Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Pháp luật việt nam về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.15 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ NGỌC VÂN

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU THEO THỜI HIỆU

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ NGỌC VÂN

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU THEO THỜI HIỆU
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số
: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn

HÀ NỘI - 2014




Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lê Thị Ngọc Vân


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa Lời
cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1:

LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU

1
6


THEO THỜI HIỆU

1.1.

Khái niệm tài sản và quyền sở hữu

6

1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.3.
1.3.1.
1.3.2.
1.4.
1.4.1.
1.4.2.
1.4.3.

Khái niệm tài sản Phân
loại tài sản

6
8
11
13

13
14
16
20
20
21
24
24
25
29
38

Khái niệm động sản và bất động sản
Khái niệm quyền sở hữu
Khái niệm sở hữu
Khái niệm quyền sở hữu
Nội dung quyền sở hữu theo Pháp luật dân sự Việt Nam
Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Khái niệm
Các căn cứ xác lập quyền sở hữu
Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
Khái niệm về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
Pháp luật một số nước về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu trong pháp luật Việt Nam
Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 VỀ XÁC
LẬP QUYỀN SỞ HỮU THEO THỜI HIỆU - THỰC TRẠNG
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG BẤT CẬP CẦN GIẢI
QUYẾT

2.1.


Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu qui định tại Điều 247 Bộ

38

luật dân sự năm 2005
2.1.1. Nội dung của qui định xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu

38


2.1.2. Điều kiện xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu

40

2.1.3. Những tài sản được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu

44

2.1.4. Chủ thể hưởng quyền sở hữu tài sản theo thời hiệu

45

2.1.5. Hạn chế của xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu

45

2.2.

Thực tiễn áp dụng qui định xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu


46

2.2.1. Những tranh chấp tại Tòa án liên quan đến qui định xác lập

48

quyền sở hữu theo thời hiệu
2.2.2. Những căn cứ được áp dụng xác lập quyền sở hữu theo thời

56

hiệu trong giải quyết tranh chấp tại Tịa án
2.2.3. Khó khăn cho công tác xét xử khi giải quyết các tranh chấp

57

2.3.

58

Bất cập của xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu

2.3.1. Về lý luận

58

2.3.2. Qui định của pháp luật còn thiếu và khơng phù hợp với thực tế

65


Chương 3:

GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÁC LẬP

68

QUYỀN SỞ HỮU THEO THỜI HIỆU

3.1.

Mục tiêu, quan điểm hoàn thiện qui định pháp luật về xác lập

68

quyền sở hữu theo thời hiệu
3.1.1. Mục tiêu

68

3.1.2. Quan điểm

69

3.2.

70

Một số giải pháp hoàn thiện qui định xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu


3.2.1. Phù hợp hóa qui định pháp luật về xác lập quyền sở hữu với

70

thực tiễn quan hệ dân sự về tài sản
3.2.2. Giải quyết mâu thuẫn về thời hiệu xác lập quyền sở hữu với

71

các qui định pháp luật đất đai và Luật nhà ở
3.2.3. Giải quyết những mâu thuẫn trong qui định về thời điểm xác
lập quyền sở hữu theo thời hiệu và các qui định khác của
pháp luật đối với các tài sản cần phải đăng ký quyền sở hữu

75


3.2.4. Thời hiệu trong xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu với khởi

76

kiện về thừa kế
3.3.

Một số kiến nghị hoàn thiện qui định xác lập quyền sở hữu

78

theo thời hiệu trong pháp luật dân sự Việt Nam

3.3.1. Kiến nghị về việc thống nhất các qui định pháp luật về xác

79

lập quyền sở hữu có liên quan đến yếu tố thời hiệu thành "Các
trường hợp xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu"
3.3.2. Kiến nghị về điều kiện xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
3.3.3. Kiến nghị về "thời hiệu" trong qui định xác lập quyền sở hữu

80
82

theo thời hiệu
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

86
89


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tài sản và quyền sở hữu là chế định quan trọng, chiếm vị trí lớn trong
pháp luật dân sự. Từ xã hội nguyên thủy, con người đã biết chiếm giữ các sản
phẩm của tự nhiên do săn bắn, hái lượm mà có để phục vụ nhu cầu sinh sống của
mình. Về bản chất, sở hữu chính là việc chiếm giữ.
Từ Bộ luật Hồng Đức, đến Bộ luật Gia Long, và các qui định pháp
luật Việt Nam từ trước tới nay, tài sản và quyền sở hữu luôn là một chế định
quan trọng. Điều 58, Hiến pháp năm 1992 ghi nhận:
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để

dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất
được Nhà nước giao sử dụng thì theo qui định tại Điều 17 và Điều 18.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân [21].
Kế thừa và phát triển Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 qui định:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật
bảo hộ [28, Điều 32].
Trên cơ sở hoàn thiện các qui định pháp luật về tài sản và quyền sở
hữu, Pháp luật Việt Nam hiện hành qui định sở hữu là một quyền năng lớn bao
gồm ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản. Một tài sản
chỉ được xác định thuộc về ai khi nó đã được xác lập quyền sở hữu cho một chủ
thể cụ thể. Có nhiều căn cứ để xác lập quyền sở hữu, trong đó xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu là một căn cứ quan trọng, đã và đang ảnh hưởng rất nhiều tới đời
sống dân sự. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu được Bộ
1


