Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực trạng nạo phá thai tuổi vị thành niên tại Việt Nam và một số biện pháp giảm thiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.33 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS:

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải

BPTT:

Biện pháp tránh thai

HIV:

Virus gây suy giảm miễn dịch ở người

KHHGĐ:

Kế hoạch hóa gia đình

NPT:

Nạo phá thai

PID:

Viêm vùng chậu

QHTD:



Quan hệ tình dục

SKSS:

Sức khỏe sinh sản

VTN:

Vị thành niên

WHO:

Tổ chức Y tế thế giới

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
Vị thành niên là giai đoạn đặc biệt của cuộc đời. Đây là giai đoạn xảy
ra sự phát triển tâm sinh lý, cơ thể và đặc điểm cá nhân để từ một đứa trẻ dần
trở thành người lớn. Trong giai đoạn này, vị thành niên có thể phải dối mặt
với các thay đổi chuyển tiếp (đi học và thôi học, chưa đi làm và đi làm,...) và
phải ra nhiều quyết định quan trọng của cuộc đời khi kinh nghiệm sống và các
kiến thức về xã hội, nghề nghiệp, tâm lý và sinh lý còn chưa ổn định.
Giai đoạn phát triển vị thành niên chịu tác động của nhiều yếu tố cá
nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội đặc trưng. Do phong tục tập quán ở những
môi trường văn hóa xã hội khác nhau rất khác nhau nên rất khó đánh giá vị
thành niên theo khía cạnh văn hóa của các quốc gia. Tuy nhiên, vị thành niên
cũng có những đặc tính chung như tính tị mị, ảnh hưởng của bạn đồng lứa

đối với các vấn đề tình dục, sự thiếu hiểu biết về thụ thai cũng như các biện
pháp tránh thai. Điều này khiến vị thành niên trở thành nhóm đối tượng dễ bị
tổn thương.
Hiện nay, quan hệ tình dục vị thành niên và tình trạng nạo phá thai lứa
tuổi này đang là một vấn đề xã hội của mọi quốc gia trên thế giới trong đó có
Việt Nam.
Vì những lý do trên, em xin thực hiện chuyên đề:
“Thực trạng nạo phá thai tuổi vị thành niên tại Việt Nam
và một số biện pháp giảm thiểu”
Với các mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng nạo phá thai tuổi vị thành niên tại Việt Nam.
2. Đề xuất một số biện pháp giảm thiểu nạo phá thai tuổi vị thành
niên.

3


I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Một số khái niệm
- Vị thành niên: Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO,1998) vị thành niên
là từ 10-19 tuổi. Một số tác giả chia tuổi VTN sớm là 10-14 tuổi và vị thành
niên muộn là 15-19 tuổi. Một số tác giả khác lại chia 15-19 tuổi thành hai giai
đoạn: Tuổi VTN trung bình là 15-17 tuổi và VTN muộn là 18-19 tuổi. [5]
- Sức khỏe sinh sản: Chương trình hành động của Hội nghị Quốc tế về
Dân số và Phát triển (ICPD) tại Ai Cập năm 1994 định nghĩa như sau: “ Sức
khỏe sinh sản là sự thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội và
không chỉ là không có bệnh hay khơng bị tàn phế về hệ thống, chức năng và
quá trình sinh sản. Điều này hàm ý là mọi người, kể cả nam và nữ đều có
quyền nhận được thông tin và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các
biện pháp kế hoạch hóa gia đình an tồn, có hiệu quả và chấp nhận được theo

sự lựa chọn của mình, bảo đảm cho người phụ nữ trải qua quá trình thai
nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho các cặp vợ chồng cơ may tốt nhất để sinh
được đứa con lành mạnh”.
- Nạo phá thai: Là biện pháp đình chỉ thai nghén, có thể thực hiện bằng
thuốc hoặc bằng kỹ thuật y tế. Một số phương pháp nạo phá thai gồm:
+ Phá thai bằng thuốc Mifepristone và Misoprestone có thể thực hiện
với thanh dưới 6 tuần tuổi.
+ Phá thai sớm bằng kỹ thuật hút chân khơng (cịn gọi là hút điều hịa
kinh nguyệt) thực hiện với thai nhỏ dưới 8 tuần tuổi.
+ Nạo thai là kỹ thuật thực hiện với thai dưới 3 tháng tuổi.
+ Phá thai to thực hiện với thai trên 4,5 tháng tuổi, có những u cầu kĩ
thuật chặt chẽ và ít sử dụng vì có những biến chứng nguy hiểm.[7]

