣờng trung học cơ sở, 29 trƣờng tiểu học, và 24 trƣờng
mầm non). Chất lƣợng giáo dục và chất lƣợng khám chữa bệnh ngày càng
đƣợc nâng cao. Năm 2000, huyện đã đƣợc công nhận hoàn thành phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi; năm 2001 huyện đƣợc công nhận hoàn thành phổ
cập giáo dục trung học cơ sở và đang tích cực triển khai phổ cập giáo dục bậc
trung học phổ thông. Đội ngũ giáo viên từ mầm non đến trung học phổ thông
100% đã đạt chuẩn (trong đó trên 45% vƣợt chuẩn). Bình quân mỗi năm Mỹ
Đức có 150 đến 200 em học sinh thi đỗ vào các trƣờng cao đẳng, đại học”

13


[30; 46].Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW5 (khóa VIII) và Nghị quyết TW10
(khóa IX) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc gắn với phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở
khu dân cư”, xây dựng “người Hà Nội thanh lịch, văn minh,” đƣợc các tầng
lớp nhân dân trong huyện tích cực hƣởng ứng và đẩy mạnh.
Toàn huyện có 2820 Anh hùng liệt sỹ (trong đó liệt sỹ chống Pháp 553,
liệt sỹ chống Mỹ 1906, liệt sỹ bảo vệ tổ quốc 361), ghi nhận những thành tích
to lớn đó, năm 2000, huyện vinh dự đƣợc Nhà nƣớc trao tặng danh hiệu đơn vị

Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân; 8/22 xã, thị trấn trong huyện cũng đã
vinh dự đƣợc Nhà nƣớc trao tặng danh hiệu này vì đã có công lao đóng góp to
lớn cho sự nghiệp cứu nƣớc của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Toàn huyện có 117 bà mẹ Việt Nam đƣợc Nhà nƣớc phong
tặng, truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Hiện nay 100% số gia
đình chính sách, gia đình có công với cách mạng trong huyện đã có mức sống
khá, so với mức sống chung của nhân dân toàn huyện [30; 49].
Về An ninh- Quốc phòng
Đƣợc sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện
đến xã, trong những năm qua tình hình an ninh chính trị, an toàn xã hội trên
địa bàn huyện luôn đƣợc bảo đảm và giữ vững, không có vụ việc lớn xảy ra.
Công tác quân sự địa phƣơng thực hiện tốt. Lực lƣợng quân sự địa phƣơng
luôn bảo đảm sẵn sàng chiến đấu. Các xã, thị trấn đều có lực lƣợng dân quân
tự vệ và lực lƣợng dự bị động viên sẵn sàng ứng phó với bất kỳ tình huống
nào xảy ra. Hàng năm các xã, thị trấn đều hoàn thành tốt chỉ tiêu giao quân
cấp trên giao.
* Chủ trương của Đảng và tình hình xây dựng Đảng ở huyê ̣n Mỹ Đức đế n
năm 2008 (bổ sung thêm chủ trương của Đảng)
Mỹ Đức là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nộinhƣng là địa
phƣơng sớm có những thanh niên tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và đƣờng
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

14


Ngay từ khi chi bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở khu
vực Hà Nội ra đời (1926), ở Mỹ Đức đã có những thanh niên, học sinh sống
và học tập ở các thành thị tham gia hoạt động trong tổ chức thanh niên học
sinh yêu nƣớc do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chỉ đạo. Đốc Tín
chính là chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Mỹ Đức đƣợc thành lập năm 1939.

