Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

đảng bộ tỉnh thanh hóa lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.23 KB, 144 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
Lấ THỊ YẾN
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HểA LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 602256
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC
HÀ NỘI - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, chính
xác, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2012
Tác giả luận văn
LÊ THỊ YẾN
MỤC LỤC
HÀ NỘI - 2012 1
LỜI CAM ĐOAN 2
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học
của PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc 2
Các số liệu trong luận văn là trung thực, chính xác, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng 2
Hà Nội, ngày tháng năm 2012 2
Tác giả luận văn 2
LÊ THỊ YẾN 2
MỞ ĐẦU 4
1. Lí do chọn đề tài 4


1
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH Chủ nghĩa xã hội
GDPT Giáo dục phổ thông
NQTW Nghị quyết Trung ương
Nxb Nhà xuất bản
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục là một lĩnh vực mà từ xưa đến nay, bất kể quốc gia, dân tộc
và chế độ nào muốn tồn tại và đi lên đều phải chăm lo phát triển. Khi sáng lập
ra học thuyết của mỡnh, cỏc nhà kinh điển Mỏc - Lờnin nhấn mạnh: “Tương
lai của cả loài người phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ giai cấp công nhân
đang lớn lờn” [87, tr.15]. Từ ngàn xưa, cha ông ta cũng đã có nhiều chính
sách đãi ngộ nhân tài, trọng dụng những người có học thức trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Kế thừa những tư tưởng đó, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [57, tr.36]. Người coi giáo dục là
chỡa khoỏ để xây dựng, giữ vững nền độc lập và đưa đất nước phát triển.
GDPT là nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, nó đặt những cơ sở
ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện về học vấn, đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con
người. GDPT cũng là tiền đề cho học sinh tiếp tục học lên những bậc cao hơn
như: trung cấp, cao đẳng, đại học hoặc đi vào cuộc sống,…
Bước sang thế kỉ XXI, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ
và trở thành một yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất. Sự hội nhập kinh tế
thế giới đòi hỏi trình độ ngày càng cao của các quốc gia. Kinh tế tri thức ra
đời, hàm lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm ngày càng tăng. Hiện nay, Việt

Nam cũng đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức. Thực tế trên, đòi hỏi phải có một sự đổi mới thực sự trong tư duy
về giáo dục nhằm đào taọ ra một thế hệ công dân đáp ứng những yêu cầu của
đất nước và thời đại mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm xác định: Giáo dục là quốc sách hàng
đầu và là động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.Tại Hội nghị lần
4
thứ hai Ban Chấp hành Trung ương VIII (1996), Đảng đã đưa ra định hướng
Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nói chung và GDPT nói riêng trong
thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Thực sự coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đến Đại hội IX (2001), Đại hội X (2006), Đảng tiếp tục
nhấn mạnh: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; thực hiện đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra
theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đại hội XI của
Đảng (1/2011), tiếp tục hoàn thiện: Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa
và hội nhập quốc tế”.
Thanh Hóa là mảnh đất giàu truyền thống hiếu học và chăm lo đào tạo
con người. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về đường lối đổi mới, đẩy mạnh
phát triển GDPT thời kì CNH, HĐH đất nước, Đảng bộ tỉnh Thanh Húa đó
kịp thời đề ra những chủ trương, chính sách nhằm hiện thực húa cỏc chủ
trương của Đảng. Nhờ vậy, trong những năm qua GDPT ở Thanh Húa đó cú
những bước phát triển đáng kể, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương. Tuy nhiên, GDPT ở Thanh Hóa còn tồn tại không ít
khó khăn, yếu kém. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới GDPT ở Thanh Hóa càng có ý
nghĩa chiến lược khi:
Thanh Hóa là một tỉnh lớn với đủ các loại địa hình: miền núi, đồng
bằng, ven biển, dân số đông, nhiều dân tộc, trình độ dân trí không đều. Tỉnh
có đường Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh chạy qua và vì thế tỉnh có vai
trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành khu vực kinh tế miền Trung và

trục kinh tế Bắc - Nam. Tuy nhiên, GDPT chưa phát triển tương xứng với
tiềm năng của tỉnh. Thanh Hóa có nhiều thế mạnh về kinh tế. Ở đây đã có
nhiều khu công nghiệp, hải cảng trong đó đặc biệt có cảng nước sâu và khu
kinh tế Nghi Sơn. Sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đòi hỏi phải có
5
nguồn lao động có kiến thức và kĩ thuật cao. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh sự
nghiệp GDPT để tạo nền tảng vững chắc cho việc đào tạo nhân lực.
Việc tổng kết 15 năm Đảng bộ địa phương lãnh đạo phát triển GDPT, rút
ra những kinh nghiệm cho thời gian tới và làm phong phú thêm kho tư liệu
giảng dạy về lịch sử địa phương cũng là một việc làm cần thiết.
Vì những lí do trên, tác giả đã chọn vấn đề: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010 làm đề tài
luận văn Th.s lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục nói chung, GDPT nói riêng là nội dung quan trọng, quyết định
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì vậy, đây là đề tài nhận
được sự quan tâm của nhiều cấp lãnh đạo, nhiều nhà quản lí, nhà khoa học, nhà
giáo và của nhiều tác giả. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ
khác nhau về vấn đề này. Có thể nêu ra một số tác giả với những công trình
tiêu biểu liên quan đến đề tài này như sau:
Đầu tiên là cuốn "Bàn về công tác giáo dục" của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1972. Sinh thời Người luôn chăm lo đến sự
nghiệp "trồng người". Người thường nói muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Trong cuốn sách này, Bỏc đó
nêu bật vai trò cực kỳ quan trọng của công tác giáo dục, đặc biệt tác phẩm
đã khái quát, phản ánh sự cần thiết của một nền giáo dục mới dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng đó cú cỏc tác phẩm, bài
viết về giáo dục và đào tạo như:
Cuốn "Về vấn đề giáo dục - đào tạo" của đồng chí Phạm Văn Đồng

được Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản 1999. Một lần nữa vai trò của
giáo dục và đào tạo được tiếp tục khẳng định và để sự nghiệp giáo dục phát
6
triển mạnh mẽ cần có sự nhận thức đúng đắn, sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân
và có được những chính sách hữu hiệu nhất.
Bài viết "Phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước" của đồng chí Đỗ Mười - đăng trên tạp chí
nghiên cứu giáo dục (tháng 1/1996) cũng đã khẳng định: muốn đưa sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước nhanh chóng đến thắng lợi thì dứt khoát phải phát
triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Bài phát biểu với Bộ Giáo dục và đào tạo về "chuẩn bị nguồn lực con
người" của Đồng chí Lê Khả Phiêu. Nội dung bài viết khẳng định: Sẽ không thể
xây dựng được một đất nước văn minh giàu mạnh nếu mọi người dân không
được trang bị về trình độ văn hóa và khoa học kỹ thuật tiên tiến, Tất cả các bài
viết đó đều thể hiện được vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết của việc đẩy
mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo; đồng thời cũng từ sự phát triển của giáo
dục đào tạo sẽ là động lực để thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Cuốn “Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam” của tác
giả Lê Văn Giạng do Nxb. Chính trị Quốc gia phát hành năm 2003, trong đó có
dành một phần nhỏ mô tả hoạt động nền giáo dục của nước Việt Nam thống nhất
và chủ nghĩa xã hội (từ năm 1975 đến năm 2000). Tuy nhiên tác giả cũng mới
chỉ trình bày một cách khái quát nhất có thể của nền giáo dục Việt Nam nói
chung, GDPT nói riêng giai đoạn này được đề cập đến một cách sơ sài.
Cuốn “Lịch sử giáo dục Việt Nam” do Bùi Minh Hiền biên soạn được
Nxb Đại học sư phạm phát hành năm 2004. Đây là giáo trình viết sơ lược về
lịch sử giáo dục Việt Nam, trong đó có dành hai chương viết về giáo dục Việt
Nam hai giai đoạn 1975 - 1986 và 1986 đến nay (năm 2004). Cuốn sách
không dành viết riêng về GDPT, nhưng qua việc trình bày những chính sách,
những tổng kết tình hình giáo dục Việt Nam nói chung, ta có thể chọn lọc ra
những phần liên quan đến GDPT.

7
Ngoài ra cũn cú cỏc công trình định hướng về giáo dục và đào tạo như:
"Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI" của GS.TS Phạm Minh
Hạc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách này đã trình bày tính
chất của nền giáo dục, nguyên lý, nội dung, hệ thống giáo dục nước ta qua các
giai đoạn lịch sử; phân tích mối quan hệ giữa giáo dục và phát triển nguồn lực,
các nguồn lực phát triển giáo dục và phương hướng phát triển giáo dục trong
thời gian tới. Cũng bàn về giáo dục, cuốn sách "Nhân tố mới về giáo dục và đào
tạo trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH " do GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 cũng đã nêu bật được những chuyển biến
tích cực về chất lượng dạy và học; có được những kết quả này là do sự cải tiến
về phương pháp của cả thầy lẫn trò, phong trào học tập trong nhân dân được đẩy
mạnh. Từ đó xuất hiện những nhân tố mới, những kinh nghiệm hay để góp phần
thực hiện thắng lợi đường lối giáo dục và đào tạo của Đảng.
Có thể đề cập đến một số công trình nghiên cứu về giáo dục trên bình
diện chung có liên quan đến đề tài như: “Nhà trường phổ thông Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử” của Viện Khoa học giáo dục do Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2001; “35 năm phát triển sự nghiệp GDPT” do Võ Thuần Nho chủ
biên, Nxb. Giáo dục, 1980; “Đổi mới nâng cao vai trò, trách nhiệm, đạo đức
của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế Việt Nam hội
nhập quốc tế” của nhiều tác giả, Nxb. Lao động, 2006;
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương đối với GDPT,
có một số công trình như: Ngô Thị Thu Hà (2009), Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh
lãnh đạo phát triển GDPT từ năm 1996 đến năm 2006, Luận văn Th.s lịch sử,
ĐHQGHN; Nguyễn Thị Quế Liên: Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo sự nghiệp
GDPT từ năm 1986 đến năm 2005”, Luận văn Th.S ĐHQGHN năm 2007
Tại Thanh Húa đó có công trình: Đảng bộ Thanh Hóa lãnh đạo sự
nghiệp GDPT từ 1954 đến 1975 (2009) của Nguyễn Thị Hường, Luận văn
8
Th.s lịch sử, ĐHQGHN. Tuy vậy, đề tài này mới chỉ tập trung vào hệ thống

