Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

SKKN MON GDCD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.47 KB, 8 trang )

1. Lý do chọn đề tài:
Trường THPT Châu Thành đa số học sinh ở vùng sâu, phụ huynh ít quan tâm đến
con em, học sinh xem thường các môn xã hội, nhất là môn GDCD. Ngược lại, môn GDCD
là môn học chủ yếu rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh , đặc biệt là học sinh khối 12. Vì
vậy, người dạy GDCD phải có những biện pháp tối ưu nhất để thu hút học sinh học tốt môn
GDCD làm nền tảng cho các em khi ra đời phải biết sống và làm việc theo hiến pháp và
pháp luật. Cho nên cần phải biết sử dụng nhiều phương pháp tích cực trong tiết học.
Việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong giờ dạy học, các phương pháp dạy học để
kéo người học ra khỏi trạng thái thụ động, tích cực tham gia làm cho việc học, giờ học trở
nên thích thú và hiệu quả hơn, là một mong muốn không riêng bất kỳ người giáo viên nào.
Câu tục ngữ: “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”.
Chính là sự thể hiện tuyệt vời của phương pháp dạy học tích cực mà ngày nay chúng ta
đang trang bị, chia sẻ cho nhau. Mục đích là thực hiện được giờ giảng theo hướng hiện đại
và hơn hết là giờ giảng hiệu quả, mang lại hạnh phúc cho cả người dạy lẫn người học.
Việc thực hành phương pháp dạy tích cực đòi hỏi phải xây dựng một quan hệ tốt
giữa người học và giáo viên - thông qua các phương pháp dạy tích cực người giáo viên
phải có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm, kỹ năng và văn hóa giao tiếp tốt. Chưa kể
là việc dạy và học phải có liên hệ với thực tế … Cách dạy này thực sự là một áp lực nhưng
là một áp lực tích cực nhằm khuyến khích, nâng cao chất lượng dạy và học.
Môn Giáo dục công dân là môn trực tiếp trang bị cho học sinh một cách tổng quát
về nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức, hiểu biết và thực hiện pháp luật trong đời sống.
Nhiệm vụ của chúng ta là dạy học. Nhiệm vụ của học sinh là học những gì chúng ta dạy vì
lợi ích thực tiễn của việc học mang lại cho mỗi con người mà ai cũng biết.
Khi chúng ta thay đổi, các em sẽ thay đổi và cả thế giới sẽ thay đổi theo. Việc chúng
ta sử dụng phương pháp dạy học tích cực là đã “chuyển mình” trong việc “dạy sao” cho
học trò thích học. Chúng ta đã cho bản thân và đồng nghiệp một phương pháp dạy mở, tức
là tùy vào bài học, tình hình học sinh của từng lớp mà chúng ta có “cách dạy” sao cho
thích hợp, lôi cuốn học sinh cùng tham gia vào tiết học, ngay từ bài học, phút học đầu tiên.
2. Cơ sở lý luận của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong môn giáo dục
công dân lớp 12
a. Khái niệm phương pháp dạy học tích cực


Phương pháp dạy học tích cực, hay phương pháp giáo dục chủ động, phương pháp
sư phạm hiện đại … là những cách gọi để chỉ những phương pháp, cách thức, kỹ thuật đề
cao chủ thể nhận thức, chủ yếu phát huy tính tự giác, nhiệt tình chủ động của người học,
làm cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn, người học được tham gia làm việc, được sáng
tạo … giải quyết các vấn đề phù hợp với khả năng hiểu biết của mình, đề xuất ý kiến, tự
nguyện trình bày hay tham gia tranh luận trước tập thể và người dạy.


