Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ điều TRỊ LIỆT dây THẦN KINH VII NGOẠI BIÊN DO LẠNH BẰNG PHƯƠNG PHÁP ôn CHÂM kết hợp THUỐC cổ TRUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 69 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

DƯƠNG THỊ MAI HUYỀN

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ LIỆT DÂY THẦN
KINH VII NGOẠI BIÊN DO LẠNH BẰNG
PHƯƠNG PHÁP ÔN CHÂM KẾT HỢP THUỐC
CỔ TRUYỀN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ Y HỌC CỔ TRUYỀN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ TÂN

Huế, Năm 2016


Lời Cảm Ơn
Hồn thành luận văn tốt nghiệp, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban Giám hiệu, Phịng Đào tạo Đại học, các bộ mơn, Q thầy cơ Trường Đại
học Y Dược Huế đã tận tình giảng dạy và truyền đạt cho tôi những kiến thức và
kinh nghiệm quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Ban chủ nhiệm, Quý thầy cô trong khoa Y học cổ truyền - Bệnh viện Trung
Ương Huế, Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Thừa Thiên Huế đã giúp đỡ, tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực tập, thu thập số liệu trong thời
gian thực hiện đề tài.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến cơ giáo Phó Giáo sư Tiến sĩ
Nguyễn Thị Tân người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tận tình và truyền đạt cho
tơi những kiến thức q báu trong q trình học tập cũng như để hồn thành luận
văn này.


Cuối cùng tơi xin gửi lịng biết ơn đến gia đình, bạn bè, những người ln ở
bên cạnh tơi, đã dành cho tơi sự động viên khích lệ, nâng đỡ dìu dắt và cùng tơi chia
sẻ mọi khó khăn trong học tập cũng như mọi niềm vui, những vất vả trong cuộc
sống hằng ngày.
Tôi xin ghi nhận những tình cảm và cơng lao đó.
Huế, ngày 05 tháng 5 năm 2016
Dương Thị Mai Huyền
-


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số
liệu thu được trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ một
luận văn nào khác.
Tác giả

Dương Thị Mai Huyền


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

PP
TDKMM
YHCT
YHHĐ
RL

:
:

:
:
:

Phương pháp
Tác dụng không mong muốn
Y học cổ truyền
Y học hiện đại
Rối loạn


MỤC LỤC
Trang


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang


DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, SƠ ĐỒ
Trang


9

ĐẶT VẤN ĐỀ


Liệt dây thần kinh VII ngoại biên y học cổ truyền gọi là “Khẩu nhãn oa tà”.
Bệnh xảy ra ở mọi giới, mọi lứa tuổi, nhưng đa số gặp ở tuổi thanh niên. Nguyên
nhân thường do lạnh, nhiễm trùng, chấn thương, u hoặc các rối loạn trong xương đá
nhưng chủ yếu là nguyên nhân do lạnh chiếm 60% [27], [28], [30]. Bệnh khơng
nguy hiểm đến tính mạng nhưng ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt, tâm lý, thẩm mỹ,
làm hạn chế khả năng lao động, hạn chế quan hệ xã hội của người bệnh. Vì vậy,
việc phát hiện sớm và điều trị sớm căn bệnh này nhằm phục hồi lại khả năng làm
việc và sinh hoạt của bệnh nhân là vấn đề quan trọng và cần thiết [4].
Về phương diện điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh, y học hiện
đại đã áp dụng các phương pháp chiếu tia hồng ngoại hoặc sóng ngắn, thuốc
corticoid và vitamin, phẫu thuật…[7], [9], [17], [20]. Nhược điểm của các phương
pháp này là giá thành cao, đặc biệt corticoid có ảnh hưởng đến dạ dày, gan, thận,
xương, huyết áp…Vì thế Tổ chức Y tế Thế Giới đã khuyến cáo cần nghiên cứu sử
dụng các phương pháp Y học cổ truyền trong điều trị để vừa hạ giá thành vừa tránh
được tai biến do dùng thuốc.
Y học cổ truyền có nhiều phương pháp để điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại
biên do lạnh như: uống thuốc, cao dán, cứu, ôn châm, điện châm, điện cực dán, thủy
châm, laser châm, từ châm, dán thuốc lên huyệt, xoa bóp bấm huyệt…[2], [3], [4],
[17].
Đa số các trường hợp liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh điều trị bằng
phương pháp châm cứu đem lại kết quả tốt [15], [34]. Ôn châm là một phương pháp
điều trị có tác dụng kết hợp giữa châm và cứu, được áp dụng nhiều trong điều trị và
thường sử dụng trong các trường hợp bệnh có tính thiên hàn, thích hợp sử dụng
trong điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh [4], [5]. Hơn nữa, một số tác
giả cho rằng điện châm chỉ nên bắt đầu từ ngày thứ 3 - 4 vì kích thích sớm có thể