giáo dục phổ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ 1954 - 1975.
Nhìn một cách tổng quát các công trình trên giúp ích rất lớn cho việc
nghiên cứu và tìm hiểu về giáo dục và GDPT. Tuy nhiên, cho đến nay chưa
có công trình nào nghiên cứu về quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh
đạo phát triển GDPT trong những năm tiến hành đẩy mạnh CNH, HĐH. Vì
vậy tác giả tập trung nghiên cứu đề tài như đã xác định nhằm góp phần bổ
sung vào khoảng trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những chủ trương, chính sách và sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về phát triển GDPT thời kì từ năm 1996 đến
năm 2010, làm nổi bật những thành công, hạn chế và rút ra những kinh
nghiệm để phục vụ cho quá trình tiếp tục phát triển sự nghiệp GDPT của tỉnh.
- Nhiệm vụ:
- Phõn tớch các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã
hội, những thuận lợi và khó khăn tác động đến việc thực hiện đường lối đổi
mới sự nghiệp GDPT ở tỉnh Thanh Hóa.
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục đào
tạo, GDPT và đề ra các chủ trương, chính sách cũng như chỉ đạo thực hiện
phát triển GDPT trên địa bàn tỉnh từ năm 1996 đến năm 2010.
- Làm nổi bật những thành tựu cơ bản và những hạn chế trong quá trình
Đảng bộ Thanh Hóa lãnh đạo phát triển GDPT từ năm 1996 đến năm 2010.
- Rút ra những kinh nghiệm thực tiễn trong lãnh đạo phát triển GDPT ở địa
phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
9
- Đối tượng nghiên cứu là những chủ trương, chính sách phát triển
GDPT của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa từ năm 1996 đến năm 2010.
- Phạm vi ngiờn cứu:

+Về nội dung: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
về GDPT.
+ Về không gian: Nghiờn cứu ở địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
+ Về thời gian: Từ năm 1996 đến 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trờn cơ sở quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lờnin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận văn chủ
yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp thống kê,
tổng hợp, so sánh kết hợp với khảo sát…
6. Đóng góp của luận văn
- Đóng góp về mặt khoa học: Hệ thống hóa được những chủ trương,
chính sách của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về việc thực hiện đổi mới GDPT từ
năm 1996 đến năm 2010. Từ những thành công và hạn chế tồn tại rút ra kinh
nghiệm và chỉ ra phương hướng để vận dụng cho giai đoạn sau.
- Đóng góp về mặt tư liệu: Bổ sung thêm nguồn tài liệu về lịch sử địa
phương của tỉnh Thanh Hóa.
- Đóng góp về mặt phương pháp nghiên cứu: Góp phần vào việc sử
dụng phương pháp tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ lí luận, đường lối quan
điểm của Đảng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 6 tiết.
Chương 1: Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa (1996 - 2000)
Chương 2: Đẩy mạnh phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa
(2001 - 2010)
10
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm
NỘI DUNG
Chương 1
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH THANH HểA

(1996 – 2000)
1.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH THANH HểA VÀ TÌNH HÌNH
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRƯỚC NĂM 1996
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
Thanh Hoá là tỉnh nằm ở cực Bắc miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150
km về phía Nam. Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình;
phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào với 192 km đường biên giới; phía Đông là Vịnh Bắc
Bộ. Địa hình của Thanh Hóa đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3
vùng rõ rệt: vùng núi trung du, vùng đồng bằng và vùng ven biển.
Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế
Trung Bộ. Tỉnh nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, có hệ
thống giao thông thuận lợi như: đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh,
các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; có cảng biển nước sâu Nghi Sơn, có hệ thống
sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam và đi quốc tế. Hiện tại, Thanh
Húa cú sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay quốc tế sát biển
phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch.
11
Thanh Hoá thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với 4 mùa rõ rệt.
Tài nguyên thiên nhiên của Thanh Hóa đa dạng, phong phú: là một
trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích có rừng là 484.246
ha.Tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng có 296 mỏ và điểm khoáng
sản với 42 loại khác nhau. Sông suối Thanh Hoá chảy qua nhiều vùng địa
hình phức tạp, là tiềm năng lớn cho nhiều lĩnh vực nhất là cho phát triển thủy
điện. Nước ngầm ở Thanh Hoá cũng rất phong phú về trữ lượng và chủng loại
bởi vì có đầy đủ các loại đất đá trầm tích, mắc ma và phun trào. Tỉnh có 102
km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với nhiều bãi cá, bói tụm cú
trữ lượng lớn.
Thanh Hóa là một tỉnh có nhiều tiềm năng du lịch. Ở đây có nhiều danh

lam, thắng cảnh nổi tiếng. Ở phía Đông có bãi biển Sầm Sơn, Hải Tiến, Hải
Hoà. Vùng Tây Nam của tỉnh có rừng quốc gia Bến En với hệ động thực vật
phong phú đang được UNESCO khảo sát để công nhận là di sản thiên nhiên
thế giới. Vùng Tây Bắc cú cỏc khu bảo tồn thiên nhiên Pự Hu, Pự Luụng,
Xuân Liên, là những khu rừng đặc dụng, nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien
động, thực vật quớ hiếm. Đây là các điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách ở
khắp mọi nơi.
Thanh Hóa là một tỉnh có dân số đông (đứng thứ 3 sau Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội). Tính đến năm 2010, Thanh Hoỏ cú hơn 3,4 triệu người. Dân
số đụng nờn nguồn lao động của tỉnh rất dồi dào và tương đối trẻ.
Trên địa bàn tỉnh có 7 dân tộc anh em sinh sống, đó là: Kinh, Mường,
Thỏi, H'mụng, Dao, Thổ, Hoa. Người Kinh sinh sống chủ yếu ở vùng đồng
bằng. Các dân tộc ít người sống chủ yếu ở các huyện vùng núi cao và biên giới.
So với các tỉnh khỏc thỡ dân số Thanh Hóa theo các tôn giáo không
đông: Phật giáo: khoảng 20.000 tín đồ, Công giáo: khoảng 139.170 tín đồ, Tin
lành: khoảng 186 tín đồ, Cao đài: khoảng 100 tín đồ. Còn lại các đồng bào
12
thiểu số thì theo tín ngưỡng của dân tộc mình. Mặc dù dân số đông và đa dạng
về dân tộc nhưng Thanh Hóa rất ổn định về chính trị - xã hội.
Trình độ dân trí của tỉnh tương đối cao. Đến nay, tỉnh đã hoàn thành phổ
cập giáo dục ở cả tiểu học, THCS và đang tiến hành phổ cập THPT. Số học
sinh phổ thông năm học 2009-2010 là 587899 em, số giáo viên toàn tỉnh là
43178 người. Số thầy thuốc có 5.300 người, bình quân y, bác sĩ trên 1 vạn dân
là 11,8 người.
Tỉnh có 27 đơn vị hành chớnh gồm một thành phố (Thanh Hóa), hai thị
xã (Bỉm Sơn, Sầm Sơn) và 24 huyện lị, trong đó có 11 huyện miền núi.
Kinh tế của tỉnh trong những năm gần đây liên tục tăng trưởng ở mức khá
cao, giai đoạn 2006 - 2010 là 11,3%. GDP theo giá so sánh năm 2010 gấp 1,7
lần 2005. GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 810 USD. Cơ cấu kinh tế
của tỉnh chuyển dịch theo đúng hướng nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Từ