4


2. Các yếu tố tác động tới hành vi sức khỏe
2.1. Mơ hình sinh thái kết hợp (Ecologically interactive model)
Mơ hình sinh thái kết hợp của Urie Bronfenbrenner là mơ hình sử dụng
trong nghiên cứu phát triển con người, được áp dụng trong nhiều lĩnh vực
nghiên cứu khác nhau về hành vi liên quan sức khỏe.[5]

Xã hội
Cộng
đồng

Xã hội
- Văn hóa,
chuẩn mực xã
hội, thông tin

- Luật pháp
- Môi trường,
tổ chức xã hội

Cộng đồng
- Kinh tế,
việc làm,
dịch vụ, thất
nghiệp
- Tập quán,
tôn giáo
- Quan hệ
cộng đồng
- An ninh

Mối
quan hệ

Gia đình, nhà
trường
- Giao tiếp,
kinh tế, bạo lực
- Số thành viên
- Hôn nhân
- Môi trường
nhà trường
- Bạn đồng lứa

Cá nhân


Cá nhân
- Tuổi
- Giới tính
- Tâm sinh lý
- Lòng tự trọng
- Bị lạm dụng
- Sử dụng
rượu, ma túy
- Quan niệm
- Kiến thức

Hình: Mơ hình sinh thái kết hợp
Mơ hình này là khung lý thuyết khái qt, xem xét chủ yếu các yếu tố
nguy cơ tác động tới hành vi sức khỏe ở các cấp độ khác nhau với sự tương
tác của yếu tố cá nhân, gia đình, mơi trường và xã hội. Hành vi tình dục và
SKSS được xem xét qua mơ hình để tìm hiểu các yếu tố nguy cơ liên quan,
tác động tới hành vi tình dục và SKSS ở VTN.[5]

5


2.2. Khung lý thuyết yếu tố nguy cơ, yếu tố bảo vệ

1

Yếu tố cá nhân

2

Bạn đồng lứa


3

Gia đình

4

Trường học

5

Cộng đồng

Xã hội

Yếu tố nguy cơ
Yếu tố bảo vệ
- Bất bình đẳng giới
- Lịng tự trọng
- Lạm dụng rượu, ma túy
- Tính trách nhiệm
- Căng thẳng, xung đột
- Tính kiên cường
- Phân biệt đối xử
- Trẻ tuổi
- Sa sút trí tuệ
- Mất hy vọng
- QHTD đồng tính
- Dân nghèo ổ chuột
- Mồ cơi, tàn tật, bạo lực

- Văn hóa đồng lứa khơng lành - Học vấn bạn đồng lứa
mạnh
- Sự tham gia của VTN
- Bạn hư
- Tổ chức thanh thiếu niên
- Cách biệt xã hội
- Nhiều bạn
- Quá đông đúc
- Kinh nghiệm bố mẹ tốt
- Bạo lực gia đình
- Kết nối bố mẹ tốt
- Thiếu kế hoạch hóa gia đình
- Kì vọng của bố mẹ
- Gia đình một bố hay mẹ
- Vốn sống xã hội của gia
- Bệnh tâm thần
đình
- Vơ vọng/khơng hy vọng
- Không học, bỏ học
- Đi học
- Thất nghiệp
- Học lực tốt
- Lạm dụng thể chất, tình dục
- Hạnh kiểm tốt
- Kì vọng thấp với nữ
- Mơi trường đối xử công
- Thiếu cách giáo dục thay thế
bằng
- Kết nối gia đình và nhà
trường

- Cảm nhận gắn bó với
trường
- Bạo lực, thông tin bạo lực
- Người lớn hỗ trợ
- Di chuyển, thay đổi
- Tập quán tiến bộ
- Tham nhũng
- Triết lý cộng đồng
- Bóc lột
- Đối thoại thế hệ
- Nghèo đói
- Dịch vụ sẵn có và tiếp
- Thiếu nơi vui chơi, giải trí
cận
- Thơng điệp xã hội mâu thuẫn
- Giáo dục, y tế, sức khỏe
- Tập quán lạc hậu
tâm thần
- Cơ hội để VTN tham gia
- Khùng hoảng, suy giảm kinh tế, thay đổi xã hội
- Khơng bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực
- Thực thi chính sách thanh thiếu niên
- Các tổ chức xã hội và phối hợp

Bảng: Ma trận yếu tố nguy cơ, yếu tố bảo vệ QHTD, SKSS ở VTN.