Thực chất phương pháp dạy học tích cực là hướng tới khả năng chủ động, sáng tạo
của người học chứ không phải hướng tới việc phát huy tính tích cực của người d. người
thầy đóng vai trò là người hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học độc
lậpsuy nghĩ thông qua việc thảo luận, thí nghiệm, thực hành, thâm nhập thực tế theo mục
tiêu, nội dung của bài học, người thầy là người tổng hợp hoạt động, ý kiến của người học
để xây dựng nội dung bài học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực giờ giảng của một giáo viên trở
nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò uy tín của
người thầy được đề cao hơn. Nhờ áp lực của phương pháp dạy học tích cực, khả năng
chuyên môn của người thầy sẽ phải tăng lên bởi kiến thức của từng nội dung bài học phải
được cập nhật liên tục để đáp ứng những tình huống, câu hỏi của người học trong thời đại
thông tin mở rộng và mới mẻ.
Mối quan hệ giữa thầy trò sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp khi cùng làm việc với nhau,
cùng giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung và cuộc sống của người học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực người học sẽ thấy học được học
chứ không bị học. Người học được làm việc, được nói, chia sẻ những kiến thức kinh
nghiệm của mình song song với bổ sung kiến thức, kinh nghiệm từ người dạy, bạn bè.
Cách học này làm tăng khả năng ghi nhớ, vận dụng vào thực tế gấp nhiều lần so với cách
học truyền thống. Từ đó người học được tự tin khám phá năng lực của bản thân mình, có
trách nhiệm, biết chia sẻ và tìm thấy vị trí, giá trị của bản thân với cộng đồng.
Charles Handy, nhà triết lý kinh doanh nổi tiếng người Anh đã nói: “Để làm cho
tương lai trở thành hiện thực, chúng ta cần phải tự tin và tin tưởng vào giá trị của

chính mình. Đó là điều mà các trường học phải dạy cho mọi người”.
Chỉ khi người học tự mình khám phá kiến thức, tự học, tự làm, tự bổ sung cho nhau
thì kiến thức mới trở thành tri thức của người học, chuyển thành hành động, thói quen hàng
ngày của họ.
Khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực, quan hệ thầy trò trong việc dạy và học
cũng đổi khác. Người học trở nên chủ động trong việc học; chủ động tìm kiếm kiến thức,
có thể thu nhận kiến thức không phải chỉ từ người thầy mà còn từ nhiều nguồn khác nữa.
Người thầy trở nên quan trọng hơn vì giữa biển tri thức mênh mông, điều gì cần gạn lọc, sử
dụng và ứng dụng chúng vào cuộc sống, vào công việc, như thế nào … Tất cả những điều
ấy đều cần đến sự hướng dẫn của người thầy. Sự thay đổi quan hệ thầy trò trong việc dạy
và học này yêu cầu người học cần hiểu rõ mình là ai, mình muốn là người như thế nào sau
này và điều gì cần học và muốn học cái gì … Người dạy càng phải phấn đấu, tu dưỡng
nhiều hơn, tự học, tự sáng tạo để có thể đảm nhận và xứng đáng trong vai trò mới mà sự
phát triển của ngành giáo dục đòi hỏi.
Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực là:


Thứ nhất: Dạy học lấy người học làm trung tâm
Vì lẽ cơ bản, học sinh là đối tượng của hoạt động giáo dục, của dạy học, nhà trường
tồn tại là vì học sinh. Bằng hoạt động học tập, người học tự hình thành và phát triển nhân
cách của mình, không ai có thể làm thay được. Vị trí trung tâm của học sinh trong quá trình
học tập cần phải đặt đúng vị trí của nó như đã vốn có. Việc phát huy tính chủ động, tích
cực, khơi dậy tài năng của mỗi một cá nhân học sinh có ý nghĩa không phải chỉ hôm nay
mà còn là hành trang cho các em bước vào cuộc sống sau này … Làm được điều này chỉ có
thể là mọi hoạt động giáo dục - trong đó trọng tâm là việc dạy học, phải được tiến hành có
kế hoạch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của người giáo viên.
Thứ hai: Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Kế hoạch học tập, bài giảng phải được thiết kế trước trong giáo án chứ không phải
thực hiện một cách ngẫu hứng, tùy tiện. Người dạy phải thông báo cho học sinh vào cuối
buổi học những công việc cần chuẩn bị cho giờ học kế tiếp, phân công nhiệm vụ rõ ràng,