năm 2005 đến 2010: tỉ trọng nông nghiệp đã giảm từ 32,3% xuống còn 21,5%; tỉ
trọng ngành công nghiệp - xây dựng đã tăng từ 34,6% lên 44,1%; tỉ trọng các
ngành dịch vụ tăng từ 33,1% lên 34,4%. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng
ngành kinh tế cũng có sự tiến bộ ngày càng phù hợp với tiềm năng kinh tế địa
phương. Nhưng nhìn chung Thanh Hóa vẫn là một tỉnh nghèo. Năm 2008, cả
nước có 62 huyện nghốo thỡ Thanh Hoỏ cú 7 huyện, bình quân thu nhập
GDP/người năm so với cả nước vẫn còn rất thấp (năm 2009 là: 720
USD/1.200 USD) [1, tr.10]
1.1.2. Truyền thống văn hóa - lịch sử
Trước thời Hán, Thanh Hoá thuộc quận Cửu Chân sau thuộc Giao Chỉ rồi
thành Ái Châu. Thời Lý, vùng đất này đổi thành phủ Thanh Hoá. Sau này, trải
qua các triều đại, cú lỳc Thanh Hoá được gọi là phủ, trấn, lộ, trại, thừa tuyên. Cái
tên Thanh Húa cú từ thời Lý cũng cú lỳc đổi thành Thanh Đụ, Tõy Đụ, Thanh
13
Hoa. Năm Thiệu Trị thứ nhất, chính thức đổi tên thành tỉnh Thanh Hoá và tồn tại
tới ngày nay.
Thanh Hoá là một vùng đất lịch sử lâu đời. Có lẽ hiếm có vùng đất nào
lại có đầy đủ những mốc nổi tiếng đánh dấu các giai đoạn lớn của lịch sử, từ
tối cổ đến ngày nay như Thanh Hóa. Di chỉ Núi Đọ phát hiện năm 1960 ở
huyện Thiệu Hoá, là cái mốc tối cổ, nơi tìm được dấu tích con người thuộc
thời đại sơ kỳ đá cũ đã khẳng định Thanh Hóa là nơi sinh sống của người
nguyên thuỷ. Di chỉ hang Con Moong phát hiện ở Thạch Thành, chứa đựng
các dấu vết khảo cổ học từ văn hoá Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ) ở lớp dưới, trên đó
là các lớp văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn cho thấy con người đã tiếp tục sinh
sống ở đây suốt từ hậu kỳ đá cũ qua sơ kỳ và trung kỳ đá mới. Văn hoá khảo
cổ Đa Bút ở lưu vực sông Mã là một phát hiện quan trọng của giới khảo cổ
học, vì Đa Bút là sự phát triển nối tiếp của văn hoá Hòa Bình - Bắc Sơn trong
quá trình chinh phục đồng bằng ven biển Thanh Hoá thời đá mới, cách ngày
nay khoảng trên dưới 6000 năm. Văn hóa Hoa Lộc là văn hoá khảo cổ thuộc
sơ kỳ thời đại kim khí, phát hiện ở huyện Hậu Lộc, phân bố chủ yếu ở vùng