6


Ưu điểm của khung lý thuyết yếu tố nguy cơ, yếu tố bảo vệ tích hợp mơ

hình sinh thái kết hợp là tiếp cận nghiên cứu, xem xét cả yếu tố nguy cơ và
yếu tố bảo vệ theo các lớp tác động cụ thể, bao quát. Tuy nhiên sử dụng
khung lý thuyết tích hợp với mơ hình trên cũng có hạn chế nhất định. Nghiên
cứu về tình dục và SKSS ở VTN là khá phức tạp, nhạy cảm. Hành vi tình dục
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, có thể thay đổi theo thời gian. Một yếu tố có
thể là yếu tố nguy cơ hay yếu tố bảo vệ theo bối cảnh văn hóa, cách thức tác
động, và yếu tố tiếp nhận. [5]
II. NẠO PHÁ THAI VỊ THÀNH NIÊN TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng nạo phá thai vị thành niên tại Việt Nam
Hiện nay trên thế giới, phá thai ở phụ nữ VTN rất khác nhau tùy thuộc
vào nhiều yếu tố như quy định của pháp luật, tôn giáo, phong tục tập quán…
của từng nước. Tỷ suất phá thai ở nữ VTN rất cao như ở Cu Ba (91‰), Mỹ
(30‰ - 44‰) hoặc rất thấp như ở Đức và Hà Lan (dưới 10‰). Có một thống
kê cho rằng trong số 500 triệu thanh thiếu niên tuổi từ 15-19 trên thế giới có
quan hệ tình dục khoảng 1,1 triệu có thai ngồi ý muốn, hậu quả có 38% nạo
phá thai, 13% sẩy thai và khoảng 554.800 bé gái sinh con [3],[6].
Theo thống kê của Trung tâm Tư vấn SKSS-KHHGĐ của Bện viện
Phụ sản Trung ương, trong 5 năm 2008-2012, mỗi nắm có xấp xỉ 80-100 ca
đẻ/nạo, phá thai ở độ tuổi VTN. Tỷ lệ mang thai VTN trong tổng số ca nạo
phá thai ở bệnh viện này chiếm 1-3%. Tại bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM) cũng
trong gai đoạn này, tỷ lệ đẻ/phá thai ở độ tuổi VTN cũng chiếm khoảng 2,23,4% tổng số ca đẻ/phá thai ở đây. Tuy nhiên, trong 2 năm 2011-2012, tỷ lệ
này lại tăng cao đột biến lên mức 6,8% [9].
Theo điều tra quốc gia về VTN và thanh niên Việt Nam lần thứ 2
(SAVY 2) năm 2009, tỷ lệ nạo phá thai ở VTN trên tổng số ca đẻ ước tính
khoảng 20%. Theo Vụ Sức khỏe Bà mẹ-Trẻ em, tỷ lệ VTN có thai trong tổng
số người mang thai tăng lên liên tục qua các năm: Năm 2010: 2,9%; năm

7



2011: 3,1%; năm 2012: 3,2%, tương ứng tỷ lệ phá thai ở lứa tuổi này là 2,2%
(2010), 2,4% (2011) và 2,3% (2012).
Thống kê của Hội KHHGĐ Việt Nam cho thấy, trung bình mỗi năm cả
nước có khoảng 300.000 ca nạo hút thai ở độ tuổi 15-19, trong đó 60-70% là
học sinh, sinh viên. Theo Tổng cục Dân số-KHHGĐ, mặc dù tỷ lệ phá thai ở
Việt Nam trong 10 năm gần đây giảm, nhưng tỷ lệ nạo phá thai ở trẻ VTN,
thanh niên lại có dấu hiệu gia tăng, chiếm hơn 20% các trường hợp nạo phá
thai. Các nghiên cứu cũng cho thấy, độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở VTN
Việt Nam ngày càng sớm. Tuy nhiên, kiến thức của VTN về các BPTT, HIV
và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác vẫn cịn rất hạn chế - chỉ có
khoảng 20,7% sử dụng BPTT trong lần QHTD đầu tiên.
Với con số mang thai và nạo hút thai VTN như trên, Việt Nam là nước
có tỷ lệ phá thai ở tuổi VTN cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ 5 trên thế
giới. Đây không chỉ là một gánh nặng, thách thức lớn cho công tác dân số, mà
đáng lưu tâm hơn là nó để lại những hậu quả nghiêm trọng cho thế hệ trẻ [9].
2. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng nạo phá thai ở tuổi vị thành niên gia
tăng
2.1.Quan hệ tình dục sớm
Các cơ gái trẻ nhận được các thơng tin tình dục chủ yếu qua truyền
hình và các sách báo cịn từ gia đình và nhà trường rất ít. Điều này làm cho
các thanh thiếu nien hoạt động tình dục ở lứa tuổi rất sớm khi chưa được giáo
dục phòng tránh thai và phòng bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Trước năm 1994, hoạt động tình dục trước hơn nhân hồn tồn bị bỏ
qua trong các nghiên cứu về SKSS. Cho đến nay, tại Việt Nam các cuộc điều
tra quy mô để khảo sát QHTD tuổi VTN chưa nhiều vì đây là vấn đề nhạy
cảm khó khảo sát. Điều tra của Ủy ban quốc gia Dân số-KHHGĐ năm 1994
tại Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh cho thấy 15% nam sinh viên và 2,5% nữa sinh
viên đã từng QHTD. Hiện tượng QHTD trong học sinh là một vấn đề có thật.

