TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
SINH VIÊN: VŨ XUÂN TRƯỜNG
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ CÁC ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN PHỤC VỤ ĐỊNH HƯỚNG QUY
HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT CỦA XÃ THANH TÂN – HUYỆN THANH LIÊM –
TỈNH HÀ NAM ĐẾN NĂM 2020
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã ngành: D850103
NGƯỜI HƯỚNG DẪN :TS. PHẠM ANH TUẤN
Hà Nội- Năm 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
1
KHOA QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
SINH VIÊN: VŨ XUÂN TRƯỜNG
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ CÁC ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN PHỤC VỤ ĐỊNH HƯỚNG QUY
HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT CỦA XÃ THANH TÂN – HUYỆN THANH LIÊM –
TỈNH HÀ NAM ĐẾN NĂM 2020
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã ngành: D850103
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : TS. PHẠM ANH TUẤN
Hà Nội- Năm 2015
LỜI CẢM ƠN
2
Trong quá trình thực hiện báo cáo em đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình
của rất nhiều các tập thể, cá nhân. Xuất phát từ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin
chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu đó!
Trước hết em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo – TS. Phạm Anh
Tuấn đã giúp đỡ tận tình và trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian em thực hiện đề
tài.
Em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ, chỉ bảo ân cần của các Thầy, Cô giáo trong
khoa Quản lý Đất đai cũng như các thầy cô trong trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội, trong suốt thời gian em học tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn các cán bộ trong UBND huyện Thanh Liêm – nơi em
thực tập đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình
thực tập tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn UBND xã Thanh Tân– huyện Thanh Liêm – tỉnh Hà
Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập tốt nghiệp để em nắm rõ hơn về
kiến thức thực tế và nghiên cứu thực hiện đề tài tốt nghiệp của mình.
Ngoài ra, em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện đề tài.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 08 tháng 06 năm 2015
Sinh viên
Vũ Xuân Trường
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của sự sống, là địa bàn phân bố dân cư, phát triển dân
sinh và xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng. Nhưng đất
đai là tài nguyên không thể tái tạo được, nó cố định về vị trí và giới hạn về không gian.
Với vai trò đặc biệt quan trọng đó thì việc sử dụng và bảo vệ đất hiệu quả là điều
rất cần thiết và cấp bách. Nhưng hiện nay, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế,
đời sống con người ngày càng nâng cao thì nhu cầu của con người về đất đai ngày càng
lớn. Điều này đẫn đến tình trạng đất đai bị khai thác và sử dụng một cách bừa bãi, môi
trường đất bị hủy hoại. Trước thực trạng này, việc quy hoạch sử dụng đất là cần thiết hơn
bao giờ hết. Nó không những tổ chức lại việc sử dụng đất, mà còn hạn chế sự chồng chéo
gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tùy tiện, ngăn chặn các hiện tượng
tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm, hủy hoại đất, phá vỡ sự cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm
môi trường dẫn đến nhưỡng tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế xã hội và
các hậu quả khó lường về bất ổn chính trị, an ninh quốc phòng của từng địa phương, đặc
biệt là trong thời kì phát triển kinh tế thị trường.
Thanh Tân là xã có nền kinh tế khá trong huyện Thanh Liêm. Cơ cấu nền kinh tế
đang có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ. Trong những năm qua, bộ mặt của xã đã có sự thay đổi nhưng vẫn còn hạn chế như
mức độ phát triển chưa cao, chưa đồng bộ, hài hòa giữa các mặt kinh tế, văn hóa và môi
trường. Điều này cho thấy xã chưa thực hiện tốt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã
hội cũng như quy hoạch sử dụng đất.
Từ thực tế này, được sự phân công của khoa Quản lý đất đai – Trường Đại học Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội cũng như sự đồng ý cả UBND xã Thanh Tân, tôi thực hiện
đề tài “Đánh giá các điều kiện cơ bản của xã Thanh Tân phục vụ định hướng quy
hoạch sử dụng đất đến năm 2020”
4
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở tìm hiểu công tác thực hiện quy hoạch sử dụng đất của xã Thanh Tân
giai đoạn 2005-2010 và kế hoạch sử dụng đất từ 2011- 2014, nhằm đánh giá những thành
tựu đạt được, những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất đã duyệt. Từ đó tìm được nguyên nhân tồn tại và đề suất những giải pháp trong công
tác thực hiện quy hoạch sử dụng đất của xã. Đánh giá các điều kiện cơ bản của xã phục
vụ cho định hướng QHSDĐ đến năm 2020.
3. Yêu cầu của đề tài
Tìm hiểu, nắm vững được các kiến thức thực tế và luật đất đai nói chung và công
tác thực hiện QHSDĐ của địa phương nói riêng.
Số liệu thu thập được phải khách quan, trung thực và chính xác.