Có sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, phong trào cách mạng và công tác
xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức vẫn giữ đƣợc mỗi quan hệ với Ứng Hòa, với
các cơ sở cách mạng ở vùng Kim Bảng (Hà Nam). Một số cán bộ ở Ứng Hòa
và Kim Bảng qua lại giúp đỡ phong trào cách mạng ở Đốc Tín và tuyên
truyền gây nhân mối ở một số các nơi khác trong địa bàn huyện.
Từ giữa năm 1939, tình hình thế giới ngày càng trở nên phức tạp. Nguy
cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới thứ hai do trục phát xít Đức – Ý –
Nhật gây ra ngày một đến gần. Chính phủ Pháp nghiêng dần về phía hữu, bọn
phản động thuộc địa của Pháp ở Đông Dƣơng cũng ngày càng trắng trợn
khủng bố, uy hiếp phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Trong tình
hình đó, Tỉnh ủy Hà Đông chỉ đạo phong trào ở vũng nam Mỹ Đức tranh thủ
điều kiện còn thuận lợi tiếp tục mở rộng Mặt trận dân chủ, tập hợp lực lƣợng
quần chúng, đồng thời chú ý củng cố phong trào, chuẩn bị đề phòng khi cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, bọn thống trị sẽ trở mặt đàn áp. Chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phong trào cách mạng và công tác xây dựng
Đảng ở Mỹ Đức chuyển sang thời kỳ mới. Đầu năm 1940, phong trào cách
mạng và công tác xây dựng Đảng ở Mỹ Đức bị tổn thất nghiêm trọng do
khủng bố ở Cao Mật (Hà Nam).
Tháng 8/1941, Tỉnh ủy Hà Đông đề ra kế hoạch chỉ đạo các cơ sở thành
lập Mặt trận Việt Minh. Ban Tỉnh ủy phân công cán bộ về các vùng chỉ đạo
và giúp đỡ các cơ sở thành lập Mặt trận Việt Minh, chuyển các đoàn thể phản
đế thành các đoàn thể cứu quốc, truyền đạt Nghị quyết Trung ƣơng lần thứ 8
và chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phƣơng.
Đến giữa 1942, trên địa bàn huyện Mỹ Đức, phong trào và cơ sở cách

15


mạng đã hình thành ở cả ba khu vực: Bắc, Trung và Nam huyện. Trong đó,
Đốc Tín có chi bộ Đảng, là trung tâm của các cơ sở phía nam và khu vực

miền trung huyện. Vĩnh Lạc là trung tâm phong trào ở khu vực phía bắc.
Đối với phong trào và công tác xây dựng tổ chức chính trị của Đảng ở
Mỹ Đức, cuộc mittinh lớn dịp hội chùa Hƣơng năm 1943 đã có ảnh hƣởng
vang dội không chỉ trong địa phƣơng mà còn lan xa ra nhiều tỉnh, động viên
mạnh mẽ niềm tin và tinh thần cách mạng của quần chúng. Tuy nhiên, đứng
trƣớc sự phát triển của các phong trào cách mạng dƣới sự lãnh đạo của các cơ
sở Đảng trong huyện, thực dân Pháp ráo riết theo dõi, đe dọa. Phong trào cách
mạng và công tác xây dựng Đảng ở cơ sở đối với một số xã từ sau cuộc tuyên
truyền ở chùa Hƣơng bị lắng xuống. Đây chính là thời điểm mà phong trào
cách mạng và công tác xây dựng Đảng phải chống phá với những luận điệu
tuyên truyền về học thuyết “máu đỏ da vàng”, “khối thịnh vƣợng chung” của
bọn tay sai thân Nhật.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tình hình có những thay đổi, đời sống
nhân dân ngày càng khổ cực, dƣới sự lãnh đạo của các cán bộ Đảng nhƣ:
đồng chí Đỗ Mƣời, đồng chí Bùi Quang Tạo,... đã tích cực mở các lớp huấn
luyện, đẩy mạnh tuyên truyền, mở rộng địa bàn hoạt động của Đảng ta.
Tháng 5/1945, chi bộ Vĩnh Lạc đã kết nạp thêm ba quần chúng vào tổ
chức Đảng. Nhƣ vậy, phải tới 6 năm sau (từ 1939 đến 1945), phong trào cách
mạng ở huyện Mỹ Đức mới thành lập thêm một chi bộ. Phong trào cách mạng
và công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức đã thu đƣợc những kết quả bƣớc
đầu. Lúc đầu trong huyện chỉ có hai chi bộ là chi bộ Đốc Tín ở phía Nam, chi
bộ Vĩnh Lạc ở phía Bắc huyện, mỗi chi bộ có một vai trò và thời điểm lịch sử
rất khác nhau, nhƣng đây là hai tổ chức Đảng đầu tiên của Đảng bộ huyện Mỹ
Đức. Tiếp đó là sự phát triển của hàng loạt các chi bộ Đảng nhƣ: 10/1945,
thành lập chi bộ cơ quan Huyện bộ Vệt Minh hay còn gọi chi bộ đội công tác
huyện do đồng chí Trƣơng Thị Mỹ làm Bí thƣ. “Chi bộ cơ quan huyện ra đời
giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo mọi phong trào, trong đó chú trọng việc đào tạo,