luật dân sự Việt Nam năm 1995 qui định và tiếp tục được kế thừa tại Khoản 1
Điều 247:
Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn
mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở
thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp qui định tại khoản 2 Điều này [27, Điều 247].
Tuy nhiên, quá trình áp dụng thực tế đã chứng tỏ nhiều bất cập trong
việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cũng như giải quyết các tranh chấp

khác về tài sản và quyền sở hữu có liên quan, chính vì vậy học viên đã chọn
đề tài "Pháp luật Việt Nam về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu" để làm
luận văn thạc sĩ Luật chuyên ngành Luật dân sự. Đây là một đề tài có ý nghĩa
thiết thực về mặt lý luận và thực tiễn trên cơ sở áp dụng thực tế trong quá
trình giải quyết các tranh chấp về tài sản và quyền sở hữu. Thông qua luận văn
này, học viên hy vọng sẽ có những đóng góp tích cực trong việc hồn thiện
hơn qui định của Pháp luật Việt Nam về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Mặc dù xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu là một qui định quan
trọng trong Bộ luật dân sự Việt Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam từ trước
đến nay nói chung, song các qui định ấy khi đi vào cuộc sống đã bộc lộ nhiều bất
cập. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau và khơng ít lần vấn đề này được đưa ra bàn
bạc, nhằm tìm một giải pháp hữu hiệu cho việc khắc phục những nhược điểm
trong áp dụng pháp luật, song những giải pháp được đưa ra tất cả chỉ mang tính
chất tạm thời, thực tế chưa có một đề tài nào nghiên cứu cụ thể về vấn đề này.
Trước mắt, Bộ luật dân sự chưa có kế hoạch sửa đổi bổ sung, nhưng xét thấy
việc hoàn thiện qui định xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu làm sao cho phù
hợp với tình hình thực tế của các mối quan hệ xã hội, đồng thời là công cụ pháp
lý hữu hiệu cho việc giải quyết các vấn đề liên quan, để
2


pháp luật có thể đi vào đời sống xã hội là một vấn đề cần nghiêm túc phân
tích và đưa ra những giải pháp cụ thể.
Trên cơ sở đó, luận văn có sự tổng hợp, phân tích một cách có hệ
thống, từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá tương đối toàn diện trong việc
nghiên cứu qui định pháp luật về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu trong
pháp luật Việt Nam.
3. Mục tiêu, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Mặc dù Bộ luật dân sự 1995 đã được hoàn thiện hơn bằng Bộ luật dân

sự năm 2005, song căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản theo thời hiệu chưa
được quan tâm. Thời gian áp dụng chính là minh chứng xác thực cho những
bất cập về qui định này. Nghiên cứu đề tài "Pháp luật Việt Nam về xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu", học viên muốn hướng tới một qui định pháp
luật hoàn thiện hơn, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc áp dụng và giải
quyết các vấn đề về quyền sở hữu và việc xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu, khắc phục những bất cập đang tồn tại, từ đó hướng tới sự hồn thiện
pháp luật về sở hữu tài sản, cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ sở hữu.
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung đi sâu vào nghiên cứu,
phân tích các vấn đề cụ thể sau:
- Khái quát một số cơ sở lý luận về về tài sản, quyền sở hữu và xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu trong pháp luật Việt Nam.
- Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng các qui định pháp luật về
xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện qui định pháp luật dân sự về
xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là các qui định pháp
luật hiện hành về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, các trường hợp được
xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, điều kiện để xác lập quyền sở hữu theo
3


thời hiệụ, những bất cập của qui định pháp luật Việt Nam từ trước tới nay về
xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử,
- Phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp và phân tích các tư liệu,
- Phương pháp so sánh,

- Phương pháp khảo sát, thống kê.
5. Những đóng góp mới của đề tài
Là cơng trình khoa học phân tích một cách có hệ thống các qui định
của pháp luật Việt Nam về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu qua các thời kỳ
lịch sử, làm rõ thực trạng áp dụng các qui định pháp luật vào thực tiễn các mối
quan hệ xã hội về tài sản và quyền sở hữu, trên cơ sở đó phát hiện những bất cập
trong qui định pháp luật, đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc hồn thiện
pháp luật trong tương lai. Từ đó có thể thấy luận văn có những
đóng góp cụ thể về mặt khoa học cũng như thực tiễn:
- Phân tích một số vấn đề lý luận về tài sản, quyền sở hữu và những
qui định pháp luật hiện hành về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
- Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật và những bất cập:
+ Bất cập trong việc xác định đối tượng áp dụng của qui định
+ Bất cập trong việc giải quyết các tranh chấp về tài sản và quyền sở
hữu tại Tòa án liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
+ Bất cập về mâu thuẫn giữa thời hiệu xác lập quyền sở hữu và thời
hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế? Cần phải giải quyết như thế nào?
+ Bất cập về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu với các qui định của
Luật đất đai và Luật nhà ở hiện hành.
- Đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật về xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu.
4


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện
những vấn đề lý luận về tài sản và quyền sở hữu nói chung và xác lập Quyền
sở hữu theo thời hiệu nói riêng, tạo cơ sở khoa học để hoàn thiện chế định
quyền sở hữu.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các chương trình học tập và nghiên

cứu về pháp luật.
Các giải pháp của luận văn đưa ra có giá trị tham khảo đối với các cơ
quan xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật về xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
Chương 2: Qui định của Bộ luật dân sự năm 2005 về xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu. Thực trạng áp dụng pháp luật và những bất cập cần giải quyết.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu.