Từ kết quả nghiên cứu phải đưa ra được những nguyên nhân tồn tại, khó khăn và
từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục cho phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương.
5
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về quy hoạch sử dụng đất đai.
1.1.1. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt
1.1.1.1. Khái niệm đất đai.
Theo giáo trình Quy hoạch sử dụng đất do thầy Đoàn Công Quỳ biên soạn thì: Đất
đai là một phần diện tích cụ thể của bề mặt Trái đất, bao gồm cả các yếu tố câu thành môi
trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đất như khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, địa mạo,
nước mặt, các lớp trầm tích sát về mặt cùng với nước ngầm, tập đoàn động thực vật, trạng
thái định cư của con người trong quá khứ và hiện tại để lại.
1.1.1.2. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt.
Đất đai cũng là một tư liệu sản xuất nhưng nó có những đặc tính khiến nó khác
hẳn với các tư liệu sản xuất khác. Sự khác biệt đó thể hiện ở những điểm sau đây:
- Đặc tính quan trọng nhất của đất đai là độ phì nhiêu. Đây là tính chất khiến nó
khác hẳn với các tư liệu sản xuất khác. Đọ phì của đất có thể cung cấp thức ăn, nước và
các điều kiện khác cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Độ phì bao
gồm: độ phì tự nhiên và độ phì kinh tế.
- Mọi tư liệu sản xuất khác đều là sản phẩm của lao động, còn riêng đất đai là sản
phẩm của tự nhiên. Đất có trước lao động và là điều kiện thiên nhiên của lao động. Chỉ
khi tham gia vào quá trình lao động, đất mới trở thành tư liệu sản xuất.
- Cùng với sự phát triển của sức sản xuất, các tư liệu sản xuất khác tăng lên về số
lượng, riêng đất chỉ có số lượng giới hạn trong phạm vi ranh giới các lục địa.
- Đất là tư liệu sản xuất có vị trí không thể thay đổi trong không gian. Đây là một
tính chất rất đặc thù của đất, làm cho những mảnh đất nằm ở vị trí khác nhau có giá trị rất
khác nhau.
6
- Trong quá trình sản xuất, người ta có thể thay thế tư liệu sản xuất này bằng tư
liệu sản xuất khác, nhưng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế, đặc biệt là trong nông
nghiệp.
- Trong quá trình sản xuất, mọi tư liệu sảnh xuất khác đều bị hao mòn, hư hỏng và
dần dần bị đào thải, riêng đất, nếu xét về mặt không gian(diện tích) thì đất là tư liệu sản
xuất vĩnh cửu, không chịu sự phá hủy của thời gian. Hơn nữa, nếu dược sử dụng đúng và
hợp lý, chất lượng đất ngày càng tốt lên.
Có thể nói đất đai là tư liệu sản cuất cực kỳ quan trọng đối với con người. Sự quan
tâm chú ý đúng mức trong việc quản lý và sử dụng đất đai sẽ làm cho sản lượng thu được
từ mỗi mảnh đất không ngừng tăng lên.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội
Đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt,
là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn của đất nước, là thành phần quan trọng hàng đầu của
môi trường sống và là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh và quốc phòng. Đất đai có ý nghĩa kinh tế chính trị, xã hội sâu sắc trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và đời sống
của con người, đất với lớp phủ thổ nhưỡng, khoáng sản trong lòng đất, rừng và mặt nước
chiếm vị trí đặc biệt. Đất là điều kiện đầu tiên và là nền tảng tự nhiên của bất kỳ một quá
trình sản xuất nào.
Các Mác cho rằng, đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung cấp các tư
liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể. Khi nói về vai trò, ý
nghĩa của đất đối với nền sản xuất xã hội, Mác khẳng định:”Lao động không phải là
nguồn duy nhất sinh ra của cải vật chất và giá trị tiêu thụ - như William Petti đã nói – Lao
động chỉ là cha của của cải vật chất, còn đất là mẹ”.
7
Chúng ta đều biết rằng, không có đất thì không thể có sản xuất, cũng như không
có sự tồn tại của con người. Đất là sản phẩm của tự nhiên, xuất hiện trước con người và
tồn tại ngoài ý muốn của con người. Đất tồn tại như một vật thể lịch sử - tự nhiên.
Phương thức và mục tiêu sử dụng đất cũng rất đa dạng, có thể chia làm ba nhóm
mục đích như sau:
- Dùng đất đai để làm nơi sinh sống, cơ sở sản xuất và môi trường hoạt động.
- Lấy tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt từ đất đai để thỏa mãn nhu cầu sinh tồn
và phát triển.
- Đất cung cấp không gian môi trường cảnh quan mỹ học cho việc hưởng thụ tinh
thần.
