ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------------------
ĐẶNG THỊ PHƢƠNG
ĐẢNG BỘ TỈNH HƢNG YÊN LÃNH ĐẠO
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1967
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------------------
ĐẶNG THỊ PHƢƠNG
ĐẢNG BỘ TỈNH HƢNG YÊN LÃNH ĐẠO
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1967
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mai Hoa
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài
liệu và số liệu trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 2015
Tác giả
Đặng Thị Phương
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới
PGS.TS. Nguyễn Thị Mai Hoa - cô giáo hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp
đỡ tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong khoa Lịch sử, bộ môn
Lịch sử Đảng, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc
gia Hà Nội, nơi tác giả đã học.
Xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ và nhân viên kho lưu trữ văn
phòng Tỉnh ủy, Thư viện tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo, Cục Thống kê… của
tỉnh Hưng Yên đã giúp đỡ tác giả trong quá trình khai thác và tìm kiếm tư liệu.
Xin cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã hỗ trợ, động viên, giúp đỡ tác giả
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Đặng Thị Phương
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
BẢNG CHÚ THÍCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
HƢNG YÊN ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1954
ĐẾN NĂM 1960 ....................................................................................... 14
1.1. Căn cứ xác định chủ trương và chủ trương của Đảng bộ tỉnh ........... 14
1.1.1. Căn cứ xác định chủ trương........................................................................ 14
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên................................................... 23
1.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên ............................................ 27
1.2.1. Đảm bảo các điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục.............................. 27
1.2.2. Mở rộng quy mô giáo dục ở các cấp học................................................... 37
1.2.3. Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng - chính trị trong nhà trường ...... 40
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................... 43
Chƣơng 2. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HƢNG YÊN
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM
1967 ............................................................................................. 45
2.1. Đặc điểm tình hình và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên ....... 45
2.1.1. Đặc điểm tình hình ...................................................................................... 45
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên................................................... 47
2.2. Chỉ đạo thực hiện ............................................................................... 57
2.2.1. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông .................................... 57
2.2.2. Phát triển về quy mô và tăng cường đội ngũ giáo viên............................. 65
2.2.3. Tăng cường giáo dục chính trị - tư tưởng và xây dựng tổ chức Đảng,
Đoàn thể trong nhà trường .................................................................................... 69
2.2.4. Chăm lo phát triển giáo dục phổ thông vùng Công giáo .......................... 73
2.2.5. Chỉ đạo công tác phòng không, sơ tán ....................................................... 76
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................... 80
Chƣơng 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ...................................... 82
3.1. Nhận xét ............................................................................................. 82
3.1.1. Về ưu điểm và nguyên nhân ....................................................................... 82
3.1.2. Về hạn chế và nguyên nhân ........................................................................ 93
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ............................................................ 102
3.2.1. Nhận thức và quán triệt sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng của giáo dục phổ
thông ..................................................................................................................... 102
3.2.2. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát và tổng kết thực tiễn để đề ra chủ
trương kịp thời, phù hợp...................................................................................... 107
3.2.3. Đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo đối với giáo dục
phổ thông.............................................................................................................. 109
3.2.4. Nhận diện rõ những điểm mạnh, điểm yếu của giáo dục phổ thông, thực
hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục ........... 111
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................. 114
KẾT LUẬN ............................................................................................ 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 118
PHỤ LỤC
BẢNG CHÚ THÍCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH
Ban chấp hành
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
GDPT
Giáo dục phổ thông
HĐND
Hội đồng nhân dân
Nxb
Nhà xuất bản
UBHC
Ủy ban hành chính
UBHCKC
Ủy ban hành chính kháng chiến
UBND
Ủy ban nhân dân
VNDCCH
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong chiến lược phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của mỗi
quốc gia, câu hỏi đầu tiên, và đột phá chú trọng đầu tiên bao giờ cũng nói tới
giáo dục phổ thông (GDPT), vì GDPT là nền tảng cơ bản của hệ thống giáo
dục quốc dân và chính nó sẽ là cơ sở đem đến chất lượng cho cả hệ thống
giáo dục…
Giáo dục - đào tạo là một quá trình liên thông, là sự tiếp nối liên tục của
các bậc học, cấp học từ mầm non, phổ thông cho đến đại học và sau đại học.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân Viê ̣t Nam, GDPT gồm giáo dục tiểu học,
giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông. Đây là bậc học có
vai trò tiếp nối bậc học mầm non và mở đầu cho các bậc học kế tiếp sau,
mang ý nghĩa là bậc học “bản lề” của toàn bộ quá trình hình thành và phát
triển nhân cách của các lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên.