5


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG
VỀ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU THEO THỜI HIỆU
1.1. KHÁI NIỆM TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU

1.1.1. Khái niệm tài sản
Tài sản là một khái niệm quen thuộc, là một phần không thể thiếu của
cuộc sống, là công cụ của đời sống con người. Tuy nhiên, tài sản dưới góc độ
pháp lý lại khơng hồn tồn giống quan niệm đời thường. Dưới góc độ pháp lý,
nhận thức về tài sản và phân loại tài sản có vai trò rất quan trọng trong việc
tạo lập các qui định pháp luật và giải quyết các tranh chấp. Đã có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về tài sản trong lịch sử lập pháp và nghiên cứu pháp luật
thế giới.
Vậy tài sản là gì? Deluxe Back's Law Dictionary giải nghĩa: "Tài sản là

một từ được sử dụng chung để chỉ mọi thứ là đối tượng của quyền sở hữu, hoặc
hữu hình hoặc vơ hình, hoặc bất động sản hoặc động sản." Các luật gia theo
hệ thống Common Law cũng có những định nghĩa về tài sản như sau: "Theo
nghĩa rộng, tài sản như một mớ quyền (a bundle of rights), tài sản là bất kể
những gì có khả năng sở hữu, hoặc bởi cá nhân, tập thể hoặc cho lợi ích của
người khác", các định nghĩa như vậy về tài sản thường nhấn mạnh tới tài sản là
một mớ quyền được thiết lập trên vật có hiệu lực chống lại những người khác.
Theo Luật La mã, tài sản hay vật (res) là những vật chất đáp ứng nhu
cầu của con người và có ý nghĩa kinh tế - xã hội, tài sản bao gồm vật chất liệu và
tài sản phi chất liệu - đó là các quyền.
Bộ luật dân sự 1804 của Pháp - một cơng trình pháp điển
hóa hiện đại đầu tiên trên thế giới - đã không đưa ra một định nghĩa cụ
thể nào về tài sản. Song theo những đặc tính căn bản của pháp luật
La Mã - Đức về việc giải thích các quy tắc pháp lý hay khái niệm
pháp lý, người ta có thể hiểu được rằng, tài sản nói trong Bộ
6


luật này bao gồm hai loại là bất động sản và động sản. Tuy nhiên
trong luật dân sự của Pháp có sự phân biệt giữa tài sản (biên) và sản
nghiệp (patrimoine). Nhưng khái niệm sản nghiệp không được nhắc tới
ở luật thực định mà chỉ được nhắc tới trong các học thuyết, nó là một
tập hợp các tài sản có và tài sản nợ, có nghĩa là một hệ thống các
quan hệ về tài sản thuộc một ai đó [41].
Bộ luật dân sự của Québec (Canada) qui định: "Tài sản, hoặc hữu hình
hoặc vơ hình, được chia thành bất động sản và động sản" [40, Điều 899].
Bộ luật dân sự Đức 1900 bằng một kỹ thuật pháp điển hóa
khác với hình mẫu của Pháp, tuy khơng có định nghĩa cụ thể về tài sản
trong Bộ luật này, nhưng người ta có thể hiểu rằng, tài sản theo nghĩa
pháp lý khơng chỉ là vật chất liệu, mà chủ yếu là các quyền [41].

Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng, tài sản là các quyền giữa mọi
người có liên quan tới vật, hay nói cách khác, bao gồm một hệ thống các
quyền được thừa nhận về mặt pháp lý do ai đó thủ đắc trong mối liên
hệ với những người khác có liên quan tới vật. Để ngắn gọn hơn, họ
dùng hình ảnh "một mớ quyền" (a bundle of rights) cho tài sản, có
nghĩa là tài sản là một tập hợp các quyền trên vật có hiệu lực chống
lại những người khác [41].
Có thể nói, bản thân tài sản là một khái niệm động và phụ thuộc vào giá
trị kinh tế của nó bởi tài sản là cơng cụ của đời sống con người. Trong mỗi giai
đoạn phát triển khác nhau của xã hội lồi người, tài sản có một phạm vi khác
nhau, nhưng đều là công cụ đáp ứng các nhu cầu sống của con người. Vì vậy nó
được nhận thức không mấy khác nhau ở các hệ thống pháp luật bởi con người
rất nhạy bén với sự đáp ứng nhu cầu của mình.
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm tài sản lần đầu tiên được qui
định trong Bộ luật dân sự năm 1995, theo đó tại Điều 172 Bộ luật dân sự năm
1995 qui định "Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng
tiền và các quyền tài sản" [23, Điều 172]
7