để người học phải có tâm thế chuẩn bị, tham gia và hợp tác. Trong khi tiến hành giờ học,
người dạy phải linh hoạt thay đổi các hoạt động cho phù hợp với thực tế giờ học và nội
dung bài học, Nhằm kích thích người học hoạt động tích cực, tạo sự hưng phấn cho giờ
học. Có như thế, mục tiêu dạy học, bài học mới được đảm bảo thành công.
Thứ ba Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học trong dạy học
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta “Về việc học phải lấy tự học làm cốt”.
Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học, khả năng phát hiện và
giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Phương pháp tự học hướng đến việc khơi
dậy khả năng suy nghĩ, làm việc, nắm bắt kỷ cương và con đường đi đến kiến thức mới.
Muốn làm được điều này học sinh buộc lòng phải làm việc nhiều hơn với sách vở (giáo
khoa và sách tham khảo), làm bài tập, tự học ở ngoài trường và lớp … kết hợp với sự giúp
đỡ, hướng dẫn của giáo viên bộ môn. Bồi dưỡng khả năng tự học chính là sự chuẩn bị cần
thiết cho khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn trong việc làm, thực tế sau này của người
học, giúp họ có thể tự tin hòa nhập, tự vượt qua những áp lực, khó khăn, hướng đến tương
lai của bản thân và sự phát triển của tập thể mà họ là thành viên.
Thứ tư: Hoàn thiện học của cá nhân phối hợp với học tập hợp tác tập thể.
Những tri thức mà học sinh khám phá dễ mang tính chủ quan, phiến diện, do vậy
các em cần trao đổi, hợp tác tri thức cá nhân được kiểm nghiệm tăng tính khách quan và
khoa học. Đồng thời tạo thói quen giao tiếp, khả năng thuyết phục, lắng nghe, nói trước
đám đông … ý thức hợp tác, chia sẻ và tính kỷ luật …
Dạy học thông qua hợp tác tạo nên quan hệ bình đẳng giữa người học và môi trường
học tập an toàn là điều kiện để xây dựng tình bạn, tính cạnh tranh lành mạnh, thói quen
chia sẻ, tính trách nhiệm. Xây dựng quan hệ thầy - trò - bạn bè tốt đẹp không chỉ lúc còn đi
học mà cả trong cuộc sống và công việc sau này.


Thứ năm: Kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò
Trong quá trình dạy học, đánh giá học sinh là rất quan trọng để giáo viên nắm bắt
được thực trạng học tập của học sinh và điều chỉnh việc dạy sao cho phù hợp hơn, đạt kết
quả cao hơn. Với phương pháp dạy học tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh biết tự

đánh giá khả năng, sự hiểu biết của mình để điều chỉnh việc học; giáo viên phải tạo điều
kiện thuận lợi để người học được tham gia, và biết cách đánh giá bản thân. Thông qua việc
đánh giá khích lệ nhau, nhận ra được ưu điểm và hạn chế của từng cá nhân để khắc phục,
đánh giá việc học tập phải dựa trên tiêu chuẩn văn hóa đánh giá tức là tìm ra được ưu điểm
và đề nghị được giải pháp sửa chữa khuyết điểm … Có làm được điều này thì phương pháp
dạy học tích cực với đặc trưng thứ năm là đánh giá việc học - người học mới thực sự có ý
nghĩa.
Tuy nhiên khi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực chúng ta cũng gặp một số
trở ngại như: Lớp học đông không áp dụng được phương pháp mới, người học lười phát
biểu, thụ động, sợ không đủ thời gian, cháy giáo án. Người học thì e dè, ngại làm việc, chỉ
thích nghe ghi, ngại đứng dậy phát biểu trước lớp, sợ thầy áp dụng phương pháp mới, kiến
thức không được cô đọng lại rõ ràng mà thi lại tiến hành theo kiểu học cũ … Để khắc phục
những trở ngại này phải có thời gian để người dạy thực hành và rút kinh nghiệm … Trước
mắt có thể thực hiện những điều sau để có giờ giảng thành công như:
Tìm hiểu kỹ về người học, đặc biệt là nhu cầu, mong đợi của họ đối với môn học
của mình phụ trách để lựa chọn phương pháp phù hợp.
Chuẩn bị kỹ bài giảng: Chọn thông điệp ý nghĩa nhất để chuyển tải nội dung. Tốt
nhất bài giảng nên tuân theo quy tắc số 3: Chia bài giảng thành 3 phần, mỗi phần 3 ý …
cùng với các ví dụ, tư liệu minh họa cụ thể, sinh động.
Giao tiếp với người học: Tôn trọng và là người bạn cùng với thái độ thân thiện, lịch
sự, nhẹ nhàng, sự khuyến khích sẽ cho người thầy rất nhiều cơ hội để mở rộng tâm hồn và
trí tuệ của người học …
Rút kinh nghiệm sau từng giờ giảng. Về nội dung bài giảng, phong cách, ứng xử của
giáo viên … Bằng cách xin nhận xét của học trò qua phiếu không ghi tên …
b. Phương pháp dạy học tích cực thường được vận dụng trong chương trình
Giáo dục công dân lớp 12:
Hiện nay có rất nhiều biện pháp để thực hiện phương pháp dạy học tích cực, có thể
sử dụng vào tất cả các bài dạy trong chương trình giáo dục công dân ở cấp trung học như:
-