Nhận thức rõ vị trí quan trọng của GDPT, ngay từ khi mới giành được
chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (VNDCCH) đã hình thành một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh và toàn
diện. Hệ thống giáo dục do Nhà nước VNDCCH quản lí, bên cạnh giáo dục
mầm non, giáo dục bổ túc văn hóa cho người lớn tuổi không có điều kiện học
hết phổ thông, giáo dục dạy nghề và giáo dục đại học là GDPT. GDPT ở Việt
Nam đã qua nhiều thời kỳ cải cách và tổ chức dạy học theo các mô hình chủ
yếu như hệ giáo dục 9 năm trong kháng chiến chống Pháp, hệ giáo dục 10
năm trong kháng chiến chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
miền Bắc và hệ giáo dục 12 năm từ khi nước nhà thống nhất đến nay. Quán
triệt các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển giáo
dục nói chung và phát triển GDPT nói riêng, nhà nước Việt Nam, nhân dân
Việt Nam nói chung và ngành giáo dục nói riêng đã chăm lo không ngừng
1
cho GDPT. GDPT đã tạo nên những thành tựu hết sức quan trọng và to lớn,
cung cấp cho xã hội nhiều lớp thế hệ trẻ, thông minh, sáng tạo, trung thành,
dũng cảm, giàu lòng nhân ái, sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc, vì dân tộc, hoàn
thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, góp phần chiến đấu và xây dựng tổ
quốc phát triển như hôm nay… Với ý nghĩa đó, trong đường lối phát triển
giáo dục, Đảng luôn coi trọng vị trí của GDPT. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo
luôn được Đảng coi là động lực để phát triển đất nước.
Hưng Yên là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, cầu nối giữa các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ với Thủ đô Hà Nội. Trong lịch sử phát triển, nhân dân
tỉnh Hưng Yên đã có những đóng góp cùng với nhân dân cả nước lập nên
những thành tựu to lớn trong các thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc
cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Được sự quan tâm
của Đảng và Chính phủ cùng với sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên,
giáo dục Hưng Yên đã đạt được những kết quả nhất định về mở rộng quy
mô, nâng cao chất lượng giáo dục,… góp phần đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo và phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, dưới tác động
của những yếu tố khách quan, chủ quan, GDPT của tỉnh Hưng Yên dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh vẫn không tránh khỏi còn những hạn chế, tồn tại.
Do vậy, nhìn nhận, đánh giá một cách hệ thống, toàn diện sự lãnh đạo xây
dựng, phát triển giáo dục của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối với GDPT trong
thập niên đầu xây dựng miền Bắc và tiến hành chống Mỹ, cứu nước (1954 1967); đúc rút những kinh nghiệm phục vụ việc tiếp tục đổi mới, phát triển
GDPT của tỉnh là việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa lí luận, vừa có ý nghĩa
thực tiễn. Với những lí do đó, tôi chọn vấn đề “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh
đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1954 đến năm 1967” để làm luận
văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục và đào tạo nói chung và GDPT nói riêng đã và đang là đề tài
được các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều nhà khoa học, những nhà
quản lí giáo dục… quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau. Tiêu biểu là một số công trình sau:
2.1. Những công trình nghiên cứu về giáo dục và giáo dục phổ thông
Năm 1972, cuốn sách Bàn về công tác giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí
Minh do Nhà xuất bản (Nxb) Sự Thật, Hà Nội in ấn đã thể hiện những quan
điểm của Hồ Chí Minh về công tác giáo dục. Hồ Chí Minh vạch rõ giáo dục
phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước, gắn liền với sản xuất
và đời sống của nhân dân, học phải đi đôi với hành, lí luận phải liên hệ với
thực tế. Muốn cho công tác giáo dục đạt kết quả tốt thì cần có sự liên hệ và
phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình, với xã hội, giữa nhà trường
với các đoàn thể... Hồ Chí Minh còn nêu nhiều ý kiến phong phú về phương
pháp giáo dục và vạch rõ công tác giáo dục là một khoa học, cán bộ giáo dục
phải không ngừng bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lập trường chính trị, phải ra
sức giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về công
tác giáo dục là sự vận dụng sáng tạo nguyên lí giáo dục của chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, đó là những quan điểm mang ý nghĩa định
hướng mà giáo dục - đào tạo của Việt Nam cần vận dụng.
Cũng trong năm 1972, Nxb Sự thật, Hà Nội ra mắt cuốn sách Thấu suốt
đường lối của Đảng đưa sự nghiệp giáo dục tiến lên mạnh mẽ, vững chắc của
Lê Duẩn - Trường Chinh - Phạm Văn Đồng - Tố Hữu. Cuốn sách gồm một số
bài nói hoặc viết của Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu đã
thể hiện rõ đường lối giáo dục của Đảng, nhằm phát huy mạnh mẽ những
thành tựu to lớn, khắc phục những thiếu sót của giáo dục, đưa sự nghiệp giáo
3
dục tiến lên mạnh mẽ và vững chắc. Đó là những đường lối chung phục vụ
cho sự phát triển giáo dục của cả nước.