Tiếp đó, Điều 188 của Bộ luật này bổ sung: "Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự, kể cả
quyền sở hữu trí tuệ" [23, Điều 188]
Khái niệm tài sản theo Bộ luật dân sự 2005 đã mở rộng hơn Bộ luật
dân sự 1995 về những đối tượng nào được coi là tài sản, Điều 163 Bộ luật dân
sự 2005 (Bộ luật dân sự hiện hành) qui định: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản" [27, Điều 163]. Theo đó, khơng chỉ những "vật có
thực" mới được gọi là tài sản mà cả những vật được hình thành trong tương
lai cũng được gọi là tài sản.
Từ những phân tích như trên có thể hiểu tài sản là lợi ích vật chất mà

con người kiểm soát được nhằm thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng,
nhu cầu sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Phân loại tài sản
Tài sản là một chế định quan trọng của luật dân sự, trong đó
việc phân loại tài sản có một ý nghĩa rất lớn, bởi lẽ tài sản là cơng cụ
của đời sống xã hội. Nó liên quan tới hàng loạt các vấn đề pháp lý
như: thuế, bảo đảm nghĩa vụ dân sự, thừa kế, hiệu lực của hợp đồng,
bắt giữ và bán tài sản, công khai các quyền tài sản, thương mại, tư
pháp quốc tế [41].
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về việc phân loại tài sản, song có
thể nói, phân loại tài sản chính là cơ sở cho việc nhận thức đầy đủ về tài sản,
khơng có sự phân loại thì sẽ khơng thể hiểu được khái niệm tài sản.
Không những thế, phân loại tài sản cịn là cơ sở để có thể thiết lập các
quy chế cụ thể cho việc điều tiết các hành vi pháp lý như hành vi mua bán,
trao đổi và cả xác lập quyền sở hữu đối với tài sản. Ở mỗi loại tài sản khác
nhau lại có một quy chế riêng phù hợp, ví dụ: quy chế về thời hạn, thời hiệu,
điều kiện thực hiện hành vi …
Pháp luật ở mỗi nước có sự phân loại tài sản khác nhau:
8


Luật La Mã phân chia tài sản thành vật chất liệu và tài sản phi chất
liệu - đó là các quyền. Vật chất liệu lại được phân chia thành động sản và bất
động sản. Động sản (res mobiles) là những vật có thể bị di chuyển được trong
khơng gian hoặc bản thân có thể tự di chuyển được mà khơng ảnh hưởng đến giá
trị và thay đổi đặc tính của nó. Ví dụ: gia súc, gia cầm. Bất động sản (res
immobiles) là những vật không thể di chuyển được trong không gian mà
không ảnh hưởng đến giá trị và đặc tính sử dụng của vật, bất động sản cơ bản
nhất là đất đai và những vật gắn chặt với nó. Ví dụ: nhà cửa, cây cối...
Bộ luật dân sự của Tiểu bang Louisiana (Hoa Kỳ) phân loại

tài sản như sau: "Tài sản được phân chia thành tài sản chung, tài sản
cơng và tài sản tư; tài sản hữu hình và tài sản vơ hình; động sản và
bất động sản" (Điều 448).
Điều luật này đã phân loại tài sản theo ba cách dựa trên các
căn cứ khác nhau: Thứ nhất, căn cứ vào chủ sở hữu, tài sản được
chia thành tài sản chung, tài sản công và tài sản tư; thứ hai, căn cứ
vào việc có hay khơng có đặc tính vật lý, tài sản được chia thành tài
sản hữu hình và tài sản vơ hình; thứ ba, căn cứ vào đặc tính di dời
hay khơng di dời được của tài sản hữu hình và các quyền được thiết
lập trên đó hay khơng được thiết lập trên đó, tài sản được chia thành
động sản và bất động sản. Mỗi phân loại tài sản như vậy có các quy
chế pháp lý tương ứng [42].
Bộ luật dân sự Québec (Canada) phân loại tài sản thành bất động sản
và động sản. Tại Điều 899 qui định: "Tài sản, dù hữu hình hay vơ hình, được
phân chia thành bất động sản và động sản" [40]. Như vậy, ở Bộ luật này tài
sản được phân chia thành bốn phân loại lớn là bất động sản hữu hình, động
sản hữu hình, bất động sản vơ hình và động sản vơ hình.
Bộ luật dân sự 1804 của Pháp phân loại tài sản thành hai loại là bất
động sản và động sản, mà trong đó bất động sản được chia thành bất động sản
9


do tính chất, bất động sản do mục đích sử dụng và bất động sản do có đối
tượng gắn liền với nó; động sản bao gồm động sản do tính chất và động sản do
luật định.
Ngoài ra, xem xét tới các đặc tính vật lý thực tế của tài sản trong khoa
học pháp lý, theo các căn cứ khác nhau người ta có nhiều cách phân loại tài
sản khác nhau như: vật tiêu hao và vật không tiêu hao; vật chia được và vật
không chia được; vật cùng loại và vật đặc định; vật chính và vật phụ... Nhưng
quan trọng nhất và trên hết tất cả là cách phân loại tài sản truyền thống chia