16



bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên mới và xây dựng củng cố tổ
chức Đảng trên phạm vi toàn huyện. Công tác xây dựng Đảng đƣợc đặc biệt
chú trọng nhất là về chính trị tƣ tƣởng và xây dựng tổ chức Đảng từ huyện
đến các xã” [27; 47].
Để làm công tác phát triển Đảng, chi bộ đội công tác huyện thành lập
Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở các tiểu khu, chọn lọc những quần chúng
tiên tiến, tích cực ở các thôn, xã đƣa vào Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác để
giáo dục, bồi dƣỡng về Đảng, về đƣờng lối và nhiệm vụ cách mạng, khi đủ
điều kiện thì kết nạp và sinh hoạt ở chi bộ ghép.
Theo phƣơng hƣớng đó, những cán bộ đảng viên của chi bộ đội công
tác huyện phụ trách các tiểu khu vừa lãnh đạo phong trào, vừa làm công tác
phát triển đảng viên mới và xây dựng tổ chức Đảng. Công tác xây dựng Đảng
ở huyện Mỹ Đức trong năm 1946 đƣợc đẩy mạnh. Cho đến giữa 1946, toàn
huyện có năm chi bộ ghép tiểu khu và hai chi bộ là: Chi bộ Đội công tác
huyện và chi bộ Vĩnh Lạc.
Đƣợc sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tháng 6/1946, Ban cán sự Đảng huyện
Mỹ Đức đƣợc thành lập. Chi bộ Đội công tác huyện đã hoàn thành sứ mệnh
và không giữ vai trò lãnh đạo cách mạng nhƣ trƣớc, là chi bộ cơ quan huyện.
Tháng 9/1946, Ban Cán sự Đảng huyện Mỹ Đức chuyển thành Ban
huyện ủy. Công tác xây dựng Đảng ở các tiểu khu tiếp tục đƣợc đẩy mạnh.
Huyện ủy lãnh đạo các xã, ngành tích cực làm công việc chuẩn bị kháng
chiến, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển đảng viên mới, tiến tới mỗi xã
thành lập một chi bộ Đảng.
Công tác phát triển đảng viên mới ở các tiểu khu tiếp tục đƣợc đẩy
mạnh. Thực hiện chủ trƣơng của tỉnh, Huyện ủy phát động đợt kết nạp “lớp
đảng viên kháng chiến”. Từ tháng 7/1947 đến tháng 12/1947, Huyện ủy Mỹ
Đức quyết định thành lập 14 chi bộ cơ sở gồm: Thiết Tháp, Phúc Lâm, Do Lễ,
Yên Lạc, Đục Khê, Phú Yên, An Mỹ, Lễ khê, Trinh Tiết, Hà Xá, Viêm Khê,
An Phúc. Thƣợng Vệ và chi bộ ghép Khảm Lâm – Yên Cốc.