8



Tại Tp.Hồ Chí Minh, một cuộc khảo sát trên 1464 học sinh tuổi từ 15-19 ghi
nhận có 2,5% đã có QHTD. Đến năm 2004, tác giả Huỳnh Nguyễn Khánh
Trang trong luận án tiến sỹ y học đã nêu lên hồi chuông báo động khi thấy tỷ
lệ QHTD trong học sinh gia tăng, trong nghiên cứu này tỷ lệ học sinh có
QHTD tính chung chon am và nữ là 8,17% trong đó nam gấp 2,6 nữ. Nghiên
cứu cũng ghi nhận có sự gia tăng về tần số và tỷ lệ cho từng cấp lớp [4],[6].
Trên phạm vi toàn quốc, Viện xã hội học và hội đồng dân số khảo sát
tại 6 tỉnh Việt Nam (Lai Châu, Quảng Ninh, Hà Tây, Quảng Nam- Đà Nẵng,
Tp.Hồ Chí Minh và Kiên Giang) ghi nhận có 6% nam và 4% nữ có QHTD lần
đầu trước 18 tuổi, tỷ lệ có QHTD chung trong tồn nghiên cứu là 10% đối với
nam và 5% đối với nữ [6].
2.2. Thiếu kiến thức về SKSS
Tác giả Khánh Trang cũng so sánh tỷ lệ QHTD của VTN tại Tp.Hồ Chí
Minh với các nước khác và nhận thấy rằng tỷ lệ nữ VTN có QHTD chúng ta
thấp hơn trong khu vực, tuy vậy phá thai tuổi VTN cũng là một thực trạng
phổ biến tại Tp.Hồ Chí Minh. Điều này có thể lý giải là do thiếu kiến thức về
SKSS đặc biệt là kiến thức về BPTT và tình dục an tồn [4],[6].
Nam
23%
49,5%
81,4%
11,7%

Bắc Triều Tiên
Philippine
Thái Lan
Tp.Hồ Chí Minh


Nữ
10%
9,5%
41,5%
4,5%

Bảng 1: Tỷ lệ quan hệ tình dục tuổi VTN ở một số nước châu Á
Trong một nghiên cứu trên 1100 VTN tại Hải Phòng năm 1999, chỉ
41,6% biết thời điểm dễ có thai theo chu kỳ kinh nguyệt; trong số có QHTD
có chưa đến 19% áp dụng các BPTT [2],[6].
Thanh niên chưa lập gia đình nhìn chung đã khơng được giúp đỡ cũng
như hướng dẫn về các vấn đề liên quan đến tình dục và sinh sản hoặc việc
9


cung cấp kiến thức và các tiếp cận các dịch vụ là chưa đầy đủ. Thanh niên
cảm thấy các thông điệp và các dịch vụ sức khỏe sinh sản là dành cho các cặp
vợ chồng hơn là bao hàm thanh niên chưa lập gia đình, dẫn đến sự khó khăn
khi tiếp cận các BPTT.
Nghiên cứu của Phạm Gia Đức khảo sát học sinh sinh viên tại Tp.Hồ
Chí Minh thấy trên 70% đối tượng nghiên cứu cần được cung cấp kiến thức
về SKSS, và nơi cung cấp nên từ nhà trường là chủ yếu [1],[6].
2.3. Các lý do sau khi có thai
Số liệu thống kê tại bệnh viện Từ Dũ cho thấy các nguyên nhân phá
thai to ở VTN lần lượt là:
Ngun nhân phá thai ở nữ VTN
Khơng biết tuổi có thai phù hợp
Do gia đình ép buộc
Chưa có điều kiện nuôi con
Không biết thời điểm dễ mang thai nhất