10


chuyển sang co cứng các cơ ở mặt bên liệt [9], [20]. Phương pháp cứu cũng được
khuyến cáo không nên sử dụng để tránh gây sẹo ở mặt [3], [4], [17], [20].
Xuất phát từ nhận xét trên và nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của bệnh nhân
làm sao cho chóng khỏi để có khn mặt trở lại bình thường không ảnh hưởng đến
sinh hoạt, thẩm mỹ. Mặt khác để thừa kế và phát huy tiềm năng của y học cổ truyền
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả điều trị liệt dây thần
kinh VII ngoại biên do lạnh bằng phương pháp ôn châm kết hợp thuốc cổ
truyền” với các mục tiêu sau:
1. Đánh giá hiệu quả điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh bằng
phương pháp ôn châm kết hợp thuốc cổ truyền.
2. Khảo sát các tác dụng không mong muốn của phương pháp ôn châm trên
bệnh nhân nghiên cứu.


11

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. LỊCH SỬ PHÁT HIỆN VÀ ĐIỀU TRỊ LIỆT DÂY THẦN KINH VII
NGOẠI BIÊN
Liệt dây thần kinh sọ não số VII (còn được gọi là liệt mặt hay liệt dây thần
kinh mặt) biểu hiện với các triệu chứng nhắm mắt khơng kín, khơng nhe răng, ht
sáo được, có thể kèm theo khơ mắt, chảy nước mắt, khô miệng và mất vị giác một
bên lưỡi, đau sau tai [8].
Bệnh được biết từ thời cổ xưa trong các tác phẩm thời cổ La Mã, người ta đã
mô tả các triệu chứng chính và nguyên nhân liệt của các dây thần kinh đi từ các đốt
sống cổ đến mặt và phân biệt liệt không nguyên nhân (vô căn) với liệt triệu chứng.
Năm 600, Paulus Aegintata mô tả chi tiết liệt mặt và là người đầu tiên khâu
sụn mi trong liệt mặt.

Năm 1792, Frank mơ tả chính xác liệt mặt.
Sau đó, năm 1852 Charles Bell (Scotlen) đã hiệu đính lại những điểm mấu
chốt và là người đầu tiên mô tả phương pháp (PP) lâm sàng khám vận động các cơ
mặt và dấu hiệu mang tên ông - dấu hiệu Charles - Bell.
Năm 1835, Berard nhấn mạnh vai trò của sự nhiễm lạnh trong liệt mặt và là
người đầu tiên nhận định liệt mặt là do cơ chế thắt nghẹt dây thần kinh trong ống
xương đá.
Năm 1907, Ramsay Hunt là người đầu tiên tìm ra trong dây thần kinh mặt cịn
có các sợi cảm giác mà từ trước không ai để ý tới.
Đến nay, Baillance và Duel với các cơng trình mở rộng chỉ định phẫu thuật liệt
mặt, những hiểu biết về dây thần kinh VII đã được các nhà vi phẫu thuật hiện đại
công nhận [9].


12

1.2. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU - SINH LÝ CỦA DÂY THẦN KINH SỌ NÃO
SỐ VII
1.2.1. Dây thần kinh sọ não số VII
Dây thần kinh sọ não số VII là dây hỗn hợp, có đầy đủ chức năng của một dây
thần kinh ngoại vi (vận động, cảm giác, thực vật, dinh dưỡng, phản xạ) [7], [9],
[20].
Dây thần kinh VII gồm có 4 nhân: 1 nhân vận động, 1 nhân cảm giác, 2 nhân
thực vật là nhân lệ tỵ và nhân bọt trên.
Đường đi của dây thần kinh VII có thể chia thành 3 đoạn:
- Đoạn trong sọ: Từ rãnh hành cầu, dây thần kinh VII thoát ra khỏi não, đi qua
màng não và đi vào xương đá qua lỗ tai trong. Ngay ở đoạn trong sọ dây thần kinh
VII cũng có đoạn trong não và trong màng não.
- Đoạn trong xương đá: Sau khi qua lỗ tai trong, dây thần kinh VII vào ống
Fallop. Ở ống tai trong dây thần kinh VII có dây thần kinh VIII đi kèm, nó nằm trên

