Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

KIẾN THỨC THÁI độ về các BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA CHUẨN của SINH VIÊN tại đại học y hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.94 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

-----------***-----------

LÊ THỊ NGA

KIÕN THøC TH¸I §é VÒ C¸C BIÖN PH¸P PHßNG NGõA CHUÈN
CñA SINH VI£N t¹i §¹I HäC Y Hµ NéI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN ĐIỀU DƯỠNG
KHÓA 2012– 2016
Người hướng dẫn khoa học:

Chủ tịch hội đồng:

ThS. Bùi Vũ Bình

TS. Trương Quang Trung
HÀ NỘI – 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân thành cảm ơn: Ban giám
hiệu, Phòng Đào tạo đại học, Khoa Điều dưỡng- Hộ sinh- Trường Đại học Y
Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ThS.Bùi Vũ Bình cán bộ
giảng dạy tại Khoa Điều dưỡng- Hộ sinh- Trường Đại học Y Hà Nội, người
thầy đã hết lòng dạy bảo, dìu dắt tôi trong suốt quá trình học tập và trực tiếp


hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng chấm luận văn
đã cho tôi nhiều ý kiến quý báu để hoàn thiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo Khoa Điều dưỡng- Hộ sinh
– Trường Đại học Y Hà Nội đã hết lòng dạy dỗ, chỉ bảo tôi trong quá trình
học tập và thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể sinh viên trường Đại hoc Y Hà Nội đã tạo
điều kiện cho tôi trong quá trình thu thập số liệu và hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng, tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới,gia
đình, bạn bè và những người thân yêu nhất đã dành cho tôi sự yêu thương,
chăm sóc tận tình, đã động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, ngày 22 tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Lê Thị Nga

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả được nêu trong khóa luận này là trung thực và chưa được công bố
trong bất kỳ một nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Tác giả
Lê Thị Nga


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BSĐK


: Bác sỹ đa khoa

CDC

: Centers for Disease Control and Prevention
Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa bệnh tật Hoa Kì.

CNĐD

: Cử nhân điều dưỡng

KSNK

: Kiểm soát nhiễm khuẩn

KT

: Kiến thức

NB

: Người bệnh

NKBV

: Nhiễm khuẩn bệnh viện

NVYT

: Nhân viên y tế


PHCN

: Phòng hộ cá nhân

PNC

: Phòng ngừa chuẩn



: Thái độ

WHO

: Tổ chức y tế thế giới.


MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC HÌNH



8

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn bệnh viện là hậu quả không mong muốn trong thực hành
khám bệnh, chữa bệnh. Nhiễm khuẩn bệnh viện góp phần làm gia tăng tỷ lệ
mắc bệnh, tăng sử dụng thuốc kháng sinh, kéo dài ngày nằm viện cho
người bệnh, gia tăng chi phí điều trị và tăng tỷ lệ tử vong. Thực hiện các
biện pháp của phòng ngừa chuẩn đóng góp quan trọng vào việc giảm tỷ lệ
mắc nhiễm khuẩn bệnh viện. Từ đó hạn chế sự lây truyền bệnh cho nhân
viên y tế và người bệnh cũng như từ người bệnh sang môi trường, đảm bảo
an toàn người bệnh, góp phần làm tăng chất lượng khám bệnh, chữa bệnh
của bệnh viện [1], [2].
Những cơ sở khám chữa bệnh không tuân thủ đầy đủ quy trình đảm bảo
vô khuẩn trong chăm sóc và điều trị, những nơi chưa có kiến thức và thái độ
đúng về phòng ngừa chuẩn có nguy cơ mắc nhiễm trùng bệnh viện cao hơn
các cơ sở khác. Do vậy kiến thức và thái độ về phòng ngừa chuẩn có vai trò
quan trọng đối với thực hành phòng ngừa chuẩn cho nhân viên y tế. Kiến thức
về phòng ngừa chuẩn là một phần cơ bản trong kiến thức về kiểm soát nhiễm
khuẩn. Tại mỗi thời điểm, nội dung của các biện pháp phòng ngừa chuẩn
được thay đổi để phù hợp với đặc điểm các bệnh nhiễm trùng. Mỗi quốc gia
có các giải pháp thực hiện phòng ngừa chuẩn khác nhau tùy thuộc vào đặc
điểm các bệnh nhiễm trùng của nước đó nhưng đều dựa trên hướng dẫn của
trung tâm ngăn ngừa và kiểm soát bệnh tật Hoa Kì về phòng ngừa chuẩn công
bố năm 2007.
Sinh viên y khoa là những nhân viên y tế tương lai, chịu trách nhiệm
trong chăm sóc và điều trị cho người bệnh. Trong chương trình học, bên
cạnh học lý thuyết tại trường sinh viên còn học lâm sàng và trực tại bệnh
viện với tính chất công việc tương tự như các ngành học. Bên cạnh đó,