Năm 1980, một cuốn sách nghiên cứu về GDPT của tác giả Võ Thuần
Nho được Nxb Giáo dục, Hà Nội phát hành với tựa đề: 35 năm phát triển
giáo dục phổ thông. Cuốn sách là một cuốn sử giản yếu về sự nghiệp giáo
dục. Các tác giả trình bày những nét chủ yếu về đường lối chủ trương của
Đảng về giáo dục và sự phát triển của ngành giáo dục trong từng thời kì
chuyển biến của cách mạng, từ Cách mạng Tháng Tám thành công đến kháng
chiến chống Pháp, Mỹ đến những năm 80 (XX). Cuốn sách có giá trị tham
khảo tốt cho những nghiên cứu về GDPT.
Năm 1992, sách Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945 - 1990) của Phạm
Minh Hạc do Nxb Giáo dục, Hà Nội phát hành là tài liệu được biên soạn theo
hợp đồng giữa UNESCO khu vực châu Á Thái Bình Dương và Bộ Giáo dục
và Đào tạo Việt Nam, được xuất bản bằng tiếng Việt và tiếng Anh để phục vụ
các độc giả muốn tìm hiểu những nét đại cương về sự phát triển giáo dục Việt
Nam từ năm 1945 đến năm 1990. Sách bao gồm 11 chương viết về: Lịch sử,
địa lí, dân tộc, dân số của Việt Nam; các cuộc cải cách giáo dục; giáo dục
trước tuổi; xóa mù chữ và phổ cập giáo dục Tiểu học; GDPT. Bên cạnh đó,
còn bao trùm nội dung về giáo dục Đại học, giáo dục thường xuyên, không
chính quy, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế,... Tuy nhiên,
đây chỉ là công trình sơ thảo về giáo dục Việt Nam nên chưa đi vào nghiên
cứu tình hình giáo dục ở từng địa phương. Do vậy, cuốn sách đóng vai trò là
tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục.
Năm 1995, kỉ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2 9, Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn cuốn sách 50 năm phát triển sự nghiệp
giáo dục và đào tạo (1945 - 1995) (Nxb Giáo dục), nhằm ghi lại những sự
kiện quan trọng, khẳng định những thành tựu to lớn, đúc rút những kinh
4
nghiệm, những bài học thành công và chưa thành công để giải quyết những
vấn đề giáo dục đang được đặt ra. Nội dung sách đã khái quát về bức tranh
giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1995 và cung cấp những tài liệu cơ
bản về đường lối, chính sách và tình hình phát triển GDPT và những đánh giá,
nhận xét về giáo dục Việt Nam những năm này và đúc rút kinh nghiệm. Tuy
nhiên, công trình mang những nét khái quát về nhiều ngành học nên vấn đề
GDPT chỉ được khai thác ở mức độ nhất định.
Năm 1996, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội xuất bản cuốn sách của tác
giả Trần Hồng Quân với nhan đề Giáo dục 10 năm đổi mới và chặng đường
trước mắt. Tác giả tổng kết những kết quả của giáo dục Việt Nam sau chặng
đường 10 năm đổi mới (1986 - 1996) và đưa ra những phương hướng mới về
sự phát triển của giáo dục những năm sau đó. Là công trình có sự tổng hợp,
phân tích nên có thể là tài liệu tham khảo trong việc đưa ra các bài học kinh
nghiệm về giáo dục. Mặc dù vậy, công trình trình cũng chỉ dừng lại ở mức đúc
kết những vấn đề chung, chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về GDPT.
Năm 1999, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội phát hành cuốn sách Về vấn
đề giáo dục - đào tạo của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Cuốn sách là tập hợp
các bài viết nhằm quán triệt những tư tưởng, quan điểm về giáo dục - đào tạo
của Đảng từng bước thực hiện đường lối giáo dục đó, thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thủ tướng luôn đặt giáo dục là quốc
sách hàng đầu, là tương lai của dân tộc. Muốn phát triển giáo dục phải kết hợp
nhiều yếu tố, trong đó có việc phân luồng học sinh, đổi mới phương pháp dạy
học. Đây cũng là một công trình với nội dung chuyên sâu về giáo dục.
Năm 2002, Nxb Giáo dục xuất bản cuốn sách Việt Nam những sự kiện
kịch sử 1945 - 1975 của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia
Viện Sử học do các tác giả Trần Quỳnh Cư, Nguyễn Hữu Đạo, Đỗ Thị
Nguyệt Quang, Nguyễn Tố Uyên, Lưu Thị Tuyết Vân tổng hợp. Nội dung
5
cuốn sách gồm những sự kiện từ năm 1945 đến năm 1975, các tác giả của
cuốn sách không chỉ trình bày các sự kiện về quân sự, chính trị mà còn nêu
lên nhiều sự kiện khác thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối
ngoại,…Các sự kiện này chính là cơ sở để các nghiên cứu có thể đối chiếu các
dữ liệu của diễn trình lịch sử của Việt Nam với diễn trình lịch sử ở từng địa
phương để có được những tư liệu chính xác và trung thực nhất.