dây thần kinh VIII rồi chui vào hố trước trên của đáy ống tai. Ở trong xương đá, dây
thần kinh VII lần lượt tách ra 3 nhánh là nhánh đá nông lớn (điều khiển việc tiết lệ),
nhánh cơ bàn đạp (phân bố vận động cho cơ bàn đạp) và thừng nhĩ (đảm nhiệm việc
tiết nước bọt từ các tuyến dưới hàm, dưới lưỡi và chức năng cảm giác vị giác của
2/3 trước lưỡi cùng bên).
- Đoạn ngoài xương đá (đoạn ngoài sọ) dây thần kinh VII chui qua lỗ trâm
chũm ra ngoài sọ. Sau khi ra khỏi sọ, dây thần kinh VII đi qua giữa hai thùy của
tuyến mang tai và phân ra thành hai nhánh tận là nhánh thái dương - mặt và nhánh
cổ - mặt. Đây là hai nhánh thuần vận động, phân bố cho cơ bám da mặt và bám da
cổ.
+ Nhánh thái dương - mặt (hay còn gọi là nhánh trên) phân bố cho các cơ nằm
bên trên mặt, trong đó có ba cơ quan trọng là cơ trán, cơ mày và cơ vòng mi mắt.
+ Nhánh cổ - mặt (hay còn là nhánh dưới) phân bố cho các cơ nằm bên dưới
mặt, trong đó quan trọng là cơ vòng miệng và xa hơn nữa dây thần kinh VII phân
nhánh xuống tới tận cơ bám da cổ.
Đường đi của các nhánh chức năng:
- Dây thần kinh VII cảm giác:


13

+ Nhận cảm giác vị giác 2/3 trước lưỡi, tính từ đầu lưỡi đến cuống lưỡi lần
lượt nhận biết cảm giác ngọt rồi đến mặn, chua và đắng.
+ Cảm giác 1/3 giữa vành tai, ống tai ngoài và màng nhĩ.
+ Đường đi: Các sợi cảm giác ban đầu lẩn vào dây lưỡi qua nhánh của dây
hàm dưới, sau đó qua thừng nhĩ, tới hạch gối và lên 1/3 trên nhân đơn độc ở hành
não.
- Dây thần kinh VII thực vật (dây VII phẩy): Sợi phó giao cảm có cả trong dây
thần kinh VII và dây thần kinh VII phẩy.
+ Sợi phó giao cảm của dây thần kinh VII đi từ nhân lệ tỵ tới hạch gối tách

thành dây đá nông lớn tới hạch bướm khẩu cái, đi qua dây bướm khẩu cái tới tuyến
lệ, tuyến niêm mạc miệng - mũi - hầu.
+ Phần phó giao cảm của dây thần kinh VII phẩy đi từ nhân bọt trên qua dây
thần kinh VII phẩy tới hạch gối, sau đó qua dây thần kinh VII tới thừng nhĩ, đi theo
dây lưỡi và hạch dưới hàm, dưới lưỡi vào các tuyến nước bọt dưới hàm, dưới lưỡi
[8].


14

Hình 1.1. Thần kinh sọ não số VII [21]
1.3. LIỆT DÂY THẦN KINH VII NGOẠI BIÊN THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI
1.3.1. Nguyên nhân gây bệnh
Có nhiều nguyên nhân [9], [20]:
- Do lạnh: Hay gặp nhất, nguyên phát, thường sau khi bệnh nhân bị nhiễm
lạnh, chỉ có liệt mặt đơn thuần, khơng có dấu hiệu thần kinh khác.


15

- Do viêm nhiễm: viêm nhiều rễ thần kinh, viêm dây thần kinh VII, viêm tai
xương chũm, zona hạch gối…
- Do sang chấn: chấn thương vỡ nền sọ, chấn thương xương đá, tai biến sản
khoa do đặc forceps, tai biến sau phẫu thuật tai.
- Do khối u: u góc cầu tiểu não, u dây thần kinh VII, u tai xương chũm.
1.3.2. Cơ chế bệnh sinh liệt dây thần kinh VII ngoại biên [9]
Y học hiện đại (YHHĐ) có nhiều giả thuyết khác nhau về cơ chế bệnh sinh liệt
dây thần kinh VII ngoại biên, song các tác giả tập trung vào hai thuyết, đó là thuyết
thiếu máu và thuyết Lympho.
1.3.2.1. Thuyết thiếu máu