ven biển, có niên đại khoảng 4000 năm. Đông Sơn là văn hoá thời đại kim khí
(đồ đồng, sơ kỳ sắt), phát hiện lần đầu tiên năm 1924 tại làng Đông Sơn,
huyện Đông Sơn, Thanh Hoá. Hiện vật tiêu biểu của văn hoỏ Đụng Sơn là
trống đồng cũng tìm thấy nhiều ở đây với các kiểu dạng khác nhau. Đây là
giai đoạn phát triển rực rỡ của văn minh lúa nước trên cơ sở phát triển nông
nghiệp ruộng đồng, kỹ thuật đúc đồng, rèn sắt.
Như vậy, Thanh Hoá cùng với đồng bằng châu thổ Bắc Bộ là cái nôi
hình thành dân tộc Việt Nam, quốc gia Việt Nam và nền văn hoá Việt Nam.
Thanh Hóa còn là vùng địa linh nhân kiệt. Suốt nghìn năm đất nước bị
đô hộ, Thanh Hóa là vùng đất đã anh dũng, quật cường chống lại ách đô hộ
phương Bắc trong đó tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Bà Triệu năm 248. Năm 981
14
Lê Hoàn đại phá quân Tống bảo vệ nền độc lập từ sau chiến thắng của Ngô
Quyền năm 938. Quê hương này đã sản sinh ra nhiều các bậc đế vương sáng
nghiệp gắn với những mốc son quan trọng của lịch sử dân tộc. Hồ Quý Ly có
gốc tích từ Nghệ An, tuy nhiên đến đời thứ 4 tính từ Hồ Quý Ly trở lên, tổ
tiên đã chuyển về Thanh Hoá. Khi Vương triều Trần đã trở nên suy tàn, ông
tiến hành cải cách, lật đổ nhà Trần lập ra vương triều mới: Triều Hồ năm
1400. Ông cho xây dựng kinh đô mới An Tôn tức Tõy Đụ, (dân gian gọi là
thành Nhà Hồ thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hoá). Dưới ách đô hộ hà khắc của nhà
Minh, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở mảnh đất Lam Sơn (1418 - 1427) chiêu
mộ danh tài để đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi sáng lập ra triều Hậu
Lê. Đây là một triều đại phong kiến lớn và rực rỡ nhất của chế độ quân chủ
Việt Nam. Vương triều cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, tuy không xây
dựng trờn chớnh mảnh đất Xứ Thanh, nhưng những người sáng nghiệp lại có
gốc rễ từ đây, đó là nhà Nguyễn. Người khởi nghiệp cỏc Chỳa Nguyễn Đàng
Trong là Nguyễn Hoàng quê ở huyện Hà Trung, Thanh Hoá. Nguyễn Hoàng
và những người kế nghiệp, như Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phỳc Khoỏt ,
một mặt đối địch với Chúa Trịnh ở Đàng ngoài, mặt khác, tăng cường mở
rộng lãnh thổ, khai phá vào phía nam, tạo nên giang sơn riêng. Sau này,

Nguyễn Ánh khi đánh bại Tây Sơn, khôi phục vương triều dòng họ Nguyễn
thì vẫn coi Thanh Hoá là đất tổ của mình.
Mảnh đất này cũng là quê hương của những danh nhân tiêu biểu như
Khương Công Phụ, Lê Văn Hưu, Lờ Thỏnh Tụng,
Khi Thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858), nhân dân Thanh Húa đó
hưởng ứng phong trào Cần Vương làm lên khởi nghĩa Ba Đình. Tuy thất bại
và phải tiếp tục chịu ách đô hộ nhưng với tinh thần quật cường, người dân
Thanh Húa đó đứng lên dưới lá cờ vinh quang của Đảng, đấu tranh giành
chính quyền góp phần làm nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
15
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân địa
phương lại tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng.
Nhiều nơi ở Thanh Hóa trở thành căn cứ kháng chiến. Biết bao thế hệ người
dân xứ Thanh đã anh dũng ra chiến trường chiến đấu để bảo vệ đất nước. Tại
địa phương, nhân dân Thanh Hóa không kể già trẻ gái trai đã kiên cường
chiến đấu bảo vệ cây cầu Hàm Rồng - huyết mạch giao thông bảo đảm cho sự
chi viện của hậu phương miền Bắc tới tiền tuyến miền Nam. Ngày nay, người
dân Thanh Hóa tiếp tục hăng say xây dựng quê hương, phấn đấu đưa Thanh
Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu như Bác Hồ hằng mong đợi.
Tính đến nay, cả tỉnh có 1.535 di tích lịch sử, trong đó có 134 di tích
được xếp hạng quốc gia, 412 di tích đã xếp hạng cấp tỉnh với các di tích nổi
tiếng như Núi Đọ, Đông Sơn, khu di tích Bà Triệu, Lê Hoàn, thành Nhà Hồ,
Lam Kinh, Ba Đình, Hàm Rồng, Trong đó thành nhà Hồ đã được UNESCO
công nhận là Di sản văn hoá thế giới. Cùng với những danh lam, thắng cảnh
tự nhiên đây là những địa điểm thu hút khách du lịch.
Thanh Hóa nổi tiếng hiếu học từ xưa. Đây là quê hương của hàng ngàn
tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa. Suốt hai triều Lê, Nguyễn, Thanh Húa cú 1690
cử nhân, 3 Trạng nguyên, 7 Bảng nhãn, 6 Thám hoa, 7 nhất giáp chế khoa
[81,tr.12].
Từ rất sớm, một số địa phương ở Thanh Húa đó cú truyền thống dựng