9

phần lớn sinh viên thực tập tại lâm sàng đều chưa hoàn thiện đầy đủ các kĩ
năng lâm sàng, chưa hiểu rõ về hệ thống quản lí bệnh viện và liên tục phải
thay đổi môi trường thực tập. Sinh viên cũng là người trực tiếp thực hiện
các thủ thuật chăm sóc, thăm khám trên người bệnh do đó cũng đóng góp
một phần lớn vào việc giảm thiểu các rủi ro liên quan đến các hậu quả do
nhiễm khuẩn bệnh viện [3].
Sinh viên có nguy cơ cao tiếp xúc với máu và dịch tiết do thời gian tiếp
xúc lâm sàng của sinh viên chưa nhiều so với nhân viên y tế, các kỹ năng
thăm khám hay kỹ năng thực hiện các thủ thuật chăm sóc trên người bệnh
chưa thuần thục như những nhân viên y tế [4]. Ngoài ra, sinh viên trước khi
học tại viện cần phải được cung cấp đầy đủ các kiến thức về phòng ngừa
chuẩn là một điều kiện cần thiết cho sự tuân thủ các thủ thuật đảm bảo vô
khuẩn [5].
Do vậy nghiên cứu “Kiến thức, thái độ về các biện pháp phòng ngừa
chuẩn của sinh viên tại Đại học Y Hà Nội” được tiến hành với hai mục tiêu sau:
1.

Mô tả kiến thức, thái độ về phòng ngừa chuẩn của sinh viên trường

Đại học Y Hà Nội
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về phòng ngừa chuẩn.


10

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Khái niệm về phòng ngừa chuẩn
1.1.1. Phòng ngừa chuẩn và vai trò của phòng ngừa chuẩn tới kiểm soát
nhiễm khuẩn.
Nhiễm khuẩn bệnh viện đã trở thành một thách thức y tế của toàn cầu.
Tại các nước phát triển tỷ lệ mắc NKBV là từ 5-10% tổng số người bệnh nhập
viện, trong khi đó tỷ lệ này ở các nước đang phát triển là trên 25% [6]. Nhiễm
khuẩn bệnh viện làm tăng thời gian viện, tăng chi phí điều trị, tăng tỷ lệ mắc
bệnh và đặc biệt làm tăng tỷ lệ tử vong. Nhiễm khuẩn bệnh viện sẽ tăng ở các
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không tuân thủ nghiêm ngặt các quy tình vô
khuẩn trong chăm sóc người bệnh và ở những nơi kiến thức và thái độ về
KSNK còn hạn chế [7].
Năm 1970, trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kì (CDC)
đưa ra khái niệm về cách ly phòng ngừa lần đầu tiên với 7 phương pháp cách
ly theo mã màu khác nhau bao gồm: phòng ngừa tuyệt đối, phòng ngừa bảo
vệ, phòng ngừa lây truyền qua hô hấp, đường ruột, vết thương, chất thải và
máu. Năm 1985 CDC ban hành hướng dẫn phòng ngừa mới gọi là phòng
ngừa phổ cập (Universal Precautions) nhằm đối phó với đại dịch HIV/AIDS.
Trong đó, máu được xem như là nguồn lây truyền quan trọng nhất và dự
phòng những phơi nhiễm qua đường máu là cần thiết. Năm 1995, khái niệm
phòng ngừa phổ cập được chuyển thành phòng ngừa chuẩn (Standard
Precautions) là tổng hợp của hai biện pháp phòng ngừa phổ cập và cách ly với
chất tiết của cơ thể [7].


11

Theo hướng dẫn về PNC của Bộ Y tế, PNC là tập hợp các biện pháp
phòng ngừa cơ bản áp dụng cho tất cả NB trong các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh, dựa trên nguyên tắc coi tất cả máu, chất bài tiết (trừ mồ hôi) đều có
nguy cơ lây truyền bệnh [1].