Biện pháp kích thích động não.

-

Biện pháp xử lý tạo tình huống.

-

Biện pháp thảo luận nhóm.

-

Biện pháp đóng vai.

-

Biện pháp vấn đáp (đàm thoại)


- Biện pháp nêu vấn đề.
Không biện pháp nào được coi là tối ưu cho cả một bài học, tiết học. Do đó việc lựa
chọn, kết hợp và sử dụng biện pháp nào là phụ thuộc rất lớn vào vai trò Người thầy – Mục
đích là trao kiến thức, tránh nhàm chán và tạo nên sự yêu thích. “Dạy học là phải chạm
được vào tâm hồn và trái tim người học”.
+ Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
trong môn giáo dục công dân lớp 12.
- Cơ sở triết học: Theo quan điểm triết học Mác Lênin, bản chất con người là tổng
hòa mối quan hệ xã hội. Trong các yếu tố hình thành nên bản chất con người, giáo dục có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Vì vậy để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực cần
tạo ra hoàn cảnh môi trường tự nhiên và môi trường xã hội có thể tác động đến con người,

giúp con người được giáo dục theo nhiều phương diện khác nhau, từ hoạt động nhận thức
thực tiễn đến quan hệ ứng xử, điều chỉnh hành vi … Tóm lại là các khả năng hướng đến sự
phát triển toàn diện của người công dân mới theo yêu cầu của xã hội.
Giáo dục công dân là môn học có đặc điểm tri thức mang tính khái quát hóa và trừu
tượng cao. Chương trình giáo dục công dân tập trung khá nhiều nội dung liên quan đến các
phân môn khác, chứa đựng kiến thức các môn khoa học khác nhau. Ở trường trung học phổ
thông môn giáo dục công dân trực tiếp trang bị cho học sinh một cách tổng quát về nhận
thức tư tưởng chính trị, đạo đức và ý thức pháp luật. Mục tiêu này hình thành nội dung cơ
bản của sách giáo khoa các cấp học; là môn học được xem là “khó, khô, khổ” đối với cả
người dạy lẫn người học, do đó việc giáo viên biết sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực để đưa những nội dung rất khái quát ấy vào thực tiễn đời sống giúp học sinh tiếp cận,
nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản môn giáo dục công dân để dần dần hình thành cho
bản thân thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận khoa học, giúp học sinh nâng cao
hiệu quả quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn của bản thân.
- Cơ sở tâm lý giáo dục học:
Đối với môn giáo dục công dân “mục tiêu dạy người” luôn được xác định là quan
trọng nhất, luôn ở vị trí hàng đầu trong việc định hướng, phát triển nhân cách, tâm hồn của
học sinh. Mỗi học sinh là một chủ thể của sự phát triển nhân cách, phát triển xã hội. Trong
giai đoạn hiện nay vì nguyên nhân khác nhau, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ học sinh, sinh viên đã đặt ra cho xã hội và ngành giáo dục (đặc biệt
là ở bộ môn giáo dục công dân) phải có những biện pháp, giải pháp để góp phần điều chỉnh
những suy nghĩ, nhận thức, hành vi lệch chuẩn đó.
Với những kết quả nghiên cứu tâm sinh lý và điều tra xã hội học gần đây cho thấy ở
lứa tuổi trung học, học sinh không thỏa mãn với vai trò người tiếp thu thụ động, chấp nhận
giải pháp có sẵn mà các em có ham muốn, một yêu cầu là được lĩnh hội độc lập các tri thức
và được phát triển kỹ năng cá nhân. Đó là một yêu cầu đặt ra cho ngành giáo dục nói chung