tài sản thành bất động sản và động sản.
Theo PGS.TS Ngô Huy Cương, ngày nay cách phân loại tài
sản thành động sản và bất động sản "được áp dụng cho tất cả các
nguồn của cải kể cả tài sản hữu hình (là các vật chất liệu) và tài sản
vơ hình (có liên quan tới các quyền)" [41]. Ơng phân tích: "Xuất
phát từ cách phân loại cơ bản này, người ta thiết kế một hệ thống qui
định chi tiết đối với bất động sản so với động sản. Có một số quyền chỉ
có thể tồn tại trên bất động sản như dịch quyền và một số khác thì tồn
tại trên cả động sản và bất động sản như quyền hưởng dụng. Do đặc
tính vật lý của bất động sản là cố định, nên người ta dễ dàng thiết kế
một hệ thống đăng ký tài sản (bất động sản) để cơng khai hóa các
quyền nhằm thơng báo cho các chủ nợ. Vì vậy dẫn tới việc người ta có
thể tạo ra hệ thống các quyền phức tạp hơn trên bất động sản. Ví dụ
một số Bộ luật dân sự không yêu cầu phải chiếm hữu thực tế bất
động sản trong việc đưa bất động sản ra để bảo đảm cho nghĩa vụ (thế
chấp) giống chức năng của mortgage (để đương) trong Hệ thống
Thông luật (Common Law), nhưng lại không cho phép như vậy đối
với động sản dùng để bảo đảm cho nghĩa vụ (cầm cố)" [41].
Theo Bộ luật dân sự Việt Nam hiện hành, tài sản được phân thành
10


nhiều loại khác nhau:
- Động sản và bất động sản (Điều 174)
- Hoa lợi và lợi tức (Điều 175)
- Vật chính và vật phụ (Điều 176)
- Vật chia được và vật không chia được (Điều 177)
- Vật tiêu hao và vật không tiêu hao (Điều 178)
- Vật cùng loại và vật đặc định (Điều 179)
- Vật đồng bộ (Điều 180)

- Quyền tài sản (Điều 181)
Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy, dù phân loại như thế nào, tài sản
trong Bộ luật dân sự Việt Nam hiện nay (Bộ luật dân sự 2005) chủ yếu bao
gồm hai tiêu chí phân loại cơ bản: Động sản và bất động sản, ngoài ra có một
loại tài sản đặc biệt đó là quyền tài sản.
Tóm lại, phân loại tài sản là một nhu cầu khách quan, là linh hồn của
khái niệm tài sản và là kỹ thuật pháp lý quan trọng của luật dân sự nói chung
và pháp luật về tài sản nói riêng.
1.1.3. Khái niệm động sản và bất động sản
Khái niệm động sản và bất động sản là tương đối phổ biến và được ghi
nhận ở hầu hết các bộ luật trong hệ thống pháp luật thành văn, là hai tiêu chí
chủ yếu để phân loại tài sản. Vậy động sản là gì? Bất động sản là gì?
Trên phương diện là một thuật ngữ pháp luật (ở một số nước như Liên
hiệp Anh, Canada, Úc, Mỹ và Bahama), bất động sản (real property) có ý
nghĩa bao gồm đất đai và những gì dính liền vĩnh viễn với mảnh đất đó.
Những thứ được xem là dính liền vĩnh viễn như là nhà cửa, ga ra, kiến trúc ở
trên hoặc dầu khí, mỏ khống chất ở dưới mảnh đất đó. Động sản (personal
property)có nghĩa ngược với bất động sản, là những thứ có thể di chuyển
được và không gắn liền với đất đai, hoặc những tài sản khác được pháp luật
qui định là bất động sản. Những thứ có thể dỡ ra khỏi mảnh đất như nhà di
1
1


động, lều, nhà tạm thì khơng được xem là bất động sản. Sự khác biệt về khái
niệm giữa "bất động sản" và "động sản" là ở chỗ: bất động sản được chuyển
nhượng cùng với đất đai, cịn động sản thì không. Một số tài liệu lịch sử đã xác
nhận lần đầu tiên thuật ngữ "bất động sản" được sử dụng vào năm 1666. Điều
này chứng tỏ sự coi trọng của giai cấp phong kiến đối với đất đai cũng như
quyền sử dụng đất.