Nhằm hướng dẫn thực hành PNC cho NVYT, các tổ chức y tế uy tín
như WHO và CDC đã tiến hành nghiên cứu và đề xuất các biện pháp rất cụ
thể. Tuy nhiên khi xem xét các khuyến cáo này có thể thấy, bên cạnh các giải
pháp tương đối thống nhất, thì cũng có những giải pháp thể hiện quan điểm
của từng tổ chức.
Với các bằng chứng rõ ràng và có độ tin cậy cao về tác dụng của vệ
sinh bàn tay, cả WHO và CDC đều cho rằng, NVYT cần phải tuân thủ tốt các
thời điểm vệ sinh bàn tay và vệ sinh ho và hô hấp. Bên cạnh đó, mỗi cơ sở y
tế và nhân viên cũng cần phải chuẩn bị, cung cấp và thực hiện các yêu cầu
trong cung cấp dụng cụ và đồ vải đạt tiêu chuẩn. Nhận thấy vai trò quan trọng
của môi trường chăm sóc, khuyến cáo về vệ sinh và khử khuẩn môi trường
cũng được hai tổ chức này coi là một biện pháp quan trọng [8], [9].
Với các bằng chứng về việc lây lan nhiễm khuẩn do chưa tuân thủ việc
tự bảo vệ hoặc không có đủ trang thiết bị tự bảo vệ, WHO khuyến cáo rằng
các NVYT cần phải sử dụng khẩu trang, kính bảo hộ, găng tay và áo choàng
thích hợp. Tương tự, CDC đã tóm gọn các giải pháp trên trong một khuyến
cáo chung là cần phải có các phương tiện phòng hộ cá nhân yêu cầu của mỗi
lần tiếp xúc với các nguy cơ lây nhiễm. Nhận thấy vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ NVYT khỏi các tác nhân phơi nhiễm, khuyễn cáo về tiêm an toàn
và phòng ngừa tổn thương do vật sắc nhọn cũng được hai tổ chức này khuyến
khích thực hiện [8], [9].
Về các biện pháp bổ sung, WHO cho rằng việc quản lý chất thải y tế
cũng là một biện pháp PNC, mức độ lây nhiễm sẽ giảm đi nhiều khi các cơ sở


12

y tế và nhân viên chủ động phân loại, thu gom, lưu trữ và xử lý chất thải y tế
đúng. Trong khi đó, CDC lại nhận thấy rằng việc sắp xếp người bệnh hợp lý
sẽ giúp làm giảm nguy cơ lây nhiễm và khuyến cáo rằng sắp xếp người bệnh

cần phải được coi là một biện pháp PNC. Bên cạnh đó, tổ chức này cũng cho
rằng việc thực hành theo đúng các quy định về KSNK đối với các thủ thuật,
đặc biệt là thủ thuật xâm lấn không chỉ làm giảm nguy cơ NKBV mà còn giúp
phòng ngừa các lây nhiễm cho NVYT [8], [9].
Việc áp dụng các khuyến cáo về PNC của WHO và CDC tại mỗi quốc
gia tùy thuộc vào đặc điểm y tế của quốc gia đó. Năm 2013, trung tâm kiểm
soát nhiễm trùng tại Saudi, Ả rập đã ban hành các giải pháp thực hiện PNC
dựa trên các khuyến cáo của WHO và CDC. Tổ chức này cũng đồng thuận
với WHO, CDC về tầm quan trọng của các biện pháp vệ sinh bàn tay, vệ sinh
khi ho và hô hấp trong việc bảo vệ NVYT, NB khỏi các tác nhân lây nhiễm.
Các biện pháp về xử lí dụng cụ chăm sóc, xử lí đồ vải bẩn, các biện pháp vệ
sinh môi trường chăm sóc, sắp xếp người bệnh, quản lí và xử lí chất thải, cũng
được tổ chức này khuyến khích thực hiện nhằm giảm tỷ lệ NKBV. Bên cạnh
đó, tổ chức này đã bổ sung thêm giải pháp về quản lí mẫu xét nghiệm do nhận
thấy hiệu quả của giải pháp này trong hạn chế sự lây nhiễm các tác nhân gây
bệnh và giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn [10].
Tại Việt Nam, các giải pháp thực hiện PNC được xây dựng trên sự
thống nhất với WHO, CDC về các nội dung: vệ sinh bàn tay; vệ sinh khi ho
và hô hấp; làm sạch và khử khuẩn môi trường; khử khuẩn/tiệt khuẩn dụng cụ;
xử lí đồ vải; sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân; tiêm an toàn và phòng
ngừa tổn thương do vật sắc nhọn. Bộ Y tế cũng đồng nhất với quan điểm của
WHO về tầm quan trọng của các biện pháp xử lí chất thải y tế nhằm hạn chế
tác nhân lây truyền bệnh, quan điểm của CDC về vai trò của biện pháp sắp
xếp người bệnh hợp lí nhằm hạn chế sự lây truyền chéo giữa NB, tạo điều


13

kiện quản lí NB dễ dàng hơn. Tháng 9/2012 Cục quản lí khám, chữa bệnh, Bộ
Y tế đã ban hành hướng dẫn về phòng ngừa chuẩn trong các cơ sở khám, chữa

bệnh với 9 nội dung như trên [1].
Thực hiện PNC giúp phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm với máu, chất
tiết, chất bài tiết (trừ mồ hôi) ngay cả khi không nhìn thấy có sự phơi nhiễm
với máu và dịch tiết qua da, niêm mạc. PNC được coi là nền tảng cho việc
phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện được sử dụng trong chăm sóc sức khỏe
cho NB [8].
Việc tuân thủ các biện pháp của PNC đóng vai trò:
 Ngăn ngừa sự lây nhiễm trong bệnh viện từ đó giảm tỷ lệ tử