17


Nhƣ vậy, kể từ năm 1939 đến 1947 là 8 năm, công tác xây dựng Đảng
của Đảng bộ huyện Mỹ Đức tiến hành trên cơ sở của nhiệm vụ cách mạng ở
các thời kỳ: Giải phóng dân tộc (1939 – 1945); xây dựng củng cố và bảo vệ
chính quyền cách mạng (9/1945 – 12/1946) và năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp xâm lƣợc. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng lãnh đạo chính
quyền làm nhiệm vụ của nền chuyên chính dân chủ nhân dân, công tác xây
dựng Đảng ở Mỹ Đức bƣớc vào giai đoạn mới, với phƣơng hƣớng và cách đi
mới mà thời gian đầu là vai trò của chi bộ đội công tác huyện và chi bộ ghép
tiểu khu. Đây là bƣớc đi quan trọng, là nền tảng cho sự ra đời của Ban Huyện
ủy và chi bộ Đảng ở các xã. Yêu cầu đặt ra là bầu Ban chấp hành Đảng bộ
huyện chính thức theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và Điều lệ của
Đảng. Do vậy, việc Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ
nhất vào tháng 11/1947.
Kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, quê hƣơng
Mỹ Đức đƣợc giải phóng (7/1954) cho đến năm 2000 là 46 năm. Đây là chặng
đƣờng cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, ác liệt của quân và dân Mỹ Đức
dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Từ 1947 đến 2010, trải qua 53 năm,
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã diễn ra 22 lần tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện.
Kể từ khi ra đời chi bộ Đảng đầu tiên ở Đốc Tín – Mỹ Đức (1939) chỉ với 2
đảng viên, tiếp đó là chi bộ Vĩnh Lạc và thành lập chi bộ cơ quan Huyện bộ Việt
Minh ban đầu chỉ có 4 đồng chí. Tuy số lƣợng chi bộ và đảng viên còn rất ít
nhƣng đã phần nào phát huy đƣợc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân
trong huyện. Các chi bộ Đảng không ngừng đƣợc củng cố, tăng cƣờng và mở
rộng, số lƣợng đảng viên và các chi bộ Đảng nhanh chóng phát triển cả về số
lƣợng và chất lƣợng.Năm 1946, Ban cán sự Đảng huyện Mỹ Đức đƣợc thành

lập gồm 5 ủy viên. Đây đƣợc coi là một tổ chức tiền thân của Đảng bộ huyện
Mỹ Đức hiện nay. “Tháng 9/1946 Ban cán sự Đảng huyện Mỹ Đức chuyển
thành Ban Huyện ủy, đây đƣợc coi là một mốc đánh dấu sự phát triển trong tƣ

18


duy của Đảng bộ huyện, một bƣớc kiện toàn trong bộ máy chính trị Đảng của
huyện Mỹ Đức” [27; 99].
Tháng 11/1947, Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần
thứ I. Tháng 3/ 1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ II.
Tiếp đó, trong các năm 1952 – 1986 đã diễn ra 15 lần Đảng bộ huyện
Mỹ Đức tiến hành Đại hội đại biểu huyện. Đến 1986, số đảng viên của đảng
bộ huyện đã lên tới 4000 đảng viên.
“Tháng 1/1989 diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ
XVIII với sự tham dự của 287 đại biểu thay mặt cho 4721 đảng viên trong
huyện. Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVIII gồm 37 ủy viên chính
thức” [28; 227].
Trong Đại hội đại biểu huyện lần thứ XVII (9/1986) chỉ đạo về công
tác xây dựng Đảng: Công tác xây dựng Đảng phải đƣợc tăng cƣờng củng cố
về tổ chức và rèn luyện đội ngũ đảng viên vững mạnh về chính trị, tƣ tƣởng
và tổ chức. Tăng cƣờng giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, giáo dục đƣờng lối,
chính sách của Đảng bằng các hình thức: học tập trung, học tại chức tại các cơ
sở và trƣờng Đảng của huyện làm cho cán bộ đảng viên đổi mới nhận thức,
nhất là tƣ duy kinh tế. Biết vận dụng đƣờng lối chính sách vào từng cơ sở và ở
từng ngành khác nhau để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng. Xây dựng
đội ngũ báo cáo viên từ huyện đến xã. Củng cố kiện toàn lại tổ chức văn hóa
thông tin, đài truyền thanh. Các cấp ủy, Đảng bộ, chi bộ cải tiến nội dung sinh
hoạt đảm bảo vai trò lãnh đạo, tính tiền phong gƣơng mẫu ở mỗi cán bộ, đảng
viên: nói và làm theo Nghị quyết của Đảng.