Bộ luật dân sự Pháp qui định: "Tài sản là bất động sản do tính chất, do
mục đích sử dụng hoặc do đối tượng gắn liền với tài sản" [15, Điều 517]. Tuy
khơng có một khái niệm cụ thể về bất động sản, nhưng bằng phương pháp liệt kê,
có thể hiểu bất động sản theo qui định trong Bộ luật dân sự Pháp chính là những
tài sản có tính chất khơng dịch chuyển được như đất đai, các cơng trình xây dựng,
các bộ phận được gắn liền với đất đai hoặc đặt trên các cơng trình xây dựng, kể
cả cây cối, mùa màng khi chưa thu hái, chặt, đốn; súc vật mà người chủ sở
hữu ruộng đất giao cho người thuê đất canh tác với thỏa thuận là dùng vào việc
canh tác khi chúng gắn liền với đất đai, hạt giống, nông cụ... được dùng vào việc
khai thác ruộng đất cũng là bất động sản.
Trước ngày ban hành Bộ luật dân sự, trong hệ thống Pháp luật Việt
Nam khơng có một văn bản pháp luật nào qui định về động sản và bất động sản.
Trong pháp luật kinh tế, chúng ta chỉ sử dụng hai thuật ngữ là tài sản cố định
và tài sản lưu động để phân biệt với nhau. Khi Bộ luật dân sự 1995 được ban
hành, theo thông lệ và tập quán quốc tế, Bộ luật dân sự 1995 đã chia tài sản
thành bất động sản và động sản trên cơ sở phương pháp loại trừ. Dựa vào
thuộc tính tự nhiên của tài sản là có thể dịch chuyển cơ học được hay khơng của
tài sản. Tại Điều 181 Bộ luật dân sự năm 1995, được kế thừa và hoàn thiện
hơn bởi Điều 174 Bộ luật dân sự 2005 qui định động sản và bất động
sản như sau:
1. Bất động sản là những tài sản bao gồm:
a) Đất đai;
12


b) Nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai kể cả các
tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật qui định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản [27].

Bằng phương pháp liệt kê, loại trừ pháp luật đã chỉ ra bất kỳ một tài
sản nào cũng chỉ có thể hoặc là bất động sản, hoặc là động sản. Trên cơ sở
này, ta có thể xây dựng một quy tắc: Bất động sản là các tài sản không thể di
dời được mà vẫn giữ nguyên được giá trị của tài sản và tương ứng với quy
tắc này, ta có quy tắc: Động sản là các tài sản có thể di rời được mà vẫn giữ
nguyên được giá trị của tài sản. Từ đây, ta xác định được tiêu chí đầu tiên của
việc phân biệt tài sản thành động sản và bất động sản là căn cứ vào đặc điểm vật
lý (đặc điểm cố định) của chính tài sản đó. Về hình thức thể hiện, tài sản có thể
được nhận biết khi nó là các vật cụ thể nhưng cũng có thể chỉ là các khái niệm
mà trong khoa học pháp lý gọi chung là các quyền. Pháp luật thiết lập và giới
hạn danh mục các tài sản là bất động sản; còn danh mục các tài sản là động sản
được bỏ ngỏ bằng một quy phạm mở, danh mục này sẽ được bổ sung ngay
trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Đây là kỹ thuật lập pháp thông dụng trong
Bộ luật dân sự của nhiều nước trên Thế giới, nhất là khi phân loại tài sản thành
động sản và bất động sản.
1.2. KHÁI NIỆM QUYỀN SỞ HỮU

1.2.1. Khái niệm sở hữu
Tài sản và sở hữu có mối quan hệ mật thiết với nhau, là hai mặt của
một vấn đề. Ngay từ buổi đầu sơ khai của xã hội loài người, con người đã biết
chiếm giữ hoa quả tự nhiên, chim thú săn bắn được, những công cụ giản đơn để
phục vụ nhu cầu sống và tồn tại của mình. Tuy thời kỳ này chưa có sự phân
biệt rõ rệt về khái niệm "sở hữu" đối với tư liệu sản xuất và sức lao

13


động, nhưng về bản chất, sở hữu chính là sự chiếm giữ và đối tượng của
chiếm giữ chính là các sản vật của tự nhiên hay những thành quả lao động của
loài người, tất cả những đối tượng ấy được gọi bằng một cái tên chung là tài

sản. Nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử, xã hội, triết học… đều thống nhất
rằng sở hữu chính là một phạm trù kinh tế mang yếu tố khách quan xuất hiện
và phát triển song song cùng với sự phát triển của xã hội lồi người. Quan hệ
sở hữu chính là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu
và sản xuất ra của cải, vật chất của xã hội, quan hệ sở hữu là cơ sở hạ tầng và
tương ứng với nó là một kiến trúc thượng tầng nhất định, đó chính là hình thái
kinh tế xã hội. Trên cơ sở phân tích các hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã chỉ
ra quy luật tự nhiên của quan hệ sở hữu, ở bất cứ nền sản xuất nào cũng có việc
con người chiếm hữu những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình
thái kinh tế xã hội nhất định. Vì vậy, sở hữu chính là một phạm trù kinh tế.
1.2.2. Khái niệm quyền sở hữu
Quan hệ sở hữu xuất hiện và ưu thế luôn thuộc về những người có
quyền sở hữu của cải vật chất và tư liệu sản xuất, những người này thuộc giai
cấp thống trị của xã hội. Là một hình thái trong kiến trúc thượng tầng, pháp luật
về sở hữu ghi nhận và củng cố địa vị, lợi ích của giai cấp thống trị đối với việc
chiếm giữ và định đoạt các của cải vật chất trước các giai cấp khác. Vì vậy
quyền sở hữu chính là một cơng cụ pháp lý xác nhận và bảo vệ các quyền
lợi của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Sở hữu trong kinh tế chính trị, là một phạm trù cơ bản, chỉ mối quan hệ
giữa người với người trong việc chiếm dụng của cải, là hình thức xã hội của
sự chiếm hữu của cải. Nó có thể được luật hóa thành quyền sở hữu và được
thực hiện theo cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu.
Với tư cách là một chế định pháp luật, quyền sở hữu chỉ ra đời khi xã hội
có sự phân chia gia cấp và có Nhà nước. Vì vậy, chế định quyền sở hữu