bia hoặc lập văn chỉ ở các làng, các huyện. Bia và văn chỉ dùng để ghi những
thành tích học tập, những kết quả khoa bảng của riêng địa phương ấy. Điển
hình như: Xã Thịnh Mỹ huyện Thọ Xuân, văn bia ghi lại xó cú đến 40 người
đỗ khoa bảng. Huyện Đông Sơn có tấm bia gọi là Đông Sơn bia huyện với
446 vị, có 1 trạng nguyên 1 bảng nhãn, 2 thám hoa và 6 hoàng giáp [81, tr.2].
Tiêu biểu cho đất học Thanh Hóa là xã Hoằng Lộc - Hoằng Hóa. Hoằng Lộc
gắn liền với nhiều tên gọi như: “đất hiếu học” “đất Trạng Quỳnh”. Theo các
16
bậc tuổi cao và sử sách ghi lại, từ thế kỷ XV, Hoằng Lộc đó cú truyền thống
hiếu học với vị khai khoa là ông Nguyễn Nhân Lễ - đỗ tiến sĩ khoa Tân Sửu
Hồng Đức thứ 12 (1481). Nền học vấn của xã phát triển gần 5 thế kỷ tiếp theo
(XV-XIX). Qua các thời kì dưới triều phong kiến, Hoằng Lộc có 12 vị đậu đại
khoa, trong đó có 7 tiến sĩ được ghi danh trên bia đá tại Văn miếu Quốc Tử
Giám cùng gần 200 hương cống, cử nhân, 140 người đỗ sinh đồ, tú tài. Hiện
xó cú 8 giáo sư, phó giáo sư, 40 tiến sĩ, 30 thạc sĩ, trên 600 cử nhân.
Cùng với những người dạt học vị cao trên đây, có rất nhiều vị tiến sĩ, cử
nhân và tú tài, hoặc không có học vị gì, nhưng họ là những học giả xuất sắc, có
công trình hay tác phẩm lưu lại cho đời sai. Rất nhiều người là người mở đầu
hay tiêu biểu cho những môn khoa học trong nền học thuật của cả nước. Lê
Văn Hưu là nhà sử học với những công trình lịch sử lớn, Hồ Quý Ly là người
có quan điểm riêng trong nhận thức về Nho giáo, Lương Đắc Bằng là nhà lý
học. Đào Duy Từ vừa là nhà quân sự vừa là nhà nghệ thuật, Nguyễn Hữu Hào
mở đầu cho dòng truyện Nôm ở Việt Nam, Nguyễn Thu, Ngô Cao Lãng là
những nhà nghiên cứu dày công, có nhiều tác phẩm đồ sộ về cả sử học, địa lý.
Vịệc tôn trọng sự học thấm sâu trong phong tục làng quê. Những người
đỗ đạt hoặc có học hành nhất định đều được tôn trọng, được làng xã xem là
hạng tư văn, quan viên, đựơc những quyền lợi và những vị thứ cao, thường là
trên cả chức sắc hào mục.
Những năm đất nước ta chịu sự thống trị của Thực dân Phỏp,Toàn
quyền Méc - lanh tuyên bố: Chỉ cung cấp cho nhân dân Việt Nam một sự giáo

dục nhỏ giọt, phát triển theo chiều nằm chứ không theo chiều đứng. Ước tính
trung bình 29.329 người dân mới có 1 trường. Thanh Hóa cũng phải chịu tiếp
nhận chính sách ấy một cách cụ thể nhất như tình hình chung cả nước. Nhưng
theo số liệu điều tra của bác sĩ Paul Chesneau năm 1983 ở một vài nơi thuộc
17
tỉnh Thanh Húa thỡ ụng cho rằng giáo dục như làng quê của tỉnh này là rất ít
ỏi và điển hình cho Trung kỳ [81, tr.2-3].
Từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa nêu trên
có thể thấy: Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh là rất cao. Sự phát triển kinh tế ngày càng cao cộng với thế
mạnh truyền thống hiếu học là một trong những điều kiện hết sức thuận lợi
trong việc thực hiện chính sách phát triển giáo dục của Đảng nhằm phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy vậy, sự đa dạng về điều kiện tự nhiên dẫn
đến sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế của cỏc vựng miền, diện tích
rộng, dân số đông, nhu cầu đầu tư cho giáo dục cao trong khi ngân sách được
cấp không cao hơn các tỉnh khác. Vì vậy, đây cũng là một khó khăn không
nhỏ trong quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo thực hiện chính sách
phát triển GDPT.
1.1.3. Thực trạng giáo dục phổ thông ở Thanh Hóa trước 1996
Kể từ Cách mạng thỏng Tám 1945, nền giỏo dục và đào tạo Thanh Hóa
thực sự trở thành nền giáo dục do dõn, vỡ dõn. Tháng 9/1945, Thanh Hóa
thành lập Ty thanh tra tiểu học, thành lập Nha Bình dân học vụ. Các quận,
huyện, xã, thôn, đều lập Ban Bình dân học vụ. Đến cuối tháng 9/1945, các
trường tiểu học trong toàn tỉnh đã đi vào ổn định và phát lệnh chiêu sinh trở
lại để chuẩn bị cho năm học mới. Ngày 20/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh
lần đầu tiên vào thăm Thanh Hóa. Người đã thay mặt Chính phủ trao tặng
Thanh Hóa 10 vạn đồng để làm quỹ phát triển Bình dân học vụ [8, tr.623].
Nhờ sự quyết tâm, nỗ lực, giáo dục Thanh Húa đó cú những tiến bộ
đáng kể. Xã Vĩnh Khang - Vĩnh Lộc của tỉnh dẫn đầu phong trào thanh toán
nạn mù chữ toàn miền Bắc được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao

động hạng Hai. Đến ngày 13/6/1957, Bác Hồ về thăm Thanh Hóa lần thứ hai.
Bác nói chuyện với các đại biểu nhân dân toàn tỉnh và khen ngợi: “bước đầu
18
là bình dân học vụ, đồng bào Thanh Hóa cố gắng có kết quả tốt, ví dụ như xã
Vĩnh Khang đó xúa xong nạn mù chữ, được Chính phủ khen ngợi. Chính phủ
đang chờ khen thưởng cho thị xã Thanh Húa”. Người căn dặn: “nhưng phải
cố gắng hơn nữa” và đặt “Giải thưởng thi đua của Hồ Chủ tịch dành cho Bình
dân học vụ” [8, tr.630]. Giai đoạn 1960 - 1975, GDPT thực hiện phương
châm “tận lực phát triển”. Số trường lớp tăng lên rất nhanh. Giáo dục miền
núi và vùng công giáo được chú ý và tạo điều kiện phát triển. Năm học 1976 -
1977, năm học đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
thống nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chủ trương: Để góp phần đào tạo
con người mới cần chú trọng thực hiện phương thức kết hợp giáo dục với lao
động sản xuất và hoạt động xã hội. Các nhà trường có ba hoạt động cơ bản: dạy
và học, lao động sản xuất và tổ chức đời sống tập thể. Thanh Hóa tiếp tục
thực hiện cải cách giáo dục ở tất cả các cấp học. Tuy vậy, do tõm lí chủ quan
nóng vội muốn tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội nên
nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội vào những năm cuối của thập kỉ
80 làm cho giáo dục cũng trì trệ theo. Giáo dục Thanh Hóa trong cục diện
chung đó cũng không có bước tiến đáng kể.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, Đại hội VI (12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước,
trong đó có đổi mới giáo dục: “giỏo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao
động có kĩ thuật, đồng bộ về ngành nghề phù hợp với yêu cầu phân công lao
động của xã hội” [30, tr.89].
Để tạo ra nền tảng cho mục tiêu trên, Đại hội chỉ rõ yêu cầu đối với
GDPT: “cỏc trường phổ thông phải dạy kiến thức phổ thông cơ bản, lao động
kĩ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và dạy nghề phổ thụng” [30, tr.90].
Đại hội Đảng lần thứ VII (2-1991), nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới vững

chắc hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đạt hiệu quả thiết thực, mở rộng
19
quy mô hợp lí, thật sự gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
và chỉ rõ: “Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là động lực đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến trên thế giới”.
[31, tr.79] Chính vì vậy mục tiêu của giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri
thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ và sáng tạo, có đạo đức
cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Đối với GDPT, trong giai đoạn từ 1991 đến 1995 cần phải: “Tập trung
thực hiện chương trình phổ cập giáo dục cấp I và chống mù chữ, phát triển
cấp II và cấp III phù hợp với yêu cầu và điều kiện của nền kinh tế. Củng cố và
phát triển trường phổ thông cho trẻ khuyết tật” [31, tr.79].
Công tác đào tạo cho giáo dục miền núi cũng được Đại hội chú trọng:
Tăng cường đầu tư giáo dục miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng các
trường dân tộc nội trú, quy hoạch đào tạo cán bộ và tri thức người dân tộc.
Quán triệt quan điểm trên, Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung
ương Khóa VII (1993) đã ban hành Nghị quyết 04 - NQ/HNTW về: “Tiếp
tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo”.Nghị quyết đã nêu lên những
thành tựu hết sức cơ bản, đồng thời chỉ rõ những yếu kém của hệ thống
giáo dục. Từ đó, bổ sung những quan điểm của Đại hội VII về giáo dục đào
tạo bao gồm cả GDPT:
Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản bảo đảm
việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát
triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh
tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân
dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước.

20
Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo nên những con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ
năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất
nước những năm 90 và chuẩn bị cho tương lai. Phải mở rộng quy mô, đồng thời
chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức.
Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục
thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách
nhiệm của mỗi công dân.
Đa dạng hoỏ cỏc hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục.
Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu có thể coi là một bước đột
phá trong đổi mới tư duy về giáo dục của Đảng. Bước đột phá này sẽ tạo nền
tảng cho những chính sách phát triển giáo dục của các điạ phương.
Trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo trên, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa lần thứ XIII (1991) đã đưa ra chủ tương phát triển giáo dục cơ sở trong 5
năm 1991 - 1995: “Chú trọng giáo dục cơ sở, phát triển sự nghiệp giáo dục
theo hướng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục đạo
đức và tri thức gắn với yêu cầu thực tiễn cuộc sống, nâng cao dân trí, đào tạo
lao động. Phải coi trọng chất lượng đại trà, hạn chế tình trạng bỏ học ở các
cấp, nhất là cấp một. Thực hiện phổ cập tiểu học ở đồng bằng và lớp 3 ở miền
núi, xóa mù chữ cho những người ở độ tuổi từ 15 - 35. Quan tâm đầu tư cho
sự nghiệp giáo dục miền núi, nhất là ở vùng dân tộc ít người” [41, tr.107).
Sắp xếp lại hệ thống GDPT cho phù hợp với thực trạng nền kinh tế và
yêu cầu của nhân dân,… Bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ quản lí, và giáo viên.
Thực hiện chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với giáo viên dạy giỏi, giáo viên
công tác ở miền núi [41, tr.107].
21

Tỉnh ủy và Sở giáo dục đã ban hành nhiều Nghị quyết và Chỉ thị về
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành Trung ương khóa VII, tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo với
nội dung: Tiếp tục đổi mới cơ cấu và hệ thống giáo dục. Từng bước tách cấp I
ra khỏi phổ thông cơ sở, hình thành các trường tiểu học, trung học cơ sở và
phải được tiến hành vững chắc, phù hợp với điều kiện, tình hình của từng địa
bàn; đưa các lớp cấp I về tận bản làng, tạo điều kiện gắn với cộng đồng, liên
thông với mẫu giáo 5 tuổi. Phát triển các lớp ghép miền núi, vùng thưa dân,
lớp linh hoạt ở vùng ven biển đông dân và nhiều trẻ em bỏ học.
Ở trung học, tách cấp II thành lập trường trung học cơ sở khi có đủ số
lớp tối thiểu và các điều kiện cơ sở vật chất hoặc mở trường cấp II liên xã nếu
thuận lợi về địa lí hoặc mở trường cấp II - III ở những nơi có trường cấp III
nhưng quy mô nhỏ. Các mô hình này chỉ có tớnh chất tình thế, tạo thuận lợi
cho con em nhân dân đến trường học tập chuẩn bị cho bước phát triển mới.
Bắt đầu cho thí điểm thành lập các trường ngoài công lập.
Tăng cường hợp tác, mở rộng quan hệ với các tỉnh, thành phố trong cả
nước và các tổ chức quốc tế để tập trung mọi nguồn lực cho giáo dục.
Thực hiện xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện cho đông đảo nhân dân
trong tỉnh được tiếp nhận giáo dục cũng như được đóng góp vật chất, tài
chính cho giáo dục và đào tạo.
Mặc dù, Thanh Hóa là tỉnh có kinh tế còn kém phát triển, lại luôn bị
thiên nhiên gây thiệt hại lớn nhưng do nhận thức được tầm quan trọng của
giáo dục nên sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ, ngành giáo
dục và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phấn đấu đưa sự nghiệp giáo dục -
đào tạo của tỉnh đạt những thành tựu quan trọng, quy mô giáo dục tăng nhanh.
Riêng GDPT có những bước chuyển đáng ghi nhận.
Các huyện đã tiến hành tách cấp I ra khỏi phổ thông cơ sở và thành lập
trường tiểu học, THCS. Ở trung học tách cấp II thành lập trường THCS và đã
22
mở thêm nhiều trường cấp II liên xã. Quá trình này được tiến hành vững chắc.