Không biết về BPTT
Do cịn đi học
Do bị bạn tình ép buộc

Tỷ lệ %
90
80
76
61
50
37
30

Bảng 2: Nguyên nhân phá thai to ở nữ VTN tại BV Từ Dũ [3],[6].
Nữ tuổi VTN trẻ tuổi, có chí hướng học tập, có nghề nghiệp, có cơ hội
thăng tiến nếu có thai ngồi ý muốn sẽ chọn biện pháp phá thai. Một khảo sát
trên học sinh cấp 3 cho thấy 48,3% học sinh đồng ý với quan điểm nếu lỡ có
thai thì sẽ phá thai và phá thai dường như được xem là một BPTT của lứa tuổi
VTN [6]. Phá thai cũng là lựa chọn của gia đình các em học sinh khi có thai
ngồi ý muốn vì lý do thứ nhất là các em cịn q trẻ, cịn lệ thuộc kinh tế vào
gia đình. Thứ hai là bạn tình của các em khi biết các em có thai thường khơng
có ý định tiến đến hơn nhân, thêm vào đó là yếu tố pháp luật cũng khơng cho
phép những cuộc hôn nhân ở tuổi VTN.
10


Bên cạnh đó cũng khơng thể bỏ qua một ngun nhân nữa là luật y tế
của chúng ta hiện nay rất dễ dàng trong việc thực hiện thủ thuật hút bỏ thai ở
nữ.
III. HẬU QUẢ CỦA NẠO PHÁ THAI TUỔI VỊ THÀNH NIÊN

1. Ảnh hưởng về sức khỏe
Biến chứng của phá thai phụ thuộc vào tuổi thai và phương thức lấy
thai. Nếu tuổi thai dưới 8 tuần, tỷ lệ biến chứng là dưới 1%; tuổi thai 8 - 12
tuần tỷ lệ biến chứng là 1,5 - 2%; tuổi thai 12 - 13 tuần tỷ lệ biến chứng là 3 6%.
Gần như nữ VTN thiếu hụt kiến thức về SKSS nên khơng biết có thai
lúc nào, hoặc do lo sợ lúng túng không biết cách giải quyết nên khi tuổi thai
lớn mới quyết định bỏ thai do đó dẫn tới nhiều tai biến.
- Rối loạn kinh nguyệt chiếm 10 - 14% trong các nghiên cứu tại Việt
Nam [4],[6].
- Sót nhau chiếm tỷ lệ 2,5 – 3,7% trong các nghiên cứu tại Việt Nam
[4],[6].
- Sang chấn ở tử cung: thủng tử cung, tổn thương tử cung, tổn thương
niêm mạc tử cung gây chảy máu tử cung sau phá thai.
- Nhiễm trùng có thể xuất hiện 18,5% sau phá thai, thường nhất là viêm
vùng chậu (PID), viêm vùng chậu rất khó chẩn đốn và quản lý và đây là
nguyên nhân dẫn đến vô sinh ở người phụ nữ.
- Vô sinh thứ phát sau phá thai có thể xuất hiện khoảng 25% và cao gấp
3 – 4 lần so với phụ nữ không phá thai.
- Sẩy thai: do tỷ lệ sang chấn cổ tử cung trong phá thai nhất là ở nữ
VTN (cơ qua sinh dục chưa hoàn chỉnh) là nguyên nhân gia tăng tỷ lệ sẩy thai
ở lần có thai tiếp theo [6].
- Thai ngồi tử cung: có thể do PID kết hợp làm tăng tỷ lệ thai ngoài tử
cung.

11


- Tử vong: tỉ suất liên quan với tuổi thai. Nếu tuổi thai dưới 8 tuần, tỷ lệ
tử vong là 0,5/100.000; tuổi thai 11 – 12 tuần tỷ lệ tử vong là 2,2/100.000;
tuổi thai 16 – 20 tuần tỷ lệ tử vong là 14/100.000 và tuổi thai trên 21 tuần tỷ lệ