Khi tổn thương dây thần kinh VII, người ta nhận thấy kèm rối loạn thị lực bên
liệt, co thắt động mạch thái dương và có tăng nhãn áp. Về sau các tác giả khác còn
nhận thấy một triệu chứng nữa là đau sau tai đối với liệt dây thần kinh VII đột ngột.
Theo Blunt, liệt dây thần kinh VII có biểu hiện trương dây thần kinh và dây
căng màng nhĩ cùng với đám chảy máu ở trên mặt và những thối hóa sợi fibrin mà
khơng có dấu hiệu viêm. Trạng thái này thường chỉ xảy ra do thiếu máu. Theo ông,
thiếu máu đưa tới thiếu oxy và các quá trình này ngày càng tăng dần dẫn đến những
biến đổi không hồi phục.
1.3.2.2. Thuyết Lympho
Funchs thấy các hạch lympho to lên ở vùng lỗ trâm - chũm và đè ép vào dây
thần kinh VII. Ngay chính Bell cũng mơ tả viêm hạch Lympho khu trú ở cổ bên liệt
hoặc ở cả hai bên.
1.3.3. Triệu chứng lâm sàng liệt dây thần kinh VII ngoại biên
Biểu hiện lâm sàng của liệt dây thần kinh VII ngoại biên (thể điển hình) là tình
trạng mất cân đối hai bên mặt [3], [7], [9], [20].
Khi tĩnh: Quan sát thấy mặt không cân đối hai bên, lông mày bên liệt hơi hạ
thấp xuống, nếp nhăn mũi má mờ hoặc mất, nhân trung lệch về bên lành nên miệng
méo về bên lành, mép bên bệnh xệ xuống.
Khi bệnh nhân (BN) làm các động tác, tình trạng mất cân xứng của mặt tăng
lên rõ hơn:


16

- Người bệnh nhăn trán: mờ hoặc mất nếp nhăn trán bên liệt.
- Người bệnh nhắm mắt:
+ Nếu liệt nhẹ: mắt bên liệt có dấu hiệu Souques (lơng mi bên liệt dài hơn bên
lành khi hai mắt nhắm chặt).
+ Nếu liệt nặng: mắt bên liệt có dấu hiệu Charles - Bell (khi nhắm mắt, mắt
bên liệt nhắm khơng kín, nhìn thấy nhãn cầu chạy lên trên và ra ngoài để lộ rõ củng

mạc giữa hai khe mi).
- Khi nhe răng hoặc cười: miệng méo rõ về bên lành.
- Khó hoặc khơng chúm miệng thổi lửa được.
- Khó hoặc khơng ngậm hơi, phồng má được.
- Khi thè lưỡi: lưỡi lệch về bên lành (do miệng méo sang bên bệnh).
- Ăn cơm, uống nước: rơi vãi ra mép bên liệt.
Biểu hiện lâm sàng của liệt dây thần kinh VII ngoại biên nói chung đều có các
triệu chứng như trên. Nhưng tùy vào vị trí tổn thương xảy ra ở nơi nào của dây thần
kinh VII mà có thêm các triệu chứng khác:
- Tổn thương dây thần kinh VII ở trên chỗ tách dây đá nông lớn và dây thừng
nhĩ: liệt các cơ mặt, khô mắt, giảm tiết nước bọt, giảm vị giác hai phần ba trước
lưỡi.
- Tổn thương trong xương đá:
+ Trước dây thần kinh cơ bàn đạp: liệt các cơ mặt, nghe vang đau, hay chảy
nước mắt, mất vị giác hai phần ba trước lưỡi.
+ Trước dây thừng nhĩ: liệt các cơ mặt, mất vị giác hai phần ba trước lưỡi,
chảy nước mắt.
- Tổn thương sau khi dây thần kinh VII ra khỏi lỗ trâm - chũm (sau chỗ tách
của dây thừng nhĩ): liệt các cơ mặt theo từng nhánh khác nhau, không rối loạn tiết
nước mắt, nước bọt, không giảm vị giác hai phần ba trước lưỡi [7], [20].
1.3.4. Điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên theo y học hiện đại [7],
[17], [20]
Tùy theo nguyên nhân, bệnh sinh, mức độ tổn thương và giai đoạn bệnh mà
điều trị cụ thể có khác nhau. Đối với các trường hợp không rõ nguyên nhân hoặc do
lạnh, thường điều trị như sau:
- Vitamin nhóm B liều cao: B1, B6, B12.
- Corticoid: Predinisolon liều 0,5 - 1 mg/kg/ngày, dùng một đợt 5 - 10 ngày.
Nếu thể nặng có thể 60 - 80 mg/ngày trong 10 - 14 ngày, sau đó hạ dần liều.