Hệ thống trường tiểu học đến năm 1995 có 441 trường, chỉ còn 256 trường
phổ thông cơ sở, và đó cú 360 trường THCS. Đồng thời với việc tách trường
là việc mở thờm cỏc lớp lẻ ở miền núi làm cho số lượng trường tiểu học ngày
càng phủ kín cỏc xó phường [66, tr.12].
Bảng 1: Thống kê số lượng trường học các cấp từ 1990 đến 1995
Đơn vị: Trường
Năm học Tiểu học PTCS THCS PTTH Tổng cộng
1990 -1991 0 727 0 51 778
1991-1992 179 488 120 53 840
1992 -1993 267 420 180 53 920
1993 - 1994 325 365 245 54 989
1994 -1995 441 256 360 54 2081
Nguồn: Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa
Từ bảng số liệu trên có thể thấy số lượng trường học ở các cấp đó cú sự
thay đổi. Các trường phổ thông cơ sở giảm dần nhường chỗ cho việc tách ra
thành các trường tiểu học và THCS. Quy mô giáo dục THCS lớn dần. Hệ
thống trường PTTH khá ổn định.
Sự gia tăng số lượng trường lớp theo hệ thống tổ chức mới đã tạo điều
kiện thuận lợi cho con em các dân tộc trong tỉnh đến trường. Từ năm học
1990 - 1991, số lượng học sinh các cấp đã tăng liên tục. Tỉ lệ học sinh phổ
thông bỏ học đã giảm rõ rệt. Đến 1995, quy mô bậc tiểu học phát triển ổn
định, tiến tới yêu cầu phổ cập tiểu học đúng độ tuổi.
Bảng 2: Thống kê số lượng học sinh các cấp từ 1990 đến 1995
Đơn vị: Học sinh
Năm học Tiểu học THCS PTTH Tổng cộng
1990-1991 455810 112409 18595 706946
1991-1992 487647 123204 19629 758809
1992-1993 515324 145297 27863 824477
1993- 1994 536755 183831 35392 898349
23

1995-1996 54923 22982 43220 100268
Nguồn: Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa
Việc xây dựng và phát triển giáo dục miền núi đã được tiến hành theo
phương châm phù hợp với điều kiện, tình hình từng địa bàn. Hệ thống các
trường phổ thông phát triển đều khắp. Mỗi huyện đó cú trường Dân tộc nội
trú ở bậc THCS và ở tỉnh cũng đó cú một trường Dân tộc nội trú ở bậc PTTH.
Tất cả các dân tộc đều có học sinh nội trú. Sau khi tốt nghiệp PTTH, phần lớn
các em lại được tuyển vào các trường đại học dự bị để đi học cao đẳng, đại
học và trung học chuyên nghiệp.
Bên cạnh việc mở rộng quy mô, GDPT Thanh Húa đó cú sự phấn đấu
nhằm phát triển nội dung và chất lượng dạy, chất lượng học theo xu hướng
ngày càng hiện đại.
Ở bậc tiểu học đã ngăn chặn được tình trạng bỏ học, số lượng học sinh
các cấp học hàng năm đều tăng. Bên cạnh đó giáo dục tiểu học cũng có sự
tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện nội dung giáo dục toàn diện, giảng dạy đủ
các môn học. Học sinh giỏi phải thi cả hai mụn: Toỏn và Tiếng Việt. Nhiều
trường đã tổ chức được lớp học bán trú cho các em học sinh.
Nhiệm vụ phổ cập giáo dục và chống mù chữ đã đạt được kế hoạch đề ra.
Đối với công tác này, các trường tiểu học phải xây dựng được một nền tiểu học
phát triển mà mấu chốt là phải huy động được 100% trẻ em đến trường đúng độ
tuổi, đảm bảo chất lượng, khắc phục bỏ học và lưu ban nhiều. Tỉnh đã quán triệt
đến tận cơ sở, trước hết là các cấp chính quyền về nội dung, biện pháp phổ cập
giáo dục, trong đó quan trọng là phải xây dựng vững mạnh các trường tiểu học.
Vì vậy mà số lượng và chất lượng phổ cập tiểu học đều thay đổi nhanh chóng.
Năm 1990 mới có 267/626 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập
giáo dục tiểu học và chống mù chữ. Đến cuối 1995 con số này đã tăng lên
456/630. Cũng trong năm này, Thanh Húa cú 18/23 huyện, thị xã, thành phố đạt
chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ .
24

×