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế xã hội, khi mức sống của con người còn
thấp, công năng chủ yếu của đất là tập chung vào sản xuất vật chất, đặc biệt trong sản
xuất nông nghiệp. Khi xã hội phát triển ở mức cao hơn, công năng của đất từng bước
được mở rộng, sử dụng đất cũng phức tạp hơn. Đất đai không chỉ cung cấp cho con người
các tư liệu vật chất để sinh tồn và phát triển mà còn cung cấp các điều kiện cần thiết để
hưởng thụ và đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống của nhân loại.
Kinh tế - xã hội phát triển càng mạnh, cùng với sự bùng nổ dân số đã làm cho mối
quan hệ giữa con người và đất đai càng trở nên căng thẳng. Những sai lầm của con người
trong quá trình sử dụng đất cùng với sự tác động của thiên nhiên đã và đang hủy hoại môi
trường đất, một số công năng của đất bị suy yếu đi. Vấn đề tổ chúc sử dụng đất theo quan
điểm sinh thái và phát triển bền vững càng trở nên quan trọng, bức xúc và mang tính toàn
cầu. Cùng với sự phát triển không ngừng của sức sản xuất, công năng của đất được nâng
cao theo hướng đa dạng, nhiều tấc nấc để truyền lại lâu dài cho các thế hệ mai sau.
1.1.3. Định nghĩa về quy hoạch sử dụng đất.
Khi nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất có rất nhiều cách nhận thức khác nhau.
Có quan điểm cho rằng quy hoạch sử dụng đất chỉ đơn thuần là biện pháp kỹ thuật nhằm
thực hiện việc đo đạc, vẽ bản đồ đất đai, phân chia diện tích đất, giao đất cho các ngành...
8
Bên cạnh đó, có quan điểm lại cho rằng quy hoạch sử dụng đất được xây dựng trên các
quy phạm của Nhà nước nhằm nhấn mạnh tính pháp chế của quy hoạch sử dụng đất đai.
Tuy nhiên, đối với cả hai cách nhận thức trên, bản chất của quy hoạch sử dụng đất
không được thể hiện đúng và đầy đủ vì bản thân của quy hoạch sử dụng đất không nằm
trong kỹ thuật đo đạc và cũng không thuộc về hình thức pháp lý mà nó nằm bên trong
việc tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất đặc biệt, coi đất như đối tượng của các
mối quan hệ xã hội trong sản xuất. Như vậy, quy hoạch sử dụng đất sẽ là một hoạt động
vừa mang tính kỹ thuật, tính kinh tế và tính pháp lý.
Từ đó, có thể rút ra khái niệm quy hoạch sử dụng đất như sau: Quy hoạch sử dụng
đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của nhà nước về tổ chức
và sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân
phối và tái phân phối quỹ đất cả nước, tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất cùng
với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo
điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường
1.2. Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và các loại hình quy hoạch khác.
1.2.1. Mối quan hệ giữa QHSDĐ với quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH
Quy hoạch tổng thể phất triển kinh tế xã hội là tài liệu mang tính khoa học, sau khi
được phê duyệt sẽ mang tính chiến lược chỉ đạo sự phát triểnkinh tế xã hội, được luận
chứng bằng nhiều phương án kinh tế - xã hội về phát triển và phân bố lực lượng sản xuất
theo không gian có tính đến chuyên môn hoá và phát triển tổng hợp sản xuất của các
vùng và các đơn vị cấp dưới.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội là một trong những tài liệu tiền kế
hoạch cung cấp căn cứ khoa học cho việc xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội. Trong đó, có đề cập đến dự kiến sử dụng đất đai ở mức độ phương hướng với một
nhiệm vụ chủ yếu. Còn đối tượng của quy hoạch sử dụng đất đai là tài nguyên đất. Nhiệm
vụ chủ yếu của nó là căn cứ vào yêu cầu của phát triển kinh tế và các điều kiện tự nhiên,
9
kinh tế, xã hội điều chỉnh cơ cấu và phương hướng sử dụng đất, xây dựng phương án quy
hoạch phân phối sử dụng đất đai thống nhất và hợp lý.
Như vậy, quy hoạch sử dụng đất đai là quy hoạch tổng hợp chuyên ngành,cụ thể
hoá quy hoạch tổng thể phất triển kinh tế xã hội, nhưng nội dung của nó phải được điều
hoà thống nhất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội.
1.2.2. Mối quan hệ giữa QHSDĐ với dự báo và chiến lược dài hạn sử dụng đất.
Để xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất các cấp vi mô cho thời gian trước
mắt (từ 5 – 10 năm), trước hết phải xác định được định hướng và nhu cầu sử dụng đất dài
hạn (dự báo cho 15 – 20 năm) trên phạm vi lãnh thổ lớn hơn (vĩ mô: vùng, tỉnh, cả nước).