17

- Methylcobalamin 500 mg, tuần 3 lần, sau chuyển uống 40 mg/ngày.
-Thuốc dãn mạch: Papaverin 40 mg, 4 viên/ngày, Fonzylan 300 mg/ngày.
- Khơng được dùng strychnin vì dễ chuyển sang thể co cứng.
- Bảo vệ mắt bên liệt chống gió bụi làm viêm giác mạc (do nhắm khơng kín)
bằng đeo kính râm lót gạc sạch bên trong.
- Điều trị bằng phẫu thuật trong các trường hợp điều trị nội khoa khơng có kết
quả.
1.4. LIỆT DÂY THẦN KINH VII NGOẠI BIÊN THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN
Các triệu chứng chính của liệt dây thần kinh VII ngoại biên được y học cổ
truyền (YHCT) mô tả đầy đủ trong chứng “Khẩu nhãn oa tà”: mặt mất cân đối rõ
rệt, bên liệt không nhăn trán được, lông mày hơi xệ xuống, mắt nhắm không kín,
khơng làm được động tác phồng má, mím mơi hoặc cười miệng bị kéo lệch sang
bên lành, ăn uống rơi vãi ở mép miệng bên liệt. Tùy theo nguyên nhân mà có mạch
và chất lưỡi khác nhau [17].
1.4.1. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh [2], [18]
1.4.1.1. Phong hàn
Là nguyên nhân thường gặp nhất, hay xảy ra vào mùa Đông Xuân. Bệnh do
phong hàn xâm phạm vào lạc mạch của ba kinh dương ở mặt làm cho sự lưu thơng
kinh khí khơng bình thường, khí huyết khơng điều hịa, kinh cân thiếu dinh dưỡng
không co lại được gây nên.
1.4.1.2. Phong nhiệt
Tương ứng với thể liệt dây thần kinh VII ngoại biên do nhiễm trùng của
YHHĐ (viêm tai giữa, viêm tai xương chũm…). YHCT gọi là trúng phong nhiệt ở
kinh lạc, làm khí huyết khơng điều hịa gây liệt.
1.4.1.3. Huyết ứ
Tương ứng với thể liệt dây thần kinh VII ngoại biên do sang chấn, tức là do
sang chấn gây huyết ứ, dẫn đến bế tắc kinh lạc gây liệt.
1.4.2. Các thể lâm sàng liệt dây thần kinh VII ngoại biên theo y học cổ

truyền [4], [18], [31]
1.4.2.1. Trúng phong hàn ở kinh lạc


18

Triệu chứng tại chỗ: Sau khi bị lạnh xuất hiện miệng méo, mắt nhắm khơng
kín, khó thổi lửa, ht sáo, ăn uống nước trào ra bên liệt, nhai cơm đọng lại ở má
bên liệt, nhai khó khăn, nhân trung liệt về bên lành, rãnh mũi má mất.
Tồn thân: sợ gió, sợ lạnh, gai rét, tiểu tiện bình thường hoặc trong dài, rêu
lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn.
1.4.2.2. Trúng phong nhiệt ở kinh lạc
Triệu chứng tại chỗ giống thể phong hàn.
Toàn thân: sốt, sợ gió, tiểu tiện vàng, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng,
mạch phù sác.
1.4.2.3. Huyết ứ ở kinh lạc
Triệu chứng tại chỗ như thể trên.
Nguyên nhân thường do chấn thương như sau ngã, sau phẫu thuật vùng tai,
vùng xương chẩm, nhổ răng…
1.4.3. Điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên theo y học cổ truyền [2],
[3], [4], [17]
YHCT có rất nhiều PP điều trị chứng Khẩu nhãn oa tà:
- Các PP không dùng thuốc: Cứu, hào châm, điện châm, điện cực dán, ôn
châm, thủy châm, xoa bóp bấm huyệt.
- Các PP dùng thuốc: bơi, uống, xông, xoa, đắp…, bằng các chế phẩm dược
liệu.
Hiện nay, PP thường được sử dụng điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên là
châm cứu và thuốc thang.
1.4.4. Tình hình nghiên cứu điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên do
lạnh ở trong nước và trên thế giới