Ngoài ra, trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Đại hội còn chỉ
ra những yêu cầu cụ thể đối với các cán bộ đảng viên, đặc biệt đề cao công tác
kiểm tra Đảng: “Công tác kiểm tra của Đảng phải đƣợc xây dựng thành
chƣơng trình công tác của các cấp ủy” [28; 206].
Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XVIII (1/1989) đề ra
phƣơng hƣớng nhiệm vụ chung về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng:

19


“Tiếp tục quán triệt nội dung tinh thần của Nghị quyết 5 của Trung ƣơng về
công tác xây dựng Đảng và tổ chức cán bộ. Hƣớng tới mục tiêu: Củng cố
đƣợc lòng tin của quần chúng đối với Đảng” [28; 221].
Hội nghị Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức giữa nhiệm kỳ, khóa XIX
(4/1994) đề ra tƣ tƣởng chỉ đạo: “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng
3, Nghị quyết 4 của Tỉnh ủy về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, coi đó là nhiệm
vụ then chốt” [28; 259].
Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XX (3/1996) chỉ rõ:
“Cần tăng cƣờng công tác chính trị, tƣ tƣởng, thƣờng xuyên giáo dục cho cán
bộ, đảng viên kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, kiên
định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” [28; 281].
Tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXI (11/2000),
Đại hội đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2005 có từ 60 – 70% tổ chức cơ sở
Đảng vững mạnh, không còn cơ sở Đảng yếu kém.
Đại hội xác định: “Trong giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, phải thƣờng
xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội
Đảng bộ tỉnh, Đại hội Đảng bộ huyện để nâng cao nhận thức chính trị, lập
trƣờng quan điểm, tin tƣởng vào đƣờng lối đổi mới của Đảng, đề ra các Nghị
quyết chủ trƣơng phù hợp, sát, đúng với tình hình địa phƣơng”. [28; 305].

Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXII (09/2005), đề ra
nhiệm vụ “tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 3, khóa VII, Nghị quyết
Trung ƣơng 6 (lần 2), khóa VIII về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, các cấp ủy
đảng thƣờng xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng. Chỉ đạo đánh giá,
phân loại đúng thực trạng các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Thực hiện tốt
Quy định 76 của Bộ chính trị về giới thiệu đảng viên cơ quan giữ mối liên hệ
và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cƣ trú [28; 321]. Đảng bộ huyện đề ra chủ
trƣơng tăng cƣờng lãnh đạo công tác chính trị - tƣ tƣởng, giáo dục chủ nghĩa
Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh tuyên truyền các chỉ thị, nghị

20


quyết của Trung ƣơng, tỉnh, huyện, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc tới
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời, mở nhiều lớp bồi dƣỡng lí luận
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh công tác
khoa giáo,...
Nhƣ vậy, đứng trƣớc những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nƣớc,
dƣới ánh sáng các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Tỉnh ủy Hà
Tây, Thành ủy Hà Nội, Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn đề ra những tƣ tƣởng
chỉ đạo đúng đắn, kịp thời và phù hợp.
1.1.2 Chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
(2008 – 2010)
* Tình hình , nhiê ̣m vụ và yêu cầ u mới về xây dựng Đảng khi Mỹ Đức

sáp

nhập vào thành phố Hà Nội
Mỹ Đức là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nội.Thời kỳ triều
Nguyễn, Mỹ Đức thuộc tỉnh Hà Nội, sau đó thuộc tỉnh Hà Đông. Hòa bình lập

lại ở miền Bắc, năm 1965, hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây đƣợc sát nhập thành
tỉnh Hà Tây, Mỹ Đức là một huyện của tỉnh Hà Tây.
Từ năm 1975 đến năm 1991, hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình sát nhập
thành tỉnh Hà Sơn Bình, huyện Mỹ Đức thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Sau khi chia tách tỉnh Hà Sơn Bình, tái lập tỉnh Hà Tây, tỉnh Hòa Bình,
huyện Mỹ Đức lại thuộc tỉnh Hà Tây nhƣ cũ.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, tại kỳ họp thứ 3, ngày
29/05/2008, từ ngày 01/08/2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mỹ Đức
sáp nhập về thủ đô Hà Nội, trở thành một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội.
Trong những năm trƣớc 2008, tiếp tục thực hiện đƣờng lối đổi mới của
Đảng, Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Hà Tây đã nỗ lực, phấn đấu và đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng về
mọi mặt, trong đó có việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng. Kể từ khi sáp
nhập vào trở thành một huyện của thành phố Hà Nội, nhiệm vụ xây dựng
Đảng ở Mỹ Đức đững trƣớc những tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu mới dƣới