Năm 2007, công trình “Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo: Hưởng
ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
của tác giả Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Biên soạn:
Lê Văn Tích, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Thị Nhuần do Nxb Lao động Xã
hội phát hành gồm những bài nói, bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà
nước và một số nhà khoa học Việt Nam trong nghiên cứu, học tập và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Đó là tiếng nói chung về
giáo dục, giúp người đọc hiểu hơn quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục.
Tài liệu sẽ thật hữu ích cho các công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục về
tư tưởng, chính trị, đạo đức của người quản lí, giáo viên, học sinh ...
Năm 2008, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội phát hành cuốn sách Giáo
dục đào tạo quốc sách hang đầu, tương lai của dân tộc của cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng. Nội dung cuốn sách là tập hợp từ những bài nói và viết chọn
lọc của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Theo cố Thủ tướng, giáo dục và đào
tạo là nhân tố có tầm quan trọng bậc nhất, góp phần “không chỉ làm nên sự
nghiệp của một con người mà còn là động lực làm nên lịch sử của cả một dân
tộc. Những trăn trở của cố Thủ tướng cũng chính là những điều mà giáo dục
cần quan tâm để đào tạo ra những người có ích cho xã hội. Do vậy, cuốn sách
sẽ là tài liệu tham khảo cho những vấn đề liên quan đến giáo dục.
Những công trình chuyên khảo trên đã khái quát được lịch sử của nền
giáo dục Việt Nam; từ đó, các tác giả đưa ra những định hướng phát triển nền
6
giáo dục đất nước. Tuy nhiên, những công trình này chưa đề cập cụ thể đến
tình hình, thực trạng riêng của GDPT ở các địa phương.
2.2. Những công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ địa
phương đối với giáo dục
Dưới góc độ khoa học lịch sử, những năm gần đây đã có một số khóa
luận và luận văn tốt nghiệp của sinh viên, học viên chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu về sự lãnh đạo của một số Đảng bộ địa
phương trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục - đào tạo. Một số
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam viết về lĩnh
vực này như:
Luận văn: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ
thông (1975 - 2005)” của tác giả Trương Thị Hoa, Lưu tại thư viện trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007;
“Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ
1954 - 1975” của tác giả Nguyễn Thị Hường, luận văn thạc sĩ Lịch sử, Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2008. “Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển giáo
dục phổ thông từ năm 1965 đến năm 1975” của tác giả Phạm Thị Giang, luận
văn thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; “Đảng Bộ tỉnh Hưng
Yên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo từ năm 1997 đến năm 2006” của
tác giả Phạm Hồng Thiết, luận văn thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2009; “Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông
trong những năm 1996 - 2006” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Hạnh, luận văn
thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội; “Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo
sự nghiệp giáo dục – đào tạo (1991 - 2000)” của tác giả Lương Thị Hòe, luận
văn thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998; “Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010”
7
của tác giả Trương Thị Nguyệt, luận văn thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2011…
Trong đó đáng chú ý là luận văn của Nguyễn Thị Hường viết về GDPT
ở tỉnh Thanh Hóa và Phạm Hồng Thiết viết về GDPT ở tỉnh Hưng Yên:
Năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Hường đã làm luận văn: “Đảng bộ tỉnh
Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954 - 1975”.
Luận văn đã trình bày nội dung về sự lãnh đạo, những chủ trương phát triển
GDPT của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa và quá trình thực hiện các chủ trương đó
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975). Về mặt tư liệu, luận văn
đóng vai trò là tài liệu tham khảo cho những công trình nghiên cứu về GDPT
trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
Năm 2009, tác giả Phạm Hồng Thiết đã làm luận văn:“Đảng Bộ tỉnh
Hưng Yên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo từ năm 1997 đến năm
2006”. Tương tự luận văn của Nguyễn Thị Hường. Luận văn của Phạm Hồng
Thiết cũng trình bày nội dung về sự lãnh đạo, những chủ trương phát triển
GDPT của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên. Luận văn là tài liệu tham khảo cho những
công trình nghiên cứu về GDPT ở địa phương.
2.3. Những công trình nghiên cứu về giáo dục Hưng Yên và sự lãnh
đạo của Đảng bộ Hưng Yên đối với giáo dục
Về vấn đề giáo dục và đào tạo ở Hưng Yên có một số bài viết, các công
trình nghiên cứu đề cập đến nhiều góc độ và lĩnh vực khác nhau như:
Năm 1963, trong danh mục “Tủ sách hai tốt” còn lưu cuốn sách “Các
trường phổ thông Hưng Yên lao động sản xuất ra của cải vật chất ngoài giờ
học” do Nxb Giáo dục in ấn. Nội dung cuốn sách nói về phong trào học tập ở
Hưng Yên, giáo dục luôn có sự kết hợp giữa nhà trường và xã hội, học tập với
lao động sản xuất, các giờ học luôn gắn với thực tế dễ nhớ, dễ hiểu nhất là các
bộ môn khoa học. Nhờ vậy, người học đã áp dụng những kiến thức đã học
8
vào thực tế trong việc bón phân, trồng màu, cấy lúa,.... Do đó, bên cạnh việc
học tập các trường phổ thông còn tạo ra được khối lượng của cải vật chất khá
lớn, đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng tiêu biểu qua phong trào này.