Nghiên cứu của Đinh Văn Đính và cộng sự (1999) [10] điều trị 34 bệnh nhân
liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh bằng điện cực hút thu được tỷ lệ khỏi và
đỡ sau khi điều trị là 73,6%.
Nghiên cứu của Trần Quốc Hiếu và Tarasenco tại Viện Y học cổ truyền Việt
Nam trong thời gian 2001 - 2002 trên 34 bệnh nhân liệt dây thần kinh VII ngoại


19

biên do lạnh cho thấy điều trị ôn điện châm kết hợp xoa bóp có 73,53% số bệnh
nhân có tiến triển tốt [13].
Theo nghiên cứu của Hà Thị Hương Giang, Phạm Ngọc Hùng (2002) [11] trên
30 bệnh nhân liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh bằng PP điện châm kết hợp
thuốc thang cho thấy có 53,33% đạt kết quả tốt, 26,67% đạt kết quả khá, 16,67%
đạt kết quả trung bình và 13,33% đạt kết quả kém.
Lê Thị Diệu Hằng và cộng sự (2012) [12] nghiên cứu trên 38 bệnh nhân liệt
dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh điều trị bằng điện cực dán kết hợp bài thuốc
Đại tần giao thang cho kết quả tỷ lệ khỏi là 89,47%, tỷ lệ đỡ là 10,53% và khơng có
bệnh nhân nào là chưa khỏi.
Ở Trung Quốc, theo Tang Bin (2013) [35] nghiên cứu 73 trường hợp liệt dây
thần kinh VII ngoại biên do lạnh đã được điều trị bằng phương pháp ơn châm nhận
thấy có 97,26% số bệnh nhân có hiệu quả, trong đó tỷ lệ khỏi là 89,04%.
1.5. PHƯƠNG PHÁP ÔN CHÂM
Tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh và thể bệnh của liệt dây thần kinh VII
ngoại biên mà đưa ra pháp điều trị khác nhau, dùng các PP châm cứu khác nhau
như: điện châm, điện cực dán, ôn châm, ôn điện châm, cứu… cũng như đưa ra các
công thức huyệt khác nhau. Đối với liệt dây thần kinh VII ngoại biên thể phong
hàn, pháp điều trị chung là khu phong, tán hàn, hành khí hoạt huyết. Các huyệt
thường được lựa chọn là: Tình minh, Toản trúc, Dương bạch, Ty trúc không, Đồng
tử liêu, Ngư yêu, Thừa khấp, Nghinh hương, Địa thương, Giáp xa, Nhân trung, Ế

phong, Phong trì và Hợp cốc bên đối diện với phương pháp ôn châm hoặc cứu [2].
1.5.1. Đại cương về phương pháp ôn châm
Ôn châm là một loại PP được mở rộng trên cơ sở của PP cứu điếu ngải, cịn có
tên gọi là ôn châm cứu, châm thượng gia cứu, thiêu châm vĩ… Ôn châm là một PP
điều trị sau khi dùng hào châm châm kim vào rồi gây ấm bằng cách đốt ngải ở cuối
kim. PP này vừa giữ được hiệu lực của châm thích vừa gia tăng tác dụng của ngải
cứu. Danh từ ôn châm được phát hiện sớm nhất trong cuốn “Thương hàn luận” của
Trương Trọng Cảnh. Trong “Châm cứu tụ anh” của Cao Vũ đời nhà Minh và
“Châm cứu đại thành” của Dương Kế Châu đều có thuật rằng: “Phương pháp này


20

trước tiên châm kim, sau đó lấy bạch chỉ làm thành bánh trịn lồng vào kim rồi sau
đó đốt ngải cho ấm, đa phần có cơng hiệu.” Đây PP là dựa trên cơ sở của châm
thích mượn sức nóng của mồi ngải để làm thơng kinh mạch với mục đích tun
hành khí huyết. Ơn châm dùng để điều trị cho các chứng bệnh kinh lạc bị hàn trệ bế
tắc khí huyết. Tuy nhiên, ôn châm cần đốt ngải để gây ấm, nhưng phải lấy châm
thích làm chủ.
PP này vì có hiệu quả trị liệu rất tốt nên được ứng dụng rất rộng rãi, đặc biệt là
trong các chứng tý. Ngoài ra còn được áp dụng trong điều trị nhiều chứng bệnh
khác như liệt mặt, viêm quanh khớp vai, đau thần kinh tọa…, đều thu được hiệu quả
rất tốt [22], [29], [32], [34], [36], [37].
1.5.2. Cách tiến hành ôn châm
Ngày nay có 3 cách ơn châm như sau:
- Xun kim qua mồi ngải cứu gián tiếp trên huyệt.
- Lồng một đoạn điếu ngải vào đốc kim đã châm và đốt.
- Hơ điếu ngải gần cán kim cho nóng lên, sức nóng theo kim truyền vào sâu.
Cách tiến hành:
Vùng kích thích chủ yếu của ôn châm là các huyệt trên cơ thể, a thị huyệt. Lúc