vong, giảm thời gian nằm viện, rút ngắn chi phí điều trị cho NB
 Là một nội dung chủ yếu trong chương trình KSNK bệnh viện.
Thực hiện các biện pháp PNC nhằm mục đích hạn chế sự lây truyền
cho NVYT và NB cũng như từ NB sang môi trường nhằm bảo đảm an toàn và
nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.
1.1.2. Thực trạng của thực hiện PNC
Nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và Lê Bá Nguyên năm 2008 tại các
bệnh viện khu vực phía Bắc chỉ ra rằng tỷ lệ tuân thủ đúng thực hành PNC ở
NVYT chưa cao, chỉ có ít hơn 20% số nhân viên y tế được quan sát thực hành
tốt các yêu cầu về PNC khi thực hành nghề nghiệp [11].
Tỷ lệ tuân thủ rửa tay theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hà và
cộng sự năm 2012 tại bệnh viên Nhi Đồng 1 là 62% tổng số cơ hội quan sát
được, đối tượng tuân thủ rửa tay cao nhất là kỹ thuật viên với tỷ lệ trên 70%,
bác sỹ và sinh viên là đối tượng tuân thủ vệ sinh tay kém nhất, chỉ chiếm
41%-43% tổng số bác sỹ và sinh viên tham gia nghiên cứu. [12].
Nghiên cứu của Lê Thị Anh Thư năm 2010 tại bệnh viên Chợ Rẫy cho
thấy, từ tháng 2/2000- tháng 6/2009, tổng số NVYT bị tai nạn nghề nghiệp do


14


phơi nhiễm với các tác nhân đường máu trong khi thao tác là 327 trường hợp,
trong đó phơi nhiễm trên bệnh nhân HIV dương tính là 65 trường hợp. Điều
dưỡng là đối tượng thường gặp nhất các tai nạn nghề nghiệp với 116 trường
hợp chiếm 35.5%, tiếp đó là đối tượng học viên/sinh viên với 48 trường hợp
chiếm14.7% [13]. Do còn nhiều hạn chế trong việc thực hiện các thủ thuật
thăm khám và các thủ thuật chăm sóc vậy nên sinh viên là đối tượng có nguy
cơ cao phơi nhiễm với các tác nhân gây bệnh [14].
Theo nghiên cứu của Huson Amin Ghalya và Youssreya Ibrahim chỉ ra
rằng có sự thiếu kiến thức và tuân thủ về thực hành PNC của NVYT và sinh
viên y [15]. Trong khi đó sự tuân thủ thực hành PNC lại có vai trò đáng kể
trong việc giảm tỷ lệ NKBV [1].
1.2. Kiến thức, thái độ về PNC của nhân viên y tế và sinh viên y khoa.
NKBV là mối quan tâm chung của ngành y tế tại mọi quốc gia trên thế
giới. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, công tác KSNK luôn phải đối
mặt với nhiều trở ngại như ngân sách đầu tư hạn chế, tình trạng quá tải bệnh
viện, thiếu thốn cơ sở vật chất, phần lớn NVYT và các nhà quản lý chưa nhận
thức được đầy đủ tầm quan trọng của công tác này [10]. Nguyên nhân gây
nhiễm khuẩn bệnh viện có nhiều, tuy nhiên một trong những nguyên nhân
quan trọng là kiến thức, thái độ của NVYT về kiểm soát NKBV chưa tốt dẫn
đến việc chấp hành các quy định/quy trình KSNK gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là các nội dung về PNC [11].
NKBV xuất hiện nhiều ở những cơ sở không tuân thủ nghiêm ngặt quy
tắc vô khuẩn trong chăm sóc và điều trị người bệnh, ngoài ra nguồn lực dành
cho đào tạo KSNK còn thiếu. PNC là nội dung quan trọng trong chương trình
KSNK. Để làm thay đổi hành vi của một cá nhân cần phải cung cấp cho các
đối tượng các kiến thức đúng, thay đổi thái độ của đối tượng, từ đó tác động