Năm 1995, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội phát hành cuốn sách Hải
Hưng lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975). Cuốn sách ghi
lại quá trình lãnh đạo, tổ chức điều hành kháng chiến trên địa bàn Hải Hưng,
trình bày có tính hệ thống những sự kiện điển hình, thể hiện bản chất tốt đẹp,
truyền thống cách mạng kiên cường và kinh nghiệm phong phú của Đảng bộ,
của quân và dân Hải Hưng trong chiến đấu bảo vệ và xây dựng quê hương,
góp phần xây dựng và bảo vệ miền Bắc, chi viện tiền tuyến giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, đó là công việc rất cần thiết và quan trọng trong
thời chiến, đã góp phần cho giáo dục có điều kiện phát triển.
Năm 1999, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Hưng Yên cho ra mắt bạn đọc
sách Các nhà khoa bảng Hưng Yên (1075 - 1919). Nội dung cuốn sách giúp
người đọc tìm hiểu những điều chủ yếu nhất về các nhà tri thức Nho học
Hưng Yên đã trúng tuyển trong các kỳ thi do triều đình tổ chức, cung cấp kiến
thức về chế độ khoa cử thời xưa trên mảnh đất Hưng Yên đồng thời cũng giúp
cho các dòng họ ở Hưng Yên và các vùng khác có liên quan làm cơ sở để tìm
hệ tộc của mình cũng như nghiên cứu về các dòng họ ở Việt Nam nói chung.
Cuốn sách là tư liệu tham khảo về lịch sử, văn hóa, con người Hưng Yên.
Năm 2003, Nxb Văn hóa Thông tin ban hành cuốn sách “Hưng Yên
những năm tháng chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội” của tác
giả Lâm Hải Ngọc, Nguyễn Văn Nhâm, Băng Sơn. Nội dung sách là tập hợp
những bài viết về kinh tế, văn hóa, xã hội cử Hưng Yên trong thời kì kháng
chiến chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), đó là bức tranh tổng
thể giúp người đọc hình dung ra cuộc sống của người dân Hưng Yên, trong
gian khổ vẫn hăng say lao động, học tập,...
9
Năm 2004, sách “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên”, tập II (1954 1975) do Nxb Chính trị quốc gia phát hành đã cung cấp thông tin về quá trình
Đảng bộ Hưng Yên quán triệt quan điểm, đường lối, chỉ thị của Đảng vào
điều kiện cụ thể của địa phương, vào việc lãnh đạo và thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, xã hội trong suốt hơn 20 năm từ năm 1954 đến năm 1975,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng bộ địa phương.
Năm 2006, Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Hưng Yên biên soạn cuốn sách
Lịch sử giáo dục Hưng Yên 1945 - 2005 do Công ty cổ phần SGK tại TP - Hà
Nội phát hành đã ghi lại tình hình phát triển giáo dục của tỉnh Hưng Yên
trong 60 năm từ năm 1945 đến năm 2005, nền giáo dục Hưng Yên có những
bước thăng trầm, phát triển ra sao đều được ghi và phản ánh lại. Tuy nhiên, do
nguồn tư liệu không đầy đủ, nên vẫn còn có những nội dung mà cuốn sách
chưa lột tả được.
Năm 2007, tác giả Dương Thị Cẩm đã ra mắt công trình Hưng Yên năm
tháng và sự kiện từ đầu công nguyên đến năm 2005. Cuốn sách dùng để tra
cứu các sự kiện diễn ra trên đất Hưng Yên từ đầu Công nguyên đến năm
2005, đây là tài liệu có mang tính biên niên, các sự kiện được trình bày theo
trình tự thời gian, điều này rất hữu ích cho việc nghiên cứu cũng như tổng hợp
các tư liệu liên quan đến một thời kỳ hay một giai đoạn nào đó…
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập về một
số khía cạnh về vấn đề giáo dục và đào tạo trên cả nước nói chung và ở các
địa phương nói riêng. Cho đến nay chưa có công trình lịch sử chuyên khảo
nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên thực hiện nhiệm
vụ phát triển GDPT những năm 1954 - 1967.
10
Các công trình nghiên cứu trên là cơ sở quan trọng để tác giả kế thừa,
tiếp cận các sự kiện lịch sử và cung cấp những gợi ý cần thiết để phân tích và
so sánh trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối với
GDPT; từ đó, đúc rút một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho hiện tại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày và làm rõ căn cứ xác định chủ trương về GDPT của Đảng
bộ tỉnh Hưng Yên và chủ trương của Đảng bộ tỉnh những năm 1954 - 1967.
- Phân tích, làm rõ biện pháp, giải pháp trong quá trình tổ chức thực
hiện những chủ trương về GDPT của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên những năm
1954 - 1967.