tử vong là 18/100.000. Tuy nhiên, nếu phá thai khơng an tồn và tuổi thai q
lớn tỷ lệ tử vong có thể là rất lớn [6].
2. Ảnh hưởng về tâm lý
Tại những nước phát triển hiện nay người ta tập trung khảo sát ảnh
hưởng của phá thai, nhất là phá thai ở tuổi VTN đến tình trạng tâm sinh lý sau
này của nữ VTN và có nhiều kết quả rất đáng báo động.
Khảo sát của David.M về các rối loạn sức khỏe tâm thần thường gặp
trên 543 phụ nữ nạo phá thai nhận thấy có nguy cơ gia tăng các rối loạn tâm
thần phổ biến như trầm cảm nặng, lo lắng, có ý tưởng tự tử... Các dấu hiệu
trầm cảm thường nặng nề hơn nếu phá thai ở tuổi VTN.
Một khảo sát so sánh rối loạn tâm thần ở nữ VTN so với nữ thanh niên
cho thấy tư tưởng bị ép buộc, ý nghĩa tự vẫn trước khi phá thai và các cơn ác
mộng sau khi phá thai, tư tưởng chống đối xã hội, rối loạn nhân cách, nghiện
ngập xuất hiện nhiều ở nhóm VTN.
Tại Tp.Hồ Chí Minh sang chấn tâm lý sau bỏ thai ở VTN thường biểu
hiện dưới dạng suy nhược tinh thần chiếm tỷ lệ 27,5%, trong đó mức độ nhẹ
chiếm 63,64%, mức độ trung bình là 27,27% và mức độ nặng là 9,09%. Các
trường hợp nặng thường do có liên quan đến biến chứng và khơng được sự hỗ
trợ tinh thần bởi gia đình.
3. Ảnh hưởng về xã hội
Có thai sớm sẽ giới hạn cơ hội học tập và làm việc của phụ nữ trẻ, điều
này có khuynh hướng làm cho họ và con cái của họ sẽ nghèo. Bên cạnh đó là
gánh nặng trực tiếp mà xã hội phải gánh chịu: gia tăng chăm sóc y tế, trợ cấp
nghèo khó và gián tiếp tạo ra một lực lượng lao động có trình độ thấp.

12


IV. NHỮNG GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU NẠO PHÁ THAI Ở TUỔI VỊ
THÀNH NIÊN

1. Giải pháp về chính sách
Cho đến nay, Việt Nam đã có một hệ thống các văn bản chính sách thuận lợi
cho việc triển khai các can thiệp nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc SKSS của
VTN. Tuy chưa có một Chiến lược quốc gia, song SKSS tuổi VTN đã được
đề cập trong nhiều văn bản pháp lý quan trọng về chăm sóc SKSS hoặc chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe cho VTN.
Tháng 11/2005, Luật Thanh niên được Quốc hội thông qua – một dấu
mốc quan trọng cho việc hoàn thiện các quyền của thanh niên. Đây là văn bản
chính thức giúp hồn thiện mơi trường pháp lý cho các can thiệp SKSS VTN
ở Việt Nam. Điều 21 và 22 quy định về chính sách đầu tư, khuyến khích các
tố chức cá nhân xây dựng các cơ sở y tế, cơ sở hoạt động thể dục, thể thao;
phát triển các hoạt động tư vấn về tình u, hơn nhân, gia đình, thực hiện
KHHGĐ trong thanh niên; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho thanh
niên, tổ chức tư vấn cho thanh niên về dinh dưỡng, sức khỏe tinh thần, SKSS,
kỹ năng sống, phòng chống ma túy, HIV/AIDS, các bệnh lây truyền qua
đường tình dục.
Tháng 1/2003, Pháp lệnh Dân số được ban hành và sửa đổi vào tháng
8/2008. Pháp lệnh gồm các giải pháp thực hiện cho từng nhóm đối tượng,
giáo dục giới tính, SKSS và kỹ năng sống tại các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, giáo dục dạy nghề và phổ thông.
Tháng 11/2011, Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2020 được Chính phủ phê duyệt: “Cải thiện tình hình SKSS của
VTN và thanh niên thơng qua việc giáo dục, tư vấn và cung cấp các dịch vụ
SKSS phù hợp với lứa tuổi” và “Nâng cao sự hiểu biết của phụ nữ và nam
giới về giới tính và tình dục để thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm sinh