15


tới hành vi của đối tượng. Việc cung cấp kiến thức cho NVYT và sinh viên y
khoa về PNC là cần thiết để làm giảm NKBV và giảm thiểu các rủi ro không
mong muốn cho NVYT và sinh viên.
Tại Việt Nam, theo một số nghiên cứu cho thấy kiến thức về KSNK cơ
bản còn thấp, trong 100 NVYT được phỏng vấn ở 10 bệnh viện đại diện khu vực
phía Bắc, không có NVYT nào hiểu đầy đủ về PNC [16]. Tuy nhiên chưa có
nghiên cứu nào tại Việt Nam mô tả kiến thức và thái độ của sinh viên y về PNC.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và Lê Bá Nguyên năm 2008,
đánh giá kiến về vệ sinh tay thường quy của NVYT tại một số bệnh viện khu
vực phía Bắc năm 2005 cho thấy tỉ lệ nhân viên trả lời đúng tất cả các câu hỏi
liên quan đến vệ sinh tay chỉ chiếm 43.5% [11].
Theo tác giả Lê Thị Anh Thư, từ sau khi triển khai huấn luyện và các
biện pháp phòng hộ, số lượng NVYT (bao gồm cả học viên/sinh viên) bị tai
nạn nghề nghiệp đã giảm xuống một cách đáng kể [13].
Tại Trung Quốc, do thiếu các kiến thức căn bản về PNC nên 90 nhân
viên trong tổng số 149 người được phỏng vấn bày tỏ sự lo ngại khi chăm sóc
người bệnh nhiễm HIV/AIDS [17]. Bên cạnh việc cung cấp đầy đủ phương
tiện để thực hiện PNC, việc cung cấp kiến thức về PNC là thực sự cần thiết,
nghiên cứu của tác giả Askarian cho thấy 90% sinh viên y khoa ở Shiraz đã
không nhận được giáo dục về PNC, 75% số người được hỏi muốn học nhiều
hơn về các biện pháp PNC [18].
Giáo dục về vấn đề KSNK không chỉ nên tập trung vào NVYT, mà nên
bao gồm cả sinh viên. Sinh viên cần phải được đào tạo về PNC trước khi đến
bệnh viện là một trong những điều kiện cần thiết cho sự thực hành các quy trình
vô khuẩn [19]. Trong các nghiên cứu về thực trạng thực hành rửa tay của sinh
viên cho kết quả kém, sinh viên hiếm khi rửa tay khi thăm khám NB [20].


16


Sinh viên là đối tượng dễ có nguy cơ bị phơi nhiễm với các tác nhân gây
truyền bệnh qua đường máu do chưa thuần thục trong thực hiện các thủ thuật vô
khuẩn, sinh viên điều dưỡng và sinh viên đa khoa chiếm 15% tổng số phơi
nhiễm liên quan đến vật sắc nhọn [22]. Kiến thức của sinh viên còn thấp trong
các nội dung về vệ sinh tay, phòng hộ cá nhân, tiêm an toàn và xử trí phơi nhiễm
với vật sắc nhọn theo nghiên cứu của tác giả Tarek Tawfik Amin [5].
Việc cung cấp đầy đủ kiến thức về PNC đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hành PNC của sinh viên. Nghiên cứu của Elliott SK và cộng sự
nhằm so sánh kết quả trước và sau khi cung cấp các kiến thức về phòng ngừa
tai nạn do kim đâm và xử lí tai nạn cho sinh viên đã cho thấy có sự cải thiện
đáng kể về kiến thức của sinh viên so với các nghiên cứu trước đó [19]. Sinh
viên là đối tượng chưa được nhận đầy đủ tất cả các kiến thức liên quan đến
chuyên môn so với NVYT, do đó sinh viên dễ gặp các rủi ro trong chăm sóc
hơn so với NVYT.
Sinh viên trước khi ra trường nên được cung cấp đầy đủ các kiến thức
về PNC để bảo vệ bản thân đồng thời chăm sóc, điều trị cho NB tốt hơn [23],
nghiên cứu của Koenig S và Chu J năm 1993 chỉ ra rằng nhiều sinh viên trước
khi tốt nghiệp vẫn chưa có đầy đủ kiến thức về PNC [24].
Nghiên cứu của Verena G. Herbert và cộng sự tiến hành giữa các sinh
viên đa khoa tại Australia cho thấy chỉ có 49% số sinh viên được phỏng vấn
tuân thủ rửa tay, 70% số người được hỏi có kiến thức đúng về rửa tay [25].
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc nâng cao nhận thức về rửa tay của sinh viên
trong giáo dục đại học có thể tác động tới hành vi của sinh viên ra trường và
làm giảm NKBV.
1.3. Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về PNC