và môn giáo dục công dân nói riêng. Chỉ có thay đổi phương pháp dạy học tích cực mới có
thể phát huy những điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu về đặc điểm tâm sinh lý của

học sinh bậc trung học, mang lại hiệu quả dạy học cao hơn, tạo sự yêu thích, thoải mái cho
cả người dạy lẫn người học.
Luật giáo dục, điều 28, khoản 2, 2005 chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Do vậy, cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới tạo thói quen chủ động học tập,
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo. Người học sinh được rèn luyện, tu
dưỡng có thể tự tin, nhạy bén trước những thay đổi của cuộc sống, cuộc đời, giúp ích, giúp
sức cho bản thân học sinh là sự phát triển của xã hội.
Chương trình giáo dục công dân với tên gọi “Công dân với pháp luật”, đây là sự
phát triển tiếp nối phần pháp luật ở môn GDCD cấp trung học cơ sở, cung cấp những hiểu
biết cơ bản về bản chất, vai trò, vị trí của pháp luật nhằm giúp học sinh chủ động, tự giác
điều chỉnh hành vi của mình, đánh giá được hành vi của người khác theo quyền và nghĩa
vụ của người công dân trong xã hội dân chủ và công bằng.
Nhiệm vụ môn GDCD lớp 12 là nhận biết được vai tò và giá trị cơ bản của pháp luật
đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi công dân xã hội và nhà nước. Hiểu được một số nội
dung của pháp luật liên quan đến việc thực hiện và bảo vệ quyền bình đẳng - tự do - dân
chủ và phát triển của công dân trong đời sống.
Nội dung học phần lớn đã gắn kết thực sự với thực tế đời sống xã hội. Mục đích của
dạy học là nhằm tạo ra sự nhất quán giữa nhận thức và hành động, lời nói và hành vi. Do
vậy, việc người giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực chính là những thực
hành bước đầu để gắn lý thuyết về những chuẩn mực người công dân cần đạt tới với đời
sống sinh động được kiểm chứng và khẳng định. Có thế nội dung bài học không còn là
những tri thức xa xôi, khô khan mà là những kiến thức, tình huống, bài học từ cuộc sống
sinh động gắn bó mà các em có thể nhìn thấy trong cuộc sống hàng ngày.
+ Ba phương pháp dạy học tích cực thường được sử dụng nhất trong dạy học
môn giáo dục công dân lớp 12:
* Phương pháp động não: là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian

ngắn nảy sinh được những ý tưởng hay giả định về một vấn đề nào đó.
Trong môn giáo dục công dân, phương pháp này được dùng để giới thiệu chủ đề của
bài học trên cơ sở so sánh và lựa chọn kết quả trả lời của học sinh hoặc dùng để thu thập
vác phương án giải quyết vấn đề có liên quan đến nội dung bài học đã được nêu ra trước
đó.


Phương pháp động não, hướng đến mục đích phát triển người học những phẩm chất
hoạt động độc lập, đặc biệt là khả năng sáng tạo. Mặt khác kết quả của hoạt động động não
là những ý tưởng, giải pháp mới mẻ của người học, phương pháp này tạo thói quen độc lập
suy nghĩ cho người học và người dạy, qua đó có thể thu thập được thêm những điều bổ ích,
ý tưởng mới.
Phương pháp động não có thể được tiến hành theo trình tự sau:
-

Giáo viên nêu chủ đề hoặc câu hỏi trước lớp hoặc nhóm

-

Đề nghị người học đặt câu hỏi.

-

Thu thập câu hỏi, câu trả lời.

-

Khuyến khích học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.

-


Liệt kê tất cả các ý kiến lên bảng hoặc giấy khổ lớn, không bỏ sót ý kiến nào, trừ
trường hợp trùng lặp.

-

Phân loại các ý kiến, làm rõ những ý kiến chưa rõ ràng.