- Nêu lên những nhận xét về thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế
trong sự lãnh đạo của Đảng b ộ tỉnh Hưng Yên đối với GDPT; từ đó, rút ra
những kinh nghiệm cho hiện tại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những chủ trương, biện pháp, giải pháp của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển GDPT từ năm 1954 đến năm 1967 cũng
như thực tiễn phát triển GDPT của tỉnh Hưng Yên những năm 1954 - 1967.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung khoa học: Nghiên cứu vai trò, hoạt động của Đảng b ộ
tỉnh Hưng Yên trong quá trin
̀ h v ận dụng, quán triệt chủ trương về GDPT vào
điều kiện địa phương và sự chỉ đạo của Đảng bộ trong tổ chức thực hiện trên
các lĩnh vực chủ yếu như nâng cao chất lượng, phát triển giáo về quy mô, giáo
11
dục chính trị - tư tưởng, đảm bảo các điều kiện nâng cao chất lượng giáo
dục….đối với cả ba cấp học: Cấp I, cấp II và cấp III
- Về không gian: Trên phạm vi toàn tỉnh Hưng Yên.
- Về thời gian: Luận văn giới hạn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Hưng Yên từ năm 1954 (bắt đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước)
đến năm 1967 (thời điểm trước khi Đảng bộ tỉnh Hưng Yên hợp nhất với tỉnh
Hải Dương năm 1968).
5. Cơ sở lí luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lí luận: Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo nói chung, GDPT nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp lịch sử và phương pháp logic để khôi phục
lại quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo phát triển GDPT của tỉnh từ năm
1954 đến năm 1967. Ngoài ra, luận văn còn kết hợp các phương pháp khác như
phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh…
5.2. Nguồn tài liệu
- Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt
Nam; các Nghị quyết, các Chỉ thị của BCHTƯ Đảng CSVN về phát triển giáo
dục - đào tạo; các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Các văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hưng Yên; các Nghị
quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND)
tỉnh Hưng Yên; các báo cáo của Sở Giáo dục - Đào tạo Hưng Yên, Phòng
Giáo dục - Đào tạo các huyện, thị xã và một số trường phổ thông của tỉnh;
Niên giám thống kê tỉnh Hưng Yên; các bài báo, tạp chí, các luận văn, luận
án, các công trình nghiên cứu của các tập thể, cá nhân… có liên quan đến đề
tài; tài liệu khảo sát thực tế…
12
6. Đóng góp của luận văn
- Cung cấp nguồn tư liệu cơ bản về các chủ trương, biện pháp và sự chỉ
đạo của Đảng bộ Hưng Yên về phát triển GDPT từ năm 1954 đến năm 1967.
- Đánh giá khách quan về những kết quả, hạn chế của GDPT Hưng Yên
năm 1954 đến năm 1967.
- Nêu lên một số kinh nghiệm phục vụ cho công cuộc phát triển GDPT
của tỉnh Hưng Yên.
- Kết quả của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những nghiên
cứu về lịch sử Hưng Yên hoặc những nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương.
Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối
với giáo dục phổ thông từ năm 1954 đến năm 1960
Chương 2: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối với giáo dục
phổ thông từ năm 1961 đến năm 1967
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm
13
Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HƢNG YÊN
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1960
1.1. Căn cứ xác định chủ trƣơng và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh
1.1.1. Căn cứ xác định chủ trương
1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa
- lịch sử của tỉnh Hưng Yên
Tỉnh Hưng Yên nằm ở trung tâm Châu thổ Sông Hồng, được thành lập
từ năm 1831 dưới thời Minh Mạng. Dân cư ở Hưng Yên hầu hết là người
Kinh, số đông theo đạo Phật thờ cúng tổ tiên, một số ít theo đạo Thiên Chúa,
phân bố rải rác, không tập trung. Địa hình không có núi, đồi, nghiêng chênh
chếch từ tây bắc xuống đông nam với các vùng đất cao, thấp xen kẽ nhau.
Hưng Yên được bao bọc bởi sông Hồng và sông Luộc nên nguồn nước ngọt
rất dồi dào, nguồn nước mặt phong phú, có những túi nước ngầm với dung
tích lớn không chỉ cung cấp nước cho nhu cầu trong tỉnh mà còn có thể cung
cấp khối lượng lớn cho các khu vực lân cận. Giao thông thủy, bộ của Hưng
Yên rất thuận lợi… đó là tiềm năng lớn để Hưng Yên phát triển kinh tế, xã
hội của Tỉnh.
Hưng Yên cũng là một vùng đất có lịch sử lâu đời, ngay từ buổi đầu
lịch sử thời các vua Hùng dựng nước, vùng đất Hưng Yên đã có sự cư trú của
con người, là nơi phát hiện ra các di chỉ khảo cổ học, các di tích như mộ cũi ở
An Viên (huyện Tiên Lữ), mộ thuyền tại Đống Lương (huyện Kim Động),
cùng truyền thuyết về Chử Đồng Tử - Tiên Dung… Hưng Yên có đầy đủ
những mốc nổi tiếng đánh dấu các giai đoạn lớn của lịch sử.