Dựa vào các số liệu thống kê đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các
lĩnh vực sẽ nhập dự báo sử dụng đất, sau đó sẽ xây dựng phương án quy hoạch, kế hoạch
phân bổ, sử dụng và bảo vệ quỹ đất cho thời gian trước mắt cũng như lâu dài trên phạm
vi cả nước, theo đối tượng và mục đích sử dụng.
Dự báo cơ cấu đất đai (cho lâu dài) liên quan chặt chẽ với chiến lược sử dụng tài
nguyên đất đai. Chính vì vậy, việc dự báo sử dụng đất với mục tiêu cơ bản là xác định
tiềm năng để mở rộng diện tích và cải tạo đất nông – lâm nghiệp, xác định định hướng sử
dụng đất cho các nhu cầu chuyên dùng.
Trong khi đó, nội dung của chiến lược sử dụng đất đai bao gồm: Phân tích hiện
trạng phân bố và sử dụng quỹ đất cho các ngành, xác định tiềm năng đất để khai hoang đưa
vào sản xuất nông nghiệp, xác định nhu cầu đất đai cho các ngành kinh tế quốc dân, thiết
lập các biện pháp cải tạo, phục hồi và bảo vệ quỹ đất cũng như hoàn thiện việc sử dụng đất,
xây dựng dự báo phân bổ quỹ đất cho các ngành kinh tế quốc dân theo các đối tượng và
mục đích sử dụng
1.2.3. Mối quan hệ giữa QHSDĐ với quy hoạch phát triển nông nghiệp
Quy hoạch phát triển nông nghiệp xuất phát từ nhu cầu của phát triển kinh tế - xã
hội đối với sản xuất nông nghiệp để xác định hướng đầu tư, biện pháp, bước đi về nhân
10
lực, vật lực đảm bảo cho các ngành trong nông nghiệp phát triển đạt tới quy mô các chỉ
tiêu về đất đai, lao động, sản phẩm hàng hoá, giá trị sản phẩm, ... trong một thời gian dài
với tốc độ và tỷ lệ nhất định.Quy hoạch phát triển nông nghiệp là một trong những căn cứ
sử dụng đất đai, song quy hoạch phát triển nông nghiệp lại phải tuân thủ theo quy hoạch
sử dụng đất, đặc biệt là việc xác định cơ cấu sử dụng đất phải đảm bảo được việc chống
suy thoái, ô nhiễm đất và bảo vệ môi trường.
Quy hoạch sử dụng đất đai tuy dựa trên quy hoạch và dự báo yêu cầu sử dụng của
ngành nông nghiệp, nhưng chỉ có tác dụng chỉ đạo vĩ mô,khống chế và điều hoà quy
hoạch phát triển nông nghiệp. Hai loại quy hoạch này có mối quan hệ qua lại vô cùng mật
thiết và không thể thay thế lẫn nhau.
1.2.4. Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch đô thị.
Căn cứ vào yêu cầu của kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế xã hội và phát triển của
đô thị, quy hoạch đô thị sẽ định ra tính chất, quy mô, phương châm xây dựng đô thị, các
bộ phận hợp thành của đô thị, sắp xếp một cách hợp lý, toàn diện, bảo đảm cho sự phát
triển của đô thị được hài hoà và có trật tự, tạo những điều kiện có lợi cho cuộc sốngvà sản
xuất. Tuy nhiên, trong quy hoạch đô thị, cùng với sự bố trí cụ thể từng khoảng đất dùng
cho cá nhân dự án sẽ giải quyết cả vấn đề tổ chức và sắp xếp lại các nội dung xây dựng.
Quy hoạch sử dụng đất được tiến hành nhằm xác định chiến lược dài hạn về vị trí, quy
mô và cơ cấu sử dụng toàn bộ đất đai như bố cục không gian trong khu vực quy hoạch đô
thị.
Quy hoạch đô thị và quyhoạch sử dụng đất có mối quan hệ diện và điểm, cục bộ
và toàn bộ. Sự bố cục, quy mô sử dụng đất, các chỉ tiêu chiếm đất xây dựng trong quy
hoạch đô thị sẽ được điều hoà với quy hoạch sử dụng đất đai. Quy hoạch sử dụng đất đai
sẽ tạo điều kiện tốt cho xây dựng và phát triển đô thị.
1.2.5. Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch các ngành
11
Quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất đai với quy hoạch các ngành là quan hệ
tương hỗ vừa phát triển vừa hạn chế lẫn nhau. Quy hoạch các ngành là cơ sở và bộ phận
hợp thành của quy hoạch sử dụng đất, nhưng lại chịu sự chỉ đạo và khống chế của quy
hoạch sử dụng đất.
Quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất đai với quy hoạch các ngành là quan hệ cá
thể và tổng thể, cục bộ và toàn bộ, không có sự sai khác về quy hoạch theo không gian và
thời gian ở cùng một khu vực cụ thể. Tuy nhiên chúng có sự khác nhau rất rõ về tư tưởng
chỉ đạo và nội dung: Một bên là sự sắp xếp chiến thuật, cụ thể, cục bộ (quy hoạch ngành);
một bên là sự định hướng chiến lược có tính toàn diện và toàn cục (quy hoạch sử dụng
đất).
1.2.6. Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất cả nước với quy hoạch sử dụng đất
của các địa phương.
Quy hoạch sử dụng đất của cả nước với quy hoạch sử dụng đất của địa phương
cùng hợp thành hệ thống quy hoạch sử dụng đất đai hoàn chỉnh. Quy hoạch sử dụng đất
đaicả nước là căn cứ của quy hoạch sử dụng đất đai các địa phương (tỉnh, huyện, xã ).
Quy hoạch sử dụng đất đai cả nước chỉ đạo việc xây dựng quy hoạch cấp tỉnh. Quy hoạch
cấp huyện xây dựng trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh.Mặt khác, quy hoạch sử
dụng đất đai của cấp dướilà căn cứ dể chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện quy hoạch sử
dụng đất đai của cấp trên.
1.3. Cơ sở pháp lý của quy hoạch sử dụng đất đai
1.3.1. Những căn cứ pháp lý chung của quy hoạch sử dụng đất.
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
- Luật Đất đai năm 2013 ngày 29/11/2013 và các văn bản luật của Nhà nước có
liên quan đến quản lý và sử dụng đất đai.
- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính Phủ về thi
hành một số điều của Luật đất đai, Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
12
Phủ quy định bổ về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái
định cư;
- Thông tư số 29/2014/TT-BTNMT ngày 02/06/2014 của Bộ tài Nguyên &Môi
trường Quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất;
- Luật đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về việc thi hành
luật đất đai;
- Quyết định số 04/2005/QĐ-BTNMT, ngày 30/6/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên & Môi trường về ban hành quy trình lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất;
- Quyết định số 10/2005/QĐ-BTNMT ngày 24/10/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên & Môi trường về việc ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật lập và điều chỉnh quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Các nghị định: số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2007 và số 21/2008/NĐ-CP ngày
28/02/2008 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ môi trường.
+ Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ về việc quy định
bổ sung quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ tái định cư;
+ Thông tư số 19/2009/TT-BTNMT ngày 02/11/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường về hướng dẫn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Căn cứ văn bản số 2778/BTNMT-TCQLĐĐ của bộ Tài nguyên và Môi trường
về việc “Giao Sở Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn UBND cấp huyện lập quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2010 – 2015)”.
1.3.2. Căn cứ pháp lý của QHSDĐ xã Thanh Tân
- Luật Đất đai năm 2013 ngày 29/11/2013 và các văn bản luật của Nhà nước có
liên quan đến quản lý và sử dụng đất đai.
- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính Phủ về thi
hành một số điều của Luật đất đai, Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
13
Phủ quy định bổ về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái
định cư;
- Thông tư số 29/2014/TT-BTNMT ngày 02/06/2014 của Bộ tài Nguyên & Môi
trường Quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất;
- Luật đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về việc thi hành
luật đất đai;
- Quyết định số 04/2005/QĐ-BTNMT, ngày 30/6/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên & Môi trường về ban hành quy trình lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất;
- Quyết định số 10/2005/QĐ-BTNMT ngày 24/10/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên & Môi trường về việc ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật lập và điều chỉnh quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Các nghị định: số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2007 và số 21/2008/NĐ-CP ngày
28/02/2008 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ môi trường.
+ Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ về việc quy định
bổ sung quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ tái định cư;
+ Thông tư số 19/2009/TT-BTNMT ngày 02/11/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường về hướng dẫn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Căn cứ văn bản số 2778/BTNMT-TCQLĐĐ của bộ Tài nguyên và Môi trường
về việc “Giao Sở Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn UBND cấp huyện lập quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2010 – 2015)”.
- Hướng dẫn số 40/HD-STN&MT ngày 18 tháng 01 năm 2010 của sở Tài nguyên
và Môi trường hướng dẫn việc lập và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu
trên địa bàn tỉnh Hà Nam;
- Hướng dẫn số 189/HD-STN&MT của sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà
Nam ngày 26 tháng 4 năm 2012 về hướng dẫn bổ sung việc lập quy hoạch sử dụng đất,
kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu trên địa bàn tỉnh Hà Nam;
- Quyết định số 722/QĐ-UBND ngày 05 tháng 7 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh
14
Hà Nam về việc phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5
năm kỳ đầu (2011-2015) của huyện Thanh Liêm.