13


sản, xây dựng QHTD an tồn, có trách nhiệm, bình đẳng và tôn trọng lẫn

nhau nhằm nâng cao SKSS và chất lượng cuộc sống”. Đó là giải pháp mở
rộng các hình thức giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục dân số, SKSS, giới
và giới tính trong và ngồi nhà trường; giải pháp về chăm sóc SKSS và nâng
cao dân trí, tăng cường vai trị của gia đình và bình đẳng giới.
Có thể thấy rằng, một chiến lược chăm sóc SKSS cho VTN và thanh niên
bao gồm hệ thống các văn bản pháp lý đề cập đến vấn đề chăm sóc SKKK
VTN, các chương trình hành động nêu lên mục tiêu, giải pháp và sự phân
định trách nhiệm các tổ chức, cơ quan nhà nước trong việc thực hiện là một
đáp ứng hết sức cơ bản của Nhà nước và Chính phủ đối với các nhu cầu
SKSS VTN hiện tại cũng như trong tương lai. Các văn bản pháp lý này thể
hiện sự cam kết của Chính phủ trong các hỗ trợ kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cũng
như hỗ trợ tài chính [9].
2. Cung cấp dịch vụ y tế trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho VTN
Dù cịn nhiều hạn chế về chất lượng, mức độ thân thiện, bảo mật, các
dịch vụ lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị về SKSS và cung cấp các BPTT của
hệ thống y tế nhà nước đã đáp ứng phần nào nhu cầu của VTN. Sự cởi mở về
mặt chính sách của nhà nước (chủ trương xã hội hóa cơng tác y tế, khuyến
khích hành nghề y, dược tư nhân...) đã bước đầu tạo điều kiện cho sự ra đời
các cơ sở cung cấp dịch vụ SKSS VTN do các tổ chức phi chính phủ, các tổ
chức cộng đồng hoặc các cá nhân phụ trách. Chính hệ thống dịch vụ này đã
bổ sung cho hoạt động của các dịch vụ nhà nước và mở ra hướng đi mới cho
việc phát triển đa dạng các hình thức cung ứng dịch vụ linh hoạt, thân thiện
cho VTN, thậm chí dành riêng cho những nhóm đối tượng khác nhau như
nam, nữ, học sinh, VTN nghiện chích ma túy, VTN nhiễm HIV. Trong tương
lai, các cơ sở cung cấp dịch vụ SKSS VTN của các tổ chức, cá nhân khơng
thuộc nhà nước sẽ đóng vai trị quan trọng, giúp việc cung cấp dịch vụ SKSS
VTN trở nên đa dạng, hiệu quả hơn.

14



Bộ Y tế đã ban hành “ Chuẩn hóa quốc gia về dịch vụ SKSS” (2002) và
hiện nay đang xây dựng “Hướng dẫn quốc gia về dịch vụ sức khỏe thân thiện
dành cho VTN và thanh niên”. Đây là đáp ứng quan trọng tiến tới hoàn thiện
về mặt chất lượng, kỹ thuật đối với các dịch vụ SKSS cung cấp cho VTN.
Tháng 8/2006, Bộ Y tế ra quyết định số 23/2006/QĐ-BYT chuyển đổi các
Trung tâm chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em và KHHGĐ ở các tỉnh, thành
phố trực thuộc TW trước đây thành các Trung tâm chăm sóc SKSS, theo đó
các trung tâm chăm sóc SKSS tỉnh/thành phố sẽ có khoa Chăm sóc SKSS vị
thành niên và nam học [9].
3. Cung cấp thông tin – giáo dục – truyền thông
Trong lĩnh vực giáo dục, nối tiếp với chương trình thí điểm giáo dục
dân số được thực hiện từ những năm đầu của thập kỷ 80, từ năm 1998 các nội
dung giáo dục SKSS VTN được xác định cần ưu tiên và đưa vào lồng ghép,
tích hợp trong 4 môn học: Sinh học, Địa lý, Giáo dục công dân và Ngữ văn
của chương trình giảng dạy chính khóa. Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện
phương thức giáo dục lồng ghép này khơng cao do thời lượng các mơn học
chính khóa đã quá tải, giáo viên thiếu kiến thức và có thái độ e ngại khi nói về
các vấn đề SKSS.
Thực tế, giáo dục SKSS VTN lại chứa đựng rất nhiều chủ đề nhạy cảm,
tế nhị, học sinh khó có thể trình bày, trao đổi một cách cụ thể trong môi
trường lớp học, trước mặt thầy cô và bạn bè khác giới. Đối với chủ đề này,
cần phải có một mơi trường phù hợp để các em có thể tin tưởng bày tỏ, trao
đổi một cách thoải mái tất cả những hiểu biết, quan điểm, khúc mắc của mình.
Muốn vậy, các nội dung giáo dục SKSS VTN đã được nghiên cứu, truyền tải
tới học sinh dưới các hình thức mềm dẻo, linh hoạt và đa dạng thông qua các
hoạt động ngoại khóa. Từ năm học 2006 – 2007, hoạt động ngoại khóa giáo
dục sức khỏe sinh sản/tình dục VTN chính thức được đưa vào khung chương
trình giáo dục ngồi giờ lên lớp cho học sinh các trường phổ thông. Hiện nay,