ơn châm, nên chọn kim có cán kim dài và độ dài ngắn của kim phải thích hợp với
độ dày mỏng của da cơ nơi châm. Sau khi châm đạt đắc khí thì lưu kim. Sau đó lắp
một đoạn điếu ngải dài khoảng 2 cm vào đốc kim hoặc dùng một điếu ngải hơ vào
đốc kim cách da khoảng 2 - 3 cm. Trong q trình ơn châm, nếu khơng nóng thì có
thể dịch chuyển điếu ngải lại gần một chút, lúc cảm giác q nóng thì dịch chuyển
ra xa một chút, để đạt cảm giác ôn ấm mà khơng nóng rát [6], [36].
1.5.3. Lưu ý khi tiến hành ôn châm:
- Thầy thuốc nên luyện tập thủ pháp ôn châm nhiều lần, đặt biệt là đối với PP
ôn châm bằng cách lắp một đoạn điếu ngải lên đốc kim.
- Điếu ngải dùng ôn châm cần phải được quấn chặt, tránh lỏng lẻo đề phòng
rơi rớt.
- Cần tránh tàn ngải rơi rớt làm bỏng da.


21

- Lúc ơn châm cần dặn dị bệnh nhân khơng được di động da trên cơ thể,
phòng rơi tàn gây bỏng.
- PP này dễ tiến hành nhưng cần đề phòng gãy kim do ôn châm trên kim quá
nhiều rất dễ dẫn đến gãy kim [36].

Hình 2.1. Ơn châm điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh
1.6. BÀI THUỐC ĐẠI TẦN GIAO THANG [25], [33]
1.6.1. Xuất xứ bài thuốc:
Bài thuốc “Đại tần giao thang” là một trong những bài thuốc có tác dụng sơ
tán ngoại phong, có xuất xứ từ “Tố vấn bệnh cơ khí nghi bảo mệnh tập”.
1.6.2. Nội dung bài thuốc
Thành phần bài thuốc như sau:
Tần giao
12 gam

Phịng phong
Tế tân
02 gam
Khương hoạt
Xun khung
08 gam
Hồng cầm
Bạch truật
04 gam
Thục địa
Bạch thược
08 gam
Bạch chỉ
Sinh địa
04 gam
Bạch phục linh
Thạch cao
08 gam
Độc hoạt
Đương quy
08 gam
Cam thảo
Sắc uống ngày một thang, ngày uống 2 lần.

04 gam
04 gam
04 gam
04 gam
04 gam
04 gam

08 gam
08 gam


22

1.6.3. Phân tích bài thuốc
- Tần giao: khu phong thanh nhiệt, thơng lạc (Qn).
- Khương hoạt, Độc hoạt, Phịng phong, Bạch chỉ, Tế tân: khu phong tán tà,
thông lạc (Thần).
- Thục địa, Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung: dưỡng huyết hoạt huyết
(Tá).
- Bạch truật, Bạch phục linh: ích khí kiện tỳ (Tá).
- Hoàng cầm, Thạch cao, Sinh địa: thanh nhiệt do phong tà uất hóa nhiệt, đồng
thời chế ước sự tân ôn hành tán quá độ của các vị thuốc khu phong (Tá).
- Cam thảo: điều hòa các vị thuốc (Sứ).
Đặc điểm phối ngũ: Lấy các vị thuốc khu phong làm chủ, phối ngũ với thuốc
dưỡng huyết, hoạt huyết, ích khí, thanh nhiệt, kết hợp sơ dưỡng, trị phong cùng với
trị huyết, là cái hay của “trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt”, trong sơ
có thanh, chế ước tính ơn táo.
1.6.4. Cơng dụng
Khu phong thanh nhiệt, dưỡng huyết hoạt huyết.
1.6.5. Chủ trị của bài thuốc
Chủ trị chứng phong tà bắt đầu trúng kinh lạc. Trên lâm sàng thường
dùng điều trị chứng khẩu nhãn oa tà, lưỡi cứng khơng nói được, chân tay
khơng vận động được.