Hưng Yên còn là mảnh đất có truyền thống văn hiến, nơi sản sinh ra
nhiều anh hùng hào kiệt, các nhà văn hóa lớn. Nhiều tên đất, tên làng đã đi
vào sử sách như: Đầm Dạ Trạch, Bãi Sậy, Hàm Tử Quan, Phố Hiến... Hưng
14
Yên là quê hương của nhiều nhà văn hóa, đại khoa, tướng tài của đất nước
như Lê Như Hổ, Chu Mạnh Trinh, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Đoàn
Thị Điểm, Hoàng Hoa Thám, Phạm Ngũ Lão... Thiên nhiên và văn hóa Hưng
Yên đều thấm đượm màu sắc lịch sử.
Cuối thế kỷ XIX, hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp.
Hưng Yên đã trở thành một trung tâm kháng chiến lớn với cuộc khởi nghĩa
Bãi Sậy. Nhiều sĩ phu yêu nước như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thiện
Dương, Nguyện Thiện Kế… đã đứng lên lãnh đạo nhân dân chống giặc.
Tháng 7/1941, Đảng bộ Đảng Cộng sản tỉnh Hưng Yên được thành
lập. Ngày 22/8/1945, nhân dân Hưng Yên đã nổi dậy khởi nghĩa phá tan
xiềng xích của chế độ thực dân, phong kiến. Cùng với nhân dân cả nước, nhân
dân Hưng Yên bước vào kỷ nguyên của độc lập và tự do.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Hưng Yên là
vùng đất tự do. Chính vì vậy, Hưng Yên là nơi có điều kiện để cung cấp sức
người, sức của đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến.
Tháng 7/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Hiệp định
Giơnevơ được ký kết. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Cùng với các
tỉnh miền Bắc, Hưng Yên bước vào thời kỳ mới: thời kỳ khôi phục, cải tạo và
xây dựng XHCN, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài dựng nước - giữ nước của dân tộc,
từ thế hệ này đến thế hệ khác, nhân dân Hưng Yên luôn thể hiện một sức
sống mãnh liệt, không ngừng vươn lên trong cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm, chống áp bức, cường quyền. Trong suốt cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ, nhân dân Hưng Yên đã xây đắp lên truyền thống, những đức tính quý
báu, trong đó có truyền thống hiếu học.
15
1.1.1.2. Giáo dục phổ thông của tỉnh Hưng Yên trước năm 1954
Trong 845 năm nền giáo dục và khoa cử phong kiến (1075 - 1919),
Hưng Yên khẳng định truyền thống hiếu học và khoa bảng tương đối rõ nét.
Một trong những đặc điểm nổi bật của truyền thống hiếu học và khoa
bảng của Hưng Yên là sự hình thành các gia đình, dòng họ khoa bảng. Việc
hình thành các gia đình và dòng họ khoa bảng tạo tiền đề cho sự hình thành
các làng khoa bảng. Các làng khoa bảng ở Hưng Yên là những ngôi sao sáng
trên bầu trời giáo dục Việt Nam thời quân chủ.
Cùng với gia đình, dòng họ, làng xã cũng tiếp sức cho các sĩ tử học
hành với các quy định khuyến học như miễn phu dịch, cấp ruộng “học điền”
[85, tr. 15], đón rước về làng và ban cho quyền lợi về ngôi thứ, ruộng đất sau
khi đỗ đạt. Song điều quyết định nhất là những người đi học đã nêu cao tinh
thần vượt khó khăn, kiên trì học tập.
Năm 1858, Pháp xâm lược Việt Nam. Pháp vẫn giữ nguyên nền giáo
dục phong kiến nho học được hình thành từ Trung ương đến các tỉnh, mãi đến
năm 1917, mới ban hành bộ luật đầu tiên về giáo dục. Nét nổi bật của giáo
dục Hưng Yên thời Pháp thuộc là sự hạn chế đối với nền giáo dục quốc dân.
Nhìn chung, giáo dục Hưng Yên trước cách mạng, dù có nhiều khởi sắc
dưới thời phong kiến chỉ là nền giáo dục của một bộ phận, của những cá nhân.
Phải từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, một nền giáo dục mới được xây
dựng trên cơ sở khơi dậy và phát huy truyền thống giáo dục vốn có cùng với
những yếu tố mới do cách mạng mang lại. Đó là nền giáo dục dân tộc - dân
chủ, nền giáo dục do dân, vì dân.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, cùng với cả nước, nhân
dân Hưng Yên hăng hái xông ra mặt trận diệt “giặc dốt”. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, phong trào Bình dân học vụ đã thực sự trở thành một phong trào
cách mạng của quần chúng nhân dân Chiến dịch chống nạn mù chữ được tiến
16
vào các ngõ xóm, mọi làng xã của tỉnh. Từ tháng 11/1945 đến tháng 12/1945,
Bình dân học vụ của tỉnh Hưng Yên đã động viên được hàng chục vạn người
đi học thuộc đủ đối tượng già trẻ, gái trai giàu nghèo không phân biệt tôn
giáo, nô nức đua nhau đi học. Hàng vạn người đua nhau dạy Bình dân học vụ,
tham gia bảo trợ viên Bình dân học vụ, giúp đỡ giấy bút, tiền của sức lực, cơ
sở vật chất cho phong trào Bình dân học vụ. Kết quả sau một năm, từ tháng
11/1945 đến tháng 11/1946 công tác Bình dân học vụ của tỉnh Hưng Yên đã
xóa mù chữ được 26.700 người [85, tr. 29].