21


sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ thành phố Hà Nội.
Khi sáp nhập thành một huyện của thủ đô, Mỹ Đức có rất nhiều thuận lợi
trên con đƣờng phát triển kinh tế - xã hội.Việc hợp nhất Hà Nội và Hà Tây cũng
là cơ hội để thành phố Hà Nội mới nói chung và huyện Mỹ Đức nói riêng thu hút
nhiều hơn các dự án đầu tƣ trực tiếp từ trong nƣớc và nƣớc ngoài. Thành phố Hà
Nội mới sẽ có thêm quỹ đất để ƣu tiên phát triển các khu công nghiệp và khu
công nghệ cao, vì vậy sẽ đầu tƣ trực tiếp thêm nhiều dự án, nhiều khu công
nghiệp để phát triển kinh tế cho các huyện ngoại thành nhƣ Mỹ Đức, đây đƣợc
xem là một lợi thế lớn cho việc thu hút đầu tƣ, bởi vào thời điểm đó năm khu
công nghiệp dành cho các dự án đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài của thành phố Hà
Nội đã gần nhƣ đƣợc lấp đầy.Trong khi đó, ở Mỹ Đức thời điểm đó không có

các khu công nghiệp (đến năm 2010 mới có công ty may Đại Nghĩa). Những
ngành dịch vụ nhƣ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... vẫn đƣợc quan tâm đầu tƣ;
những lĩnh vực mới nhƣ về đô thị, dịch vụ du lịch, sinh thái Hà Nội rất có tiềm
năng. Một lĩnh vực nữa mà Hà Nội đƣợc đầu tƣ phát tiển đó là phát triển nông
nghiệp với công nghệ hiện đại. Thực tiễn của nền kinh tế thế giới cũng nhƣ Việt
Nam hiện nay cho thấy, chúng ta phải dành cho nông nghiệp sự quan tâm đúng
mức. Với diện tích của huyện Mỹ Đức khoảng 70% đất nông nghiệp, rất thuận
lợi cho việc phát triển nông nghiệp.
Là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nội nên còn gặp nhiều khó
khăn trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội so với các quận, huyện
gần trung tâm. Tuy nhiên, Mỹ Đức khai thác tiềm năng, thế mạnh về điều
kiện tự nhiên, vị trí địa lí, về nguồn nhân lực và giao thông, tài nguyên, môi
trƣờng sinh thái để phát triển kinh tế; trong đó phát triển du lịch lễ hội là một
lĩnh vực đƣợc ƣu tiên đầu tƣ và khai thác, bao gồm cả du lịch sinh thái và du
lịch văn hóa,...
Cuối năm 2008, thời tiết diễn biến bất lợi diễn ra trận đại hồng thủy gây
ra hậu quả nặng nề tới kinh tế của nhân dân, cùng với ảnh hƣởng của khủng
hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, ảnh hƣởng không nhỏ đến đời

22


sống nhân dân trong huyện. Xuất phát điểm nền kinh tế của huyện còn thấp,
cơ sở vật chất hạ tầng còn khó khăn, bên cạnh đó, những khó khăn, hạn chế,
bất cập trong công tác quản lí, điều hành trên một số lĩnh vực nhƣ: Quản lí
quy hoạch, xây dựng, đất đai, môi trƣờng,...là những thách thức không nhỏ
ảnh hƣởng trực tiếp tới điều kiện thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ
huyện Mỹ Đức.
Ngoài ra, bên cạnh những cơ hội, việc sáp nhập vào Hà Nội cũng đặt ra
những thách thức hết sức to lớn đối với huyện Mỹ Đức, nhất là trong vấn đề