14


nói riêng và pháp luật về sở hữu nói chung ln mang tính giai cấp. Trong
tun ngơn của Đảng cộng sản, C.Mác đã chỉ ra rằng:

Thử hỏi lao động làm th, lao động của người vơ sản có
tạo ra sở hữu cho người vơ sản khơng? Tuyệt đối khơng? Nó tạo ra
tư bản, tức là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê và sở hữu này chỉ
có thể làm tăng thêm với điều kiện là sản xuất thêm ra mãi mãi lao động
làm thuê để lại bóc lột lao động đó thêm nữa [13].
Quyền sở hữu có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo
nghĩa khách quan đó là tồn bộ các qui định của nhà nước về vấn đề sở hữu
trong một hệ thống pháp luật nhất định, quyền sở hữu chính là một hệ thống các
quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất,
tư liệu tiêu dùng, và các tài sản khác.
Theo nghĩa chủ quan đó là tồn bộ những hành vi mà chủ sở hữu được
pháp luật cho phép thực hiện trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài
sản theo ý chí của mình. Quyền sở hữu bao giờ cũng gắn liền với chủ thể nên
được coi là loại quyền tuyệt đối. Bộ luật dân sự 2005 qui định:
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo qui định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đầy đủ
ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản
[27, Điều 164].
Tóm lại, quyền sở hữu hiểu theo nghĩa khách quan là tổng hợp các qui
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dùng gọi chung là tài sản.
Quyền sở hữu hiểu theo nghĩa chủ quan là quyền của chủ sở hữu đối
với tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
tài sản theo qui định của pháp luật.
15



1.2.3. Nội dung quyền sở hữu theo Pháp luật dân sự Việt Nam
Theo qui định của Bộ luật dân sự 2005, quyền sở hữu là những quyền
năng dân sự đối với tài sản. Điều 164 Bộ luật dân sự 2005 qui định: "Quyền sở
hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của
chủ sở hữu theo qui định của pháp luật" [27], đây chính là những quyền dân
sự cụ thể của chủ sở hữu đối với tài sản. Những quyền dân sự này hợp thành
nội dung của quyền sở hữu.
* Quyền chiếm hữu
Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của
mình. Trong trường hợp chủ sở hữu tự chiếm hữu tài sản của mình thì chủ sở
hữu thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý tài sản.
Đó cũng là quyền kiểm sốt, làm chủ và chi phối vật theo ý chí của mình.
Việc chiếm hữu của chủ sở hữu là chiếm hữu có căn cứ pháp luật khơng bị
hạn chế và gián đoạn về thời gian.
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống hàng ngày xảy ra trường hợp có
những người khơng phải là chủ sở hữu nhưng vẫn chiếm hữu tài sản đó. Vấn
đề đặt ra là sự chiếm hữu trong những trường hợp này có hợp pháp hay
khơng? Vì vậy, cần phân biệt rõ hai loại chiếm hữu là chiếm hữu hợp pháp
(chiếm hữu có căn cứ pháp luật) và chiếm hữu khơng hợp pháp (chiếm hữu
khơng có căn cứ pháp luật).
Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là hình thức chiếm hữu tài sản một
cách hợp pháp, đó là sự chiếm hữu của chủ sở hữu tài sản. Sự chiếm hữu
không phải của chủ sở hữu tài sản chỉ là chiếm hữu hợp pháp khi có một trong
các căn cứ pháp lý sau:
- Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản trong phạm vi ủy
quyền (Điều 185Bộ luật dân sự 2005);
- Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua các giao dịch
dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu (Điều 186 Bộ luật dân sự 2005);
16



- Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được
chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp
với các điều kiện do pháp luật qui định (Điều 187 Bộ luật dân sự 2005);
- Các trường hợp khác do pháp luật qui định như: Chiếm hữu theo
mệnh lệnh của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc do pháp luật qui
định có quyền đương nhiên chiếm hữu vật, ví dụ: Điều 242 qui định: "Người
bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo cho Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi người đó cư trú để thơng báo cơng khai cho chủ sở hữu
biết mà nhận lại" [27, Điều 242], trong thời gian chủ sở hữu chưa đến nhận lại
thì là chiếm hữu hợp pháp.
Chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật (bất hợp pháp) là việc chiếm
hữu không dựa trên cơ sở pháp luật, đó là trường hợp chiếm hữu mà người
chiếm hữu không phải là chủ sở hữu tài sản, hoặc chiếm hữu không theo
những căn cứ do Bộ luật dân sự qui định nên không được pháp luật thừa nhận.
Chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật thường xảy ra hai trường hợp:
chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình và chiếm hữu khơng
có căn cứ pháp luật khơng ngay tình.
Chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là trường hợp
người chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật theo qui định tại Điều 189 Bộ
luật dân sự nhưng không biết và khơng thể biết việc chiếm hữu của mình là
khơng dựa trên cơ sở pháp luật. Ví dụ: Mua phải hàng do phạm tội mà có
nhưng khơng biết và khơng có khả năng biết điều ấy, mua tài sản của người
không phải chủ tài sản, không được chủ tài sản ủy quyền nhưng khơng thể biết
việc ấy.
Chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật khơng ngay tình đó là trường
hợp người chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật biết đó là việc chiếm hữu bất
hợp pháp hoặc tuy khơng biết nhưng thuộc trường hợp pháp luật buộc phải
biết là mình chiếm hữu khơng dựa trên cơ sở pháp luật. Ví dụ: Người mua
17