- Quy hoạch sử dụng đất đai xã Thanh Tân giai đoạn 2001 - 2010.
- Căn cứ vào nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ xã Thanh Tân nhiệm kỳ 2010 2015.
- Báo cáo chính trị của Đảng bộ xã Thanh Tân.
- Báo cáo của UBND xã Thanh Tân về các vấn đề phát triển kinh tế xã hội.
1.4. Các loại hình quy hoạch sử dụng đất đai
1.4.1. Quy hoạch sử dụng đất toàn quốc
Là chỗ dựa của quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh, được xây dựng căn cứ vào nhu
cầu của nền kinh tế quốc dân, kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế xã hội, trong đó xác
định phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ sử dụng đất cả nước nhằm điều hoà quan hệ
sử dụng đất giữa các ngành, các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương; đề xuất các
chính sách, biện pháp, bước đi để khai thác, sử dụng, bảo vệ và nâng cao hệ số sử dụng
đất, điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất và thực hiện quy hoạch.
1.4.2. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh
Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết
trong hệ thống quy hoạch sử dụng đất, nhằm đưa công tác quản lý đất đai có nề nếp, mang
lại tính hiệu quả trên nhiều mặt cho đất nước và xã hội.
Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh do UBND tỉnh trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng
và được Chính phủ trực tiếp phê duyệt. Trong hệ thống 4 cấp lập quy hoạch sử dụng đất,
thì cấp tỉnh có vị trí trung tâm và là khung sườn giữa vĩ mô và vi mô, giữa tổng thể và cụ
thể, giữa trung ương và địa phương.
Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh tác động trực tiếp đến việc sử dụng đất của các bộ,
ngành, các vùng trọng điểm, các huyện và một số dự án quy hoạch phân bổ sử dụng đất
cấp xã mang tính đặc thù, vừa cụ thể hoá thêm, vừa bổ sung hoàn thiện quy hoạch sử
dụng đất cả nước để tăng thêm sự ổn định của hệ thống quy hoạch sử dụng đất.
15
Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh còn là một công cụ quan trọng để Nhà nước quản
lý thống nhất toàn bộ đất đai của tỉnh thông qua tổ chức pháp quyền cấp tỉnh. Mặt khác,
quy hoạch sử dụng đát cấp tỉnh sẽ tạo ra những cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt trong
việc tiếp nhận những cơ hội của các đối tượng đầu tư từ bên ngoài vào phát triển kinh tế
xã hội trên địa bàn toàn tỉnh.
Quy hoạch tổng thể sử dụng đất cấp tỉnh coi quy hoạch sử dụng đất của toàn quốc,
của vùng làm căn cứ. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh là sự cụ thể hoá quy hoạch toàn
quốc trong phạm vi của tỉnh mình. Các vấn đề cần giải quyết gồm: xác định phương hướng,
nhiệm vụ và mục tiêu sử dụng đất cho toàn tỉnh; điều hoà nhu cầu sử dụng đất của các ngành, xử
lý mối quan hệ giữa khai thác sử dụng, cải tạo và bảo vệ; đề xuất cơ cấu, bố cục, phương
thức sử dụng đất của tỉnh và các chỉ tiêu sử dụng đất và các biện pháp để thực hiện quy
hoạch.
1.4.3. Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện
Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện là cơ sở để quyết định lựa chọn cho việc đầu tư. Như
vậy, đất đai thực sự sẽ được khai thác sử dụng vào mục đích cụ thể theo hướng ổn định, vững
chắc của quy hoạch phân bổ sử dụng đất cấp tỉnh.
Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện dưới sự chỉ đạo của UBND huyện căn cứ vào đặc tính
của nguồn tài nguyên đất và mục tiêu dài hạn phát triển kinh tế xã hội để giải quyết các
vấn đề như:
- Xác định phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản sử dụng đất của
huyện.
- Xác định quy mô, cơ cấu và phân bổ sử dụng đất của các ngành.
- Xác định cơ cấu, phạm vi và phân bố đất cho các công trình hạ tầng chủ yếu: xí
nghiệp công nghiệp, du lịch và nhu cầuđất đai cho các nhiệm vụ đặc biệt như bảo vệ bảo tồn, khu vực an ninh quốc phòng. Đề xuất chỉ tiêu khống chế sử dụng các loại đất
theo từng khu vực các xã trong huyện.
- Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện ở nước ta là một cấp cơ bản trong hệ thống
16
quy hoạch sử dụng đất, là cơ sở để cụ thể hoá quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh và cả nước.
Có tác dụng chỉ đạo và khống chể quy hoạch sử dụng đất của nội bộ các ngành, xí
nghiệp, kế thừa quy hoạch cấp trên và gợi ý cho quy hoạch cấp dưới. Do đó, phải được tổ
chức dưới sự lãnh đạo chủ chốt của cấp huyện, có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều
nhà khoa học, thực hiện một cách thiết thực, làm cho quy hoạch có tính khoa học, tính
tiên tiến, tính thực tiễn và tính khả thi cao.