văn hoá – xã hội. Khi trở thanh một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội, các
cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện hân hoan, tin tƣởng vào khí thế mới
của Đảng, diện mạo mới của huyện. Tuy nhiên, cũng có một số những cán bộ,
đảng viên giữ tƣ tƣởng cố hữu cho rằng việc sáp nhập này sẽ làm mất đi các giá
trị, đặc biệt là giá trị văn hóa của huyện.Đối với khu di tích thắng cảnh chùa
Hƣơng, hiện tƣợng các chùa giả mọc lên hàng loạt, thủ đoạn ngày càng tinh vi
đã làm ảnh hƣởng rất lớn đến hình ảnh bộ mặt du lịch của huyện cũng nhƣ
thuần phong mĩ tục của địa phƣơng. Tuy nhiên, đô thị hóa là một xu thế
chung, nó không chỉ diễn ra ở riêng Hà Nội và vùng ven mà tại nhiều địa
phƣơng trên cả nƣớc và đó là những tác động tiêu cực đến văn hóa và những
ảnh hƣởng về phẩm chất, đạo đức, lối sống là mối lo ngại từ ngày mới có
quyết định sáp nhập. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để giải đƣợc bài toán
hội nhập, điều này cần sự vào cuộc của tất cả các cơ quan chức năng cũng
nhƣ sự ủng hộ của nhân dân dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mỹ Đức.
Mặc dù đứng trƣớc không ít những khó khăn, thách thức nhƣng Đảng
bộ huyện Mỹ Đức luôn phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, nỗ lực
phấn đấu, vận dụng sáng tạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết
của Trung ƣơng, của Thành phố và của huyện. Nhờ vậy đã có những chuyển
biến tích cực trên tất cả các mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh
– quốc phòng, ... cũng nhƣ việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng.
*Chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức

23


Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện
Mỹ Đức không ngừng củng cố và kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng trong huyện cũng nhƣ chú ý tới công tác bồi dƣỡng,
đào tạo đội ngũ đoàn viên thanh niên ƣu tú là đội ngũ kế cận cho việc thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng.

Đảng bộ huyện yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào chiều sâu, xây dựng Đảng
thực sự trong sạch, vững mạnh.
Đảng bộ huyện luôn nhấn mạnh phải “tăng cƣờng lãnh đạo công tác
chính trị, tƣ tƣởng, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Đẩy mạnh tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ƣơng, tỉnh, huyện,
chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc tới cán bộ, đảng viên và nhân dân, với
phƣơng châm: kịp thời, sát thực tế, hình thức tuyên truyền ngắn gọn, dễ hiểu,
dễ nhớ, lồng ghép nhiều nội dung phong phú, hấp dẫn. Ngoài ra, mở nhiều lớp
bồi dƣỡng lí luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Đẩy
mạnh việc biên soạn lịch sử Đảng bộ các xã, thị trấn cũng là một trong những
nội dung đƣợc Đảng bộ huyện Mỹ Đức quan tâm, Đảng bộ huyên Mỹ Đức đặt
ra chỉ tiêu phấn đấu mỗi năm có từ hai đến ba ấn phẩm lịch sử”[28; 357].
Công tác giáo dục lịch sử truyền thống của Đảng bộ địa phƣơng trong
các trƣờng học cũng đƣợc tăng cƣờng. Công tác khoa giáo toàn diện trên các
lĩnh vực phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế xã hội. Nắm bắt và xử lí kịp
thời các biểu hiện, dƣ luận lệch lạc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân từ cơ
sở. Củng cố và mở rộng mạng lƣới báo cáo viên cơ sở, đảm bảo chất lƣợng
đội ngũ báo cáo viên và giảng viên kiêm chức.
Nâng cao vai trò của tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên, tích cực thực hiện
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ƣơng
6 (lần 2), khóa VIII, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh,...“phấn đấu kể từ 2010 có 75% tổ chức cơ sở đảng vững

24


×