17

1.3.1. Các đặc điểm của đối tượng.

1.3.1.1. Số năm học, số năm đào tạo
Thời gian học là các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thái độ về
PNC. Các sinh viên năm cuối thường có nhận thức tốt hơn về PNC, bên cạnh
đó do có thời gian học lâm sàng nhiều hơn, các sinh viên có thể được chứng
kiến các trường hợp bị phơi nhiễm với vật sắc nhọn nhiều hơn do đó có sự
cảnh giác cao hơn. Nghiên cứu của Huson Amin Ghalya và Prof. Youssreya
Ibrahim chỉ ra rằng có sự liên quan giữa số năm được đào tạo và kiến thức về
PNC, các sinh viên năm cuối có kiến thức tốt hơn về PNC [15], [26], [27].
1.3.1.2 Ngành học
Có sự liên quan giữa ngành học tới việc tuân thủ thực hiện PNC.
Nghành học thường xuyên tiếp xúc với máu và dịch tiết của NB, có kiến thức
và thái độ tốt hơn về PNC so với các nghành khác. Theo nghiên cứu của tác
giả Rajinder Kaur và cộng sự (2007) điểm các phần kiến thức và thái độ của
sinh viên điều dưỡng là cao hơn so với các ngành kĩ thuật y học, bác sỹ đa
khoa [28]. Nghiên cứu của Kim và cộng sự năm 2000 chỉ ra rằng kiến thức
của sinh viên điều dưỡng cao hơn sinh viên đa khoa [29]. Sinh viên điều
dưỡng là đối tượng tiếp xúc với bệnh nhân nhiều hơn do thực hiện các công
việc như các điều dưỡng thực hơn nữa trong chương trình đào tạo sinh viên
điều dưỡng được giảng dạy về PNC trong một môn học riêng, được cung cấp
các kiến thức về bảo vệ cá nhân trước khi học lâm sàng. Các sinh viên được
đào tạo về PNC có kiến thức và thực hành tốt hơn sinh viên không được nhận
đào tạo [29].
Hệ BSĐK được đào tạo 6 năm, trong thời gian học tại bệnh viên sinh
viên học các kĩ năng thăm khám, hỏi bệnh; ngoài ra còn phụ giúp các bác sỹ
thực hiên các thủ thuật trên NB. Tại bệnh viện, sinh viên điều dưỡng học các
kĩ năng thăm khám và hỏi bệnh, ngoài ra còn thực hành các thủ thuật chăm


18


sóc như: tiêm truyền, lấy máu xét nghiệm, phụ giúp NVYT trong vận chuyển
người bệnh, phân loại rác thải, vệ sinh khoa phòng.
Thời gian đào tạo của sinh viên CNĐD là 4 năm, đối với hệ BSĐK là 6
năm, sinh viên BSĐK có thời gian tiếp xúc lâm sàng muộn hơn so với đối
tượng CNĐD. Thời gian tiếp xúc lâm sàng của sinh viên đa khoa là từ đầu
năm thứ 3. Đối với sinh viên CNĐD là từ kì 2 năm thứ 2. Ngoài ra có một số
sinh viên đã đi trực và tự học lâm sàng ngày từ năm thứ nhất với các công
việc như những điều dưỡng, khi mà sinh viên chưa được cung cấp bất kì kiến
thức nào liên quan đến lâm sàng, chủ yếu là các môn cơ sở.
1.3.2. Nội dung KSNK trong chương trình đào tạo
Nghiên cứu của Ginny Kaushal cho thấy, NVYT được đào tạo về
PNC có kiến thức, thái độ và thực hành tốt hơn nhóm chưa được đào tạo về
PNC. Cụ thể, kiến thức của nhóm được đào tạo về PNC là cao hơn nhóm
không được đào tạo về PNC với tỷ lệ lần lượt là 85% và 75%, nhóm được đào
tạo về PNC có tỷ lệ tuân thủ thực hành cao hơn so với nhóm còn lại lần lượt
là 95% và 86% [30].
Giáo dục về PNC là một trong những yếu tố ảnh hướng đến kiến thức,
thái độ và thực hành về PNC của sinh viên, theo nghiên cứu của Marie-Pierre
Tavolacci, đánh giá kiến thức, thái độ của sinh viên sau khi giảng dạy về
chương trình PNC tại Pháp[31]
Việc đào tạo về PNC cho sinh viên y tại trường Đại học Y Hà Nội đã
được tiến hành từ năm 2014 do khoa Điều dưỡng phụ trách. Chương trình
giảng dạy môn KSNK của khoa Điều dưỡng bắt đầu từ kì 2 năm thứ 2 dành
cho đối tượng CNĐD trước khi học lâm sàng. Các nội dung về KSNK bao
hàm các nội dung của PNC. Trong quá trình học các sinh viên sẽ được học kết
hợp cả lí thuyết và thực hành trên phòng lab và tại bệnh viện để sinh viên áp


19


dụng được những kiến thức lí thuyết trên thực tế. Ngoài ra trong quá trình
giảng dạy, các giảng viên sẽ cung cấp các câu hỏi tình huống cho sinh viên trả
lời và thảo luận để sinh viên ghi nhớ và áp dụng các kiến thức ngay trên
những tình huống mô phỏng.
Ngoài ra, một số kiến thức của PNC cũng được cung cấp cho tất cả sinh
viên trong các môn cơ sở như các nội dung về:
 Vệ sinh bàn tay.
 Thực hiện tiêm an toàn và phòng ngừa tổn thương do vật sắc

nhọn, phòng ngừa cá nhân.
 Về xử lí dụng cụ y tế.


20

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn vào
Sinh viên thuộc các chương trình đào tạo của Trường Đại học Y Hà
Nội, từ năm thứ 2 tới năm thứ 5. Trong đó, sinh viên CNĐD từ năm thứ 2 tới
năm thứ 4, sinh viên BSĐK từ năm thứ 3 tới năm thứ 5.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại ra
Các sinh viên đủ các tiêu chuẩn trên nhưng không đồng ý tham gia
nghiên cứu.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành tại trường Đại học Y Hà Nội từ tháng 1/2016 đến
tháng 4/2016.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang

Cỡ mẫu được tính theo công thức:
N
Với độ tin cậy là 95%: Z1-α/2=1.96 (với α=0.05)



Trong nghiên cứu của Mn. Huson Amin Ghalya, Prof. Youssreya
Ibrahim tỷ lệ sinh viên có kiến thức đạt là 45.83%, với mức độ trả lời
đúng trên 75% tổng số câu hỏi về kiến thức [15].
p: 0.3 – Tỷ lệ sinh viên có kiến thức đạt về PNC.
: 0.05
N = 322


21

Người nghiên cứu quyết định lấy thêm 30% số sinh viên nhằm hạn chế
bớt sai số của phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tổ. Trên thực tế có 412
sinh viên đồng ý tham gia nghiên cứu.
Chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên phân tổ: dựa trên số lượng
sinh viên của các khối từ năm thứ 2 đến năm thứ 5 của hệ BSĐK và hệ
CNĐD.
 Sinh viên đa khoa từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 được chia thành

18 tổ - mỗi năm gồm có 6 tổ tương ứng với 6 lớp.
 Sinh viên điều dưỡng từ năm thứ 2 tới năm thứ 4 được chia thành
3 tổ - mỗi tổ tương ứng với mỗi lớp.
 Với mỗi tổ của hệ BSĐK phát ra 20 phiếu, mỗi tổ của CNĐD
phát ra 60 phiếu. Tổng số phiếu phát ra là 540 phiếu. Trong đó sự
tham gia của BSĐK đạt 79.72% (287/360 sinh viên), sự tham gia

của CNĐD đạt 69.44% (125/180 sinh viên).
2.4. Công cụ thu thập số liệu
2.4.1. Quá trình phát triển bộ câu hỏi
Trong quá trình tìm kiếm tài liệu tham khảo, người nghiên cứu nhận
thấy có sự đồng nhất trong khái niệm về PNC giữa các tổ chức WHO, CDC,
giữa các quốc gia Việt Nam, Ả rập. Tuy nhiên việc triển khai thành các giải
pháp thực hiện có sự khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm y tế của mỗi quốc gia.
Do đó người nghiên cứu đã quyết định phát triển bộ câu hỏi về kiến thức PNC
theo 9 nội dung mà Bộ Y tế Việt Nam khuyến cáo.
Người nghiên cứu đã tham khảo bộ câu hỏi PNC của tác giả Mn. Huson
Amin Ghalya, Prof. Youssreya Ibrahim năm 2013, tiến hành trên đối tượng
sinh viên điều dưỡng trường đại học Umm Al-Qura, Saudi Arabia. Các nội
dung bao gồm: kiến thức về vệ sinh tay, phòng hộ cá nhân, tiêm an toàn và xử


22

lí phơi nhiễm với vật sắc nhọn; thái độ của sinh viên về chương trình đào tạo
PNC [15].
Các phần còn lại trong bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên nội dung của
quyết định số: 3671/QĐ - BYT ngày 27/9/2012 của Bộ Y tế về “Hướng dẫn
phòng ngừa chuẩn trong các cơ sở Khám bệnh, chữa bệnh” [1] và quyết định
số 5771/BYT-K2ĐT ngày 30/08/2012 của Bộ Y tế về “Tài liệu đào tạo phòng
và kiểm soát nhiễm khuẩn” [7].
Xây
Xây dựng
dựng bộ
bộ câu
câu hỏi
hỏi


Xin
Xin ý
ý kiến
kiến chuyên
chuyên gia:
gia:

Thử
Thử nghiệm
nghiệm bộ
bộ câu
câu hỏi
hỏi trên
trên sinh
sinh viên
viên

Chỉnh
Chỉnh sửa
sửa bộ
bộ câu
câu hỏi
hỏi

Thu
Thu thập
thập trên
trên sinh
sinh viên

viên

Hình 2.1. Quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ câu hỏi.
Bộ câu hỏi được sự góp ý của: 2 Tiến sỹ điều dưỡng trong đó 1 Tiến sỹ
chuyên về KSNK, 1 Tiến sỹ chuyên về Hồi sức cấp cứu, cả hai Tiến sỹ đều là
giảng viên khoa Điều dưỡng- Hộ sinh, trường Đại học Y Hà Nội. Bộ câu hỏi
còn nhận được sự đóng góp ý kiến của 1 Cử nhân điều dưỡng hiện là Phó
phòng Điều dưỡng, bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Người nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm bộ câu hỏi trên: 30 sinh
viên cử nhân điều dưỡng lớp Y4L- trường Đại học Y Hà Nội.


23

2.4.2. Nội dung của bộ câu hỏi.
Bộ câu hỏi nghiên cứu bao gồm 2 phần :
 Thông tin cơ bản của đối tượng
 Các nội dung về phòng ngừa chuẩn.

2.4.2.1. Thông tin chung bao gồm






Giới
Năm thứ mấy
Hình thức đào tạo
Đã được đào tạo trước đây về PNC

Đã nhận được tài liệu về PNC

2.4.2.2. Các nội dung liên quan đến PNC
 Kiến thức về vệ sinh tay: 19 câu
 Kiến thức về phòng hộ cá nhân: 14 câu
 Kiến thức về tiêm an toàn và phòng ngừa tổn thương do vật sắc








nhọn:6 câu
Kiến thức về vệ sinh khi ho và hô hấp: 5 câu
Kiến thức về sắp xếp người bệnh thích hợp: 3 câu
Kiến thức về xử lí dụng cụ y tế: 5 câu
Kiến thức về xử lí đồ vải: 5 câu
Kiến thức về bảo vệ môi trường: 5 câu
Kiến thức về quản lí chất thải: 5 câu
Thái độ của sinh viên về chương trình đào tạo PNC: 5 câu

2.5. Quá trình nghiên cứu
 Xây dựng đề cương
 Xin ý kiến của phòng quản lí đào tạo học sinh sinh viên trường

Đại học Y Hà Nội, khoa Điều dưỡng- Hộ sinh trường đại học Y
Hà Nội.
 Tiến hành tổ chức lấy danh sách sinh viên

 Tiến hành nghiên cứu thử trên 30 sinh viên lớp Y4L- Cử nhân
điều dưỡng
 Lựa chọn sinh viên ngẫu nhiên dựa trên danh sách có sẵn


24

2.6. Các tính và cho điểm kiến thức, thái độ
Kiến thức của sinh viên được tính là đạt khi sinh viên có tỷ lệ trả lời
đúng trên 70% tổng số câu hỏi về kiến thức PNC.
Thang đo thái độ được sử dụng là thang Likert Scale, chia làm 5 mức
độ, có 5 câu hỏi về thái độ, mỗi câu tối đa 2 điểm, gộp mức rất đồng ý và mức
đồng ý là 2 điểm, không có ý kiến gì 1 điểm, mức không đồng ý và rất không
đồng ý 0 điểm. Sau đó, gộp những cá thể được 2 điểm vào nhóm thái độ tích
cực, nhóm cá thể 1 điểm vào nhóm thái độ trung tính, nhóm còn lại thuộc
nhóm thái độ không tích cực [32].
2.7. Quản lí và phân tích số liệu
 Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê Y học SPSS

20.0.
 So sánh hai biến định tính sử dụng dùng kiểm định khi bình
phương.
 Các phiếu hỏi được lưu trữ tại văn phòng khoa Điều dưỡng- Hộ
sinh trường Đại học Y Hà Nội.
2.8. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu
 Kết quả nghiên cứu chỉ nhằm phục vụ sinh viên. Mọi thông tin

cá nhân của sinh viên luôn được đảm bảo bí mật.
 Đề tài được sự đồng ý của phòng đào tạo đại học trường Đại học
Y Hà Nội, khoa Điều dưỡng- Hộ sinh trường Đại học Y Hà Nội.




25

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1.Thông tin chung của đối tượng
BSĐK

Các thông tin chung

CNĐD

TỔNG

Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
lượng
lệ
lượng
lệ
lượng
lệ
(n=412) (%) (n=412) (%) (n=412) (%)


Nam

169

58.9

14

11.2

183

44.4

Nữ

118

41.1

111

88.8

229

55.6

Năm thứ 2


0

0

28

22.4

28

6.8

Năm thứ 3

92

32.1

48

38.4

140

34

Năm thứ 4

111


38.7

49

39.2

160

38.8

Năm thứ 5

84

29.2

0

0

84

20.4

SV được nhận tài liệu về
PNC

0


0

125

100

125

30.3

SV được đào tào về PNC

0

0

125

100

125

30.3

Giới

Năm thứ

Nhận xét: Trong 412 sinh viên tham gia nghiên cứu có 183 sinh viên
nam (44.4%) và 229 sinh viên nữ (55.6%). Số sinh viên CNĐD tham gia nghiên

cứu là 125 sinh viên (30.3%), tỷ lệ này của nhóm BSĐK là 287 sinh viên
(69.7%). Tỷ lệ nam trong nhóm BSĐK là 58.9% trong khi đó tỷ lệ này trong
CNĐD là 11.2%. 100% sinh viên năm thứ 2 tham gia nghiên cứu là CNĐD,
100% sinh viên năm thứ 5 tham gia nghiên cứu là BSĐK. 100% sinh viên
CNĐD được nhận đào tạo và tài liệu về PNC, tỷ lệ này ở nhóm BSĐK là 0%.


×