Cùng với Bình dân học vụ, GDPT cũng được chú ý, các trường tiểu
học trong toàn tỉnh được ổn định. Ngành giáo dục phát lệnh chiêu sinh trở
lại để chuẩn bị cho năm học mới. Ngày 01/10/1945, các trường cả trường
quốc lập, dân lập, tư thục trong tỉnh cùng các trường trên toàn quốc khai
giảng năm 1945 - 1946.
Tại Hưng Yên sau nhiều tháng nhiều trường học phải đóng cửa, Cách
mạng tháng Tám thành công, học sinh lại được cắp sách tới trường đem lại
một niềm vui lớn cho toàn dân.
Năm học mới chưa có chương trình nên dạy theo chương trình thời đó
gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn - có điều chỉnh theo hướng dân tộc khoa học - đại chúng. Chương trình Hoàng Xuân Hãn được áp dụng cho tất cả
các trường ở vùng kháng chiến cho mãi đến năm 1950 cải cách giáo dục lần
thứ nhất mới có chương trình mới.
Thực hiện chủ trương của tỉnh, mỗi làng mở từ 1 đến 3 lớp ở bậc tiểu
học. Mỗi xã mở một trường tiểu học hoàn chỉnh (lớp năm, lớp tư, lớp ba, lớp
nhì, lớp nhất). Tại huyện lỵ, trường tiểu học thời Pháp vẫn được duy trì.
Như vậy, thời thuộc Pháp mỗi huyện chỉ có một trường tiểu học. Sau
Cách mạng tháng Tám mỗi xã có một trường tiểu học, tăng gấp 15 lần.
17
Trước Cách mạng tháng Tám, Hưng Yên chưa có một trường trung học
nào. Đầu năm 1945, Trường Cao đẳng tiểu học Đỗ Hữu Vị ở Hà Nội và
Trường Nữ sinh Đồng Khánh cũng ở Hà Nội sơ tán về thị xã Hưng Yên. Cách
mạng tháng Tám thành công hai trường này tiếp tục ở lại thị xã Hưng Yên.
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ,
giáo dục phải chuyển hướng vào thời chiến, các trường lớp phải tản cư về
nông thôn, vào vùng sâu, tiếp tục hoạt động với nhiều hình thức tổ chức đáp
ứng yêu cầu cuộc kháng chiến, kiến quốc. Từ đó các cơ quan quản lí giáo dục
ở tỉnh, ở huyện, các trường học ở thị xã, thị trấn sơ tán về nông thôn, vùng
căn cứ. Chính trong quá trình chiến đấu gian khổ và ác liệt đó, công tác giáo
dục đã không ngừng phát triển, phục vụ kịp thời và đắc lực cho nhu cầu ngày
càng cao của kháng chiến.
Đến cuối năm 1946 quân Pháp đánh chiếm một số khu vực phía Bắc
Hưng Yên, các trường học trong vùng này bị gián đoạn, học sinh theo cha mẹ
đi tản cư, sự nghiệp giáo dục của tỉnh gặp nhiều khó khăn.
Ngày 20/12/1946, thực hiện chỉ đạo của cấp trên, thị xã Hưng Yên thực
hiện lệnh tiêu thổ kháng chiến. Ngày 22/12/1946 hai trường cao đẳng Tiểu
học Đỗ Hữu Vi và Trường Nữ sinh Đồng Khánh đóng cửa. Đến tháng 4/1947
tản cư về đóng tại Đan Tràng và Bình Lăng, Thổ Cầu (Nam Ân Thi). Trường
Cao đẳng tiểu học đổi tên là trường Trung học Nguyễn Thiện Thuật. Đây là
trường trung học công lập đầu tiên của tỉnh. Việc thành lập trường trung học
đầu tiên có ý nghĩa lớn lao. Trường trung học là nền tảng của sự phát triển
giáo dục sau này. Năm học đầu tiên có 2 lớp đệ nhất, 7 thầy cô với 100 học
sinh. Chương trình giảng dạy cho học sinh dựa theo chương trình của Pháp do
giáo viên tự biên dịch. Vở viết là giấy cũ ngâm nước vôi phơi khô dùng lại.
Năm học 1947 - 1948, trường đã có 2 lớp đệ nhất, 2 lớp đệ nhị với 198 học
sinh và 10 thầy, cô [85, tr. 35]. Năm học 1948 - 1949 trường đã có 3 lớp đệ
18