1.4.4. Quy hoạch cấp xã
Quy hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng trong quá trình sử dụng đất. Luật đất đai
quy định tiến hành quy hoạch sử dụng đất đai ở 4 cấp: cả nước, tỉnh, huyện, xã. Lập quy
hoạch tiến hành theo trình tự từ trên xuống dưới và sau đó bổ sung hoàn chỉnh từ dưới
lên. Đây là quá trình có mối quan hệ trực tiếp và chặt chẽ giữa tổng thể và cụ thể, giữa vĩ
mô và vi mô, giữa trung ương và địa phương trong hệ thống chỉnh thể.
Cấp xã là cấp hành chính cơ sở bao gồm: xã, phường, thị trấn. Tài liệu quy hoạch
sử dụng đất đai cấp xã cho thời hạn 5 - 10 năm có tính pháp quy và sẽ là văn bản duy
nhất mang tính tiền kế hoạch. Vì vậy, trong quy hoạch cấp xã vấn đề sử dụng đất đai
được giải quyết rất cụ thể, gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của xã.
Quy hoạch sử dụng đất cấp xã giải quyết được những tồn tại về ranh giới hành chính,
ranh giới sử dụng đất từ đó tiến hành lập quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và cấp cao hơn,
làm cơ sở vững chắc để lập quy hoạch phân bổ đất đai cho các ngành, quy hoạch phân bổ đất
đai theo lãnh thổ. Mặt khác quy hoạch sử dụng đất cấp xã còn là cơ sở để chỉnh lý quy hoạch
sử dụng đất cấp cao hơn.
Nhiệm vụ của quy hoạch sử dụng đất cấp xã:
- Phản ánh cân đối trong việc phân bổ đất đai để tất cả các ngành sử dụng đất làm
căn cứ xây dựng và phát triển ngành vừa phù hợp với nhiệm vụ chung, vừa không chồng
chéo ảnh hưởng đến quy hoạch của nhau, nhằm sử dụng đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả cao
17
nhất nguồn tài nguyên đất đai, bảo vệ, mở rộng diện tích, nâng cao chất lượng đất sản xuất
nông lâm nghiệp.
- Giúp Chính phủ và UBND các cấp thực hiện được việc thống nhất quản lý đối
với đất đai.
- Quy hoạch sử dụng đất cấp xã cần đáp ứng nhu cầu về phân bố sử dụng đất đai
hiện tại và trong tương lai của các ngành trên địa bàn lãnh thổ một cách tiết kiệm, hợp lý
và có hiệu quả. Nó được coi là cơ sở để lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm, là căn cứ để
xây dựng các biện pháp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường, đảm bảo việc thống
nhất quản lý Nhà nước đối với đất đai.
1.5. Tình hình quy hoạch sử dụng đất đai trong và ngoài nước.
1.5.1. Tình hình quy hoạch sử dụng đất đai trên thế giới
1.5.1.1. Một số nước ở Châu Âu
- Quy hoạch sử dụng đất ở Áo: Ở Áo, vai trò của chính phủ bị hạn chế trong việc
lập và thực hiện quy hoạch. Cơ chế tiến hành ở đây là tất cả các cấp lập quy hoạch đều
tiến hành đồng thời bao gồm cả các tổ chức cũng như thành viên xã hội thông qua hội
nghị quy hoạch quốc gia. Hội nghị này đưa ra các quan điểm và mục tiêu cho cả nước.
Những ý kiến của hội nghị được đưa lên cấp trung ương và đưa xuống cấp vùng địa
phương (Nguyễn Hữu Ngữ, 2010).
- Quy hoạch sử dụng đất ở Canada:Canada là một nước liên bang nên quy hoạch
sử dụng đất có những điểm riêng biệt. Theo đó, chính quyền trung ương không có vai trò
trong việc lập quy hoạch sử dụng đất. Thẩm quyền này thuộc về các bang. Mỗi bang có
quyền tự trị riêng về đất đai và tài nguyên, do đó đều có hệ thống quy hoạch riêng. Tại
mỗi bang, chính quyền địa phương lập quy hoạch theo 2 cấp gồm kế hoạch phát triển
(như quy hoạch tổng thể) và quy hoạch vùng. Chính quyền cấp bang xây dựng khuôn khổ
pháp lý cho việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quyết định trực tiếp một số vấn đề
18
quan trọng liên quan đến đất đai; hoạch định chính sách, giám sát và kiểm soát trực tiếp
việc phân chia đất đai.
Công tác quy hoạch sử dụng đất được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật của
cơ quan lập pháp của bang, với một đạo luật đặc biệt cho thành phố thủ đô và một Luật
quy hoạch cho 200 thành phố còn lại. Theo Luật quy hoạch chính quyền bang, mỗi thành
phố lập kế hoạch phát triển và bản quy hoạch vùng. Kế hoạch phát triển phải tuân thủ các
quy định, chính sách của bang; các cơ quan khác phải được tham vấn trong quá trình
chuẩn bị kế hoạch (Tổng cục Quản lý đất đai, 2012)..
Trước năm 2005, kỳ quy hoạch ở Canada là 05 năm nhưng thực tế chứng minh là
không hợp lý, nên hiện nay, Luật quy hoạch của Canada không quy định khoảng thời
gian này. Do đó, kỳ quy hoạch có thể rất linh hoạt, có thể thay đổi nhưng phải thực hiện
các thủ tục phê duyệt theo quy định của Luật.
- Cộng hòa Liên bang Đức:Đức là nước lập quy hoạch quốc thổ sớm nhất từ đầu thế
kỷ XX, năm 1950 ban hành Luật Quy hoạch quốc thổ Cộng hòa Liên bang Đức.
Do yêu cầu nông nghiệp giảm, nhu cầu lao động công nghiệp và xây dựng của
thành phố tăng mà số dân di cư ra thành phố cũng tăng cao. Để giảm bớt tình trạnh tập quá
lớn dân cư vào các cụm công nghiệp, gây khó khăn cho đời sống đô thị, người ta đã lập ra
các điểm dân cư trung tâm, thuộc ngoại vi thành phố.
Ở đó, hệ thống giao thông rất phát triển và được nối với các thành phố lớn bằng các
tuyến đường ngắn nhất, có chất lượng cao, mục tiêu là thu hút dân cư trong trung tâm đô
thị. Đây là một trong những giải pháp độc đáo của các nhà quy hoạch Đức. Điều này
chứng tỏ người Đức đã rất thành công trong việc khống chế sự phát triện các đô thị vừa và
nhỏ trên khắp lãnh thổ. Những điểm dân cư gắn với sản xuất nông nghiệp vẫn giữ hình thức
làng quê truyền thống, được hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống đường ô tô hầu như được rải
nhựa đến tận nhà (Tổng cục Quản lý đất đai, 2012).
1.5.1.2. Một số nước ở Châu Á
19
- Quy hoạch sử dụng đất ở Hàn Quốc: Việc lập quy hoạch sử dụng đất ở Hàn
Quốc được thực hiện theo các cấp: quốc gia, cấp tỉnh, vùng thủ đô, cấp huyện và vùng đô
thị cơ bản. Theo đó, quy hoạch sử dụng đất được thực hiện từ tổng thể tới chi tiết. Quy
hoạch cấp tỉnh, vùng thủ đô phải căn cứ trên cơ sở quy hoạch cấp quốc gia; quy hoạch
cấp huyện, vùng đô thị phải căn cứ vào quy hoạch cấp tỉnh.
Ở Hàn Quốc, quy hoạch cấp quốc gia do Bộ trưởng các bộ là Bộ Đất đai, Giao
thông và Hàng hải phê duyệt, quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh do tỉnh phê duyệt, quy
hoạch đất cấp huyện hoặc quy hoạch đô thị cơ bản do Tỉnh trưởng phê duyệt. Quốc hội
không can thiệp vào quá trình xét duyệt quy hoạch sử dụng đất. Ở Hàn Quốc, kỳ quy
hoạch đối với cấp quốc gia, cấp tỉnh là 20 năm, quy hoạch sử dụng đất vùng đô thị cơ bản
và kế hoạch sử dụng đất là 10 năm. Sau 5 năm sẽ tiến hành rà soát để điều chỉnh cho phù
hợp với yêu cầu phát triển và thị trường.
Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Sau khi
quy hoạch được phê duyệt sẽ được công khai và phổ biến đến nhân dân. Chính quyền các
cấp có trách nhiệm tiếp thu, giải trình ý kiến nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đó (Tổng cục Quản lý đất đai, 2012).
- Quy hoạch sử dụng đất ở Trung Quốc:Ở Trung Quốc, quy hoạch sử dụng đất
được lập theo 4 cấp: cấp quốc gia, cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương, thành phố
thuộc tỉnh), cấp huyện và cấp xã.Việc lập quy hoạch sử dụng đất phải bảo đảm tuân thủ
triệt để nhiều nguyên tắc, như: sử dụng đất phải tiết kiệm, đem lại hiệu quả sử dụng cao
nhất; bảo đảm sự cân bằng giữa nhu cầu và lợi ích sử dụng đất của các ngành kinh tế, xã
hội và các địa phương; tăng cường bảo vệ môi trường, phát triển sinh thái tự nhiên nhằm
duy trì và nâng cao chất lượng sống