23


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
Gồm 40 bệnh nhân được khám, chẩn đoán liệt dây thần kinh VII ngoại biên do
lạnh, khơng phân biệt tuổi, giới tính, nghề nghiệp, đáp ứng tiêu chuẩn chọn bệnh
theo YHHĐ và YHCT, tình nguyện tham gia nghiên cứu, được điều trị tại khoa Y
học cổ truyền - Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Thừa
Thiên Huế.
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo y học hiện đại
2.1.2.1. Về lâm sàng
Dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng liệt dây thần kinh VII ngoại biên do
lạnh của Hồ Hữu Lương [20].
Bệnh nhân phải có rối loạn (RL) vận động:
- Mất nếp nhăn trán
- Mất rãnh mũi má
- Lệch nhân trung
- Dấu hiệu Souques (+)
- Dấu hiệu Charles - Bell (+)
- Méo miệng
- Sức co cơ khi cười yếu hoặc không co cơ được
Bệnh nhân có thể có:
- RL thần kinh thực vật: khô mắt, chảy nước mắt, giảm tiết nước bọt.
- RL cảm giác: cảm giác đau vùng sau tai, nghe vang đau.
Nguyên nhân do lạnh thường xuất hiện đột ngột, hay gặp vào mùa lạnh hay
sáng sớm và thường khơng tìm thấy ngun nhân khác.
2.1.2.2. Về cận lâm sàng
Các xét nghiệm: Hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, tốc độ lắng máu… đều cho kết
quả bình thường.

2.1.3. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo y học cổ truyền [4]


24

Tất cả bệnh nhân nghiên cứu đều được chẩn đoán bệnh danh là Khẩu nhãn oa
tà thể phong hàn. Ngoài các biểu hiện tại chỗ vùng mặt như trên còn có các biểu
hiện như:
- Bệnh xuất hiện đột ngột, hay gặp về mùa lạnh hoặc sáng sớm
- Sợ lạnh, sợ gió, gai rét, khơng sốt
- Rêu lưỡi trắng, mỏng
- Mạch phù, khẩn.
2.1.4. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
Tất cả các bệnh nhân nghiên cứu phải không thuộc các trường hợp sau:
- Bệnh nhân khơng có tổn thương các dây thần kinh sọ não khác kèm theo.
- Bệnh nhân khơng có hội chứng thần kinh khác.
- Bệnh nhân đang mắc các bệnh cấp tính.
- Tiền sử chấn thương hoặc phẫu thuật vùng đường đi của dây thần kinh VII.
- Khám tai mũi họng có biểu hiện viêm tai giữa, viêm tai xương chũm, zona
tai…
- Bệnh nhân có kèm theo các bệnh khác như: suy tim, bệnh phổi, bệnh tâm
thần, HIV - AIDS, rối loạn đông máu.
- Bệnh nhân không tuân thủ nguyên tắc điều trị, bỏ điều trị quá 3 ngày hoặc
dùng thêm các phương pháp điều trị khác.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tiến cứu, so sánh trước và sau điều trị.
Những bệnh nhân đến khám và điều trị nội trú, ngoại trú có các tiêu chí phù
hợp với tiêu chuẩn chọn bệnh, tiến hành tư vấn, cam kết nghiên cứu, thu thập số
liệu, đồng thời làm các xét nghiệm để chọn bệnh.

Bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp ôn châm kết hợp bài thuốc “Đại
tần giao thang”.
Bệnh nhân được thăm khám trước khi điều trị, sau đợt điều trị sẽ được khám
lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị.
Phương pháp thu thập số liệu: Mỗi bệnh nhân có một phiếu điều tra khi nhập
viện và trong q trình điều trị với tiêu chí đề ra.


25

Liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh

Nhóm nghiên cứu (n = 40)

Đánh giá lâm sàng trước điều trị

Ôn châm + Thuốc YHCT
Kết quả điều trị

Đánh giá

Kết luận
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ nghiên cứu
Chọn mẫu thuận tiện: Chọn tất cả bệnh nhân vào viện trong thời gian nghiên
cứu đủ tiêu chuẩn quy định vào mẫu nghiên cứu.
Địa điểm nghiên cứu: Bệnh nhân được điều trị tại khoa Y học cổ truyền - Bệnh
viện Trung ương Huế và Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 4 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016.
2.2.2. Dụng cụ nghiên cứu
Bệnh án khám và điều trị của bệnh nhân.

Phiếu điều tra.
Kim châm cứu: Kim hào châm vô khuẩn dùng một lần do Việt Nam sản xuất.
Khay men, kìm có mấu, bơng, cồn 700.
Điếu ngải do Việt Nam sản xuất.
Lửa (diêm, bật lửa...).
Thước dây để đo độ hở khe mi.


×