biết là tài sản do phạm tội mà có nhưng vì ham rẻ mà vẫn cố tình mua…
Việc xác định chiếm hữu bất hợp pháp là ngay tình hay khơng ngay
tình trên thực tế hết sức khó khăn, do vậy phải dựa vào nhiều yếu tố: trình độ
nhận thức, thời gian, địa điểm, giá trị tài sản,... Việc phân biệt này có ý nghĩa
quan trọng trong thực tiễn nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu đồng thời
cũng bảo vệ quyền lợi của người chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình. Trong trường hợp chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, nếu chiếm giữ liên tục, công khai trong thời hạn do luật định, hết
thời hạn đó người chiếm hữu có thể trở thành chủ sở hữu tài sản mà mình
chiếm hữu (theo qui định từ Điều 239 đến Điều 244, và Điều 247 Bộ luật dân
sự). Ngồi ra, người chiếm hữu cịn "có quyền khai thác cơng dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản theo qui định của pháp luật" [27, Điều 194, Khoản 2].
Ngược lại, người chiếm hữu bất hợp pháp khơng ngay tình thì trong mọi
trường hợp phải trả lại tài sản kể cả hoa lợi, lợi tức thu được từ việc khai thác
công dụng của tài sản, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
* Quyền sử dụng
Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức
từ tài sản trong phạm vi pháp luật khơng cấm, nghĩa là chủ sở hữu có quyền
khai thác giá trị tài sản theo ý chí của mình bằng những cách thức khác nhau
nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất tinh thần của bản thân, miễn là không gây
thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác. Cũng như quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
không chỉ thuộc về chủ sở hữu tài sản mà còn thuộc về những người không
phải chủ sở hữu nhưng được chủ sở hữu giao quyền hoặc theo qui định của
pháp luật (người mượn tài sản, thuê tài sản thông qua các hợp đồng dân sự,...).
Ngồi ra, pháp luật cịn qui định người chiếm hữu khơng có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền khai thác cơng dụng, hưởng hoa lợi,
lợi tức từ tài sản theo qui định pháp luật. Bởi lẽ, những người này hoàn toàn

18


khơng biết mình đang chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật.
Như vậy việc sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan
trọng và có ý nghĩa thực tế mà pháp luật qui định cho chủ sở hữu tài sản hoặc
người được chủ sở hữu tài sản cho phép, ủy quyền cho sử dụng tài sản. Tuy
nhiên việc sử dụng tài sản phải tuân thủ một nguyên tắc bất biến đó là chỉ sử
dụng tài sản trong phạm vi pháp luật không cấm mà thôi.
* Quyền định đoạt.
Điều 195 Bộ luật dân sự 2005 qui định: "Quyền định đoạt là quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó" [27]. Như vậy
chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt của mình thông qua việc quyết định "số
phận" pháp lý hoặc "số phận" thực tế của tài sản. Người không phải chủ sở
hữu cũng có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo
qui định của pháp luật. Định đọa "số phận" pháp lý tài sản nghĩa là chuyển
quyền sở hữu của mình cho người khác thơng qua các giao dịch dân sự như:
ký kết hợp đồng mua bán, hợp đồng tặng cho tài sản... Định đoạt "số phận"
thực tế của tài sản nghĩa là chủ sở hữu bằng hành vi của mình làm cho tài sản
khơng còn trong thực tế như sử dụng hết hoặc tiêu hủy tài sản. Tuy nhiên, đối
với một số loại tài sản thì khi thực hiện quyền định đoạt phải tuân theo những qui
định khác của pháp luật. Theo qui định của pháp luật chủ sở hữu có thể tự mình
thực hiện quyền định đoạt hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện quyền
định đoạt tài sản (thông qua việc bán đại lý hàng hóa). Để thực hiện quyền
định đoạt thì chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền phải đảm bảo
năng lực chủ thể theo qui định của pháp luật, chẳng hạn lập di chúc hoặc bán
nhà thì nguyên tắc phải từ đủ 18 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi để tránh tình trạng bị lừa dối hay bị cưỡng ép,...
Tuy nhiên theo pháp luật Việt Nam, quyền định đoạt của chủ sở hữu bị
hạn chế chỉ trong trường hợp do pháp luật qui định. Qui định này nhằm mục

đích ngăn chặn các cơ quan có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền
19


×