15


công tác tập huấn cho đội ngũ giáo viên về các nội dung và phương pháp giáo
dục SKSS VTN thông qua hoạt động ngoại khóa đang được tiến hành tại các
địa phương.
Các hoạt động truyển thông cung cấp thông tin, tư vấn về SKSS VTN
tới các đối tượng VTN ngoài đường trường học đã được. Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh thực hiện với nhiều hình thức như: biên soạn các tài
liệu giáo dục SKSS VTN (tờ rơi, sách, sổ tay, băng hình...); tổ chức chiến
dịch truyền thơng; thiết lập trang web và đường dây nóng tư vấn về các vấn
đề SKSS VTN. Các mơ hình can thiệp về SKSS VTN dành cho VTN đã ln
được Đồn thanh niên chú trọng phát triển: Trung tâm tư vấn thanh niên; Câu
lạc bộ tiền hơn nhân và SKSS; Góc dịch vụ thân thiện dành cho VTN đặt
trong các cơ sở của Đồn thanh niên; Thanh niên tình nguyện thực hiện giáo
dục về SKSS VTN...
Việc truyên truyền về SKSS VTN trong cộng đồng, tới các bậc cha mẹ
cũng đã bắt đầu được thực hiện. Hội Phụ nữ, Hội nông dân là đã tham gia
thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, các can thiệp cịn rất ít và chỉ mới ở
những bước ban đầu. Thực tế, dưới góc độ chính sách và xây dựng chương
trình, nội dung này hồn tồn được coi là tiểu phần xây dựng môi trường
thuận lợi cho việc tiến hành các can thiệp về SKSS VTN chứ chưa được đánh
giá ở tầm chiến lược như là một yếu tố nền tảng, trực tiếp nâng cao SKSS
VTN [9].

KẾT LUẬN
Vị thành niên là giai đoạn chuyển đổi quan trọng từ thiếu niên sang
người lớn. Chất lượng của cuộc sống tương lai vị thành niên phụ thuộc nhiều
vào những cơ hội được tận dụng để phát triển nhân cách cá nhân như học tập,
có cơng ǎn việc làm. Vị thành niên rất nhạy cảm với các thay đổi của môi


16


trường, cộng đồng, xã hội. Những thay đổi đó tác động lên hành vi liên quan
tới sức khỏe trong giai đoạn vị thành niên và giai đoạn tiếp theo trong tuổi
trưởng thành.
Thanh thiếu niên có xu hướng dậy thì sớm hơn, kết hơn muộn hơn.
Điều này có nghĩa là thời gian từ khi dậy thì, có thể quan hệ tình dục đến khi
kết hôn ngày càng dài hơn. Đồng thời những nguy cơ về có thai ngồi ý
muốn, nạo phá thai và bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục cũng tăng, ảnh
hưởng trực tiếp và lâu dài tới sức khỏe.
Tại Việt Nam, tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên đang ở mức báo
động kéo theo đó là những hậu quả rất nặng nề về sức khỏe và tâm lý. Do đó,
cần có những biện pháp can thiệp kịp thời để nâng cao nhận thức của vị thành
niên về SKSS và tình dục an tồn, nhằm giảm thiểu tỷ lệ nạo phá thai ở vị
thành niên.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2000), "Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai
đoạn 2001-2010", Hà Nội.
2. Bộ Y Tế và Tổng cục Dân số - KHHGĐ (2010), "Điều tra quốc gia về vị
thành niên, thanh niên SAVY2".
3. Huỳnh Thanh Hương (2005). “Các yếu tố nguy cơ của phá thai to ở tuổi
vị thành niên”. Đại Học Y Dược Tp.HCM, Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Quang Mai và cộng sự (2003), "Sức khoẻ sinh sản vị thành niên",
NXB Phụ nữ, 2003, Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Nghị (2011), “Nghiên cứu quan niệm, hành vi tình dục và
sức khỏe sinh sản ở vị thành niên huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương 20062009”, Luận án Tiến sỹ y học, Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
6. Phạm Thanh Hải, Huỳnh Thị Thu Thủy (2010), “Phá thai ở nữ vị thành
niên”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, tập 14, số 2.
7. Trần Văn Chiến và Đỗ Ngọc Tấn (2004), “Giáo dục dân số, sức khỏe
sinh sản và KHHGĐ cho học sinh trung học phổ thông và vị thành niên”,
NXB Thanh niên, Hà Nội.
8. Ủy ban Quốc gia Dân số - KHHGĐ (2000), “Tình yêu, tình dục, hạnh
phúc lứa đôi”, Hà Nội.
9. Thực trạng chung về mang thai tuổi vị thành niên và các chương
trình/chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên.
/>Organization=CCDS&MenuID=7025&ContentID=59242

18



×