- Tổng hợp ý kiến của học sinh và rút ra kết luận.
+ Ưu điểm của phương pháp động não là:
Giáo viên dễ dàng soạn câu hỏi, dễ thực hiện không tốn kém, đồng thời huy động
được tối đa trí tuệ của tập thể trong quá trình tìm kiếm thông tin của câu trả lời. Tạo được
không khí sôi nổi, vui vẻ nhờ thái độ tham gia phản hồi một cách tích cực của người học,
sự di chuyển của giáo viên trong lúc hỗ trợ các nhóm, cá nhân làm việc …
+ Nhươc điểm của phương pháp động não là:
Có thể mất nhiều thời gian nếu lớp học đông, học sinh thụ động, ít quan tâm, các ý
kiến trả lời có thể nhiều trùng lắp, tản mạn hoặc lạc đề. Hiệu quả của phương pháp động
não chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp ý tưởng chứ chưa bồi dưỡng được năng lực tư duy
phân tích, chứng minh hay tổng hợp của học sinh.
+ Yêu cầu đối với người giáo viên khi sử dụng phương pháp động não là:
Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm và quản lý được thời gian theo phân phối nội dung:
Câu hỏi phải ngắn, gọn rõ ràng, không quá rộng hay quá hẹp không nhằm mục đích
cung cấp kiến thức cơ bản mà hướng đế mở mang và đào sâu kiến thức.
Giáo viên phải chủ động điều khiển buổi học, là người tổng kết câu hỏi và câu trả
lời, ghi tóm tắt kiến thức chuẩn lên bảng hoặc giấy khổ lớn để học sinh theo dõi tiến trình
bài học. Tiếp tục chuyển ý vào nội dung tiếp theo của bài học.
* Phương pháp thảo luận nhóm:
Đây là phương pháp hữu hiệu nhất để khuyến khích sự sáng tạo và tích cực tham gia
của mọi thành viên. Học sinh sẽ chủ động chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải
quyết vấn đề được đặt ra, qua đó đạt mục đích dạy học. Học sinh sẽ hưởng ứng, nhiệt tình,



hợp tác, thu được kết quả kích thích tư duy sáng tạo và tạo điều kiện để các em thể hiện
mình.
Phương pháp thảo luận nhóm có thể tiến hành theo trình tự sau:
-

Giáo viên nêu chủ đề, yêu cầu, quy định thời gian thực hiện

-

Chia nhóm từ 4 đến 10 người theo cách ngẫu nhiên hay thuận tiện theo điều kiện
lớp học. Gọi tên nhóm (để tạo bầu không khí nhóm tự đặt hay giáo viên chỉ định)

-

Cử trưởng nhóm, thư ký và thực hiện công việc của nhóm. Ghi chép (giấy khổ
lớn hay cử người trình bày trước tập thể)

- Giáo viên tổng kết, bổ sung.
Ưu điểm của phương pháp làm việc nhóm:
Chủ đề được xác định rõ, địh hướng nhiệm vụ của nhóm. Đưa ra được giải pháp, lời
kêu gọi hành động từ kết quả hoạt động của nhóm.
Mọi thành viên của nhóm đều phải hoạt động và nhận kết quả đánh giá chung của
giáo viên trên cơ sở kết quả đã đạt được và có sự so sánh với nhóm khác. Kiến thức trở nên
bền vững, bớt tính chủ quan, học sinh biết lắng nghe và phê phán để bảo vệ ý kiến của
mình, của nhóm.
Nhược điểm
Đòi hỏi tốn nhiều thời gian, người học phải rất tập trung và có tinh thần trách nhiệm
với tập thể cao. Thời gian 45 phút của một tiết học là một khó khăn lớn cho sự thành công

của phương pháp làm việc nhóm.
Nếu tổ chức kém (nhất là cộng thêm lớp học yếu, mất trật tự, học sinh quá hiếu
động thì thảo luận nhóm chưa được tập luyện dễ gây hỗn loạn (ngay trong một nhóm hay
giữa các nhóm nhau) dẫn đến học sinh không quan tâm, làm việc riêng hay phát sinh sự
mâu thuẫn, đối địch và giận dữ.
Sự hăng hái hay thụ động quá mức của các nhóm sẽ gây khó khăn cho sự quản lý,
điều khiển của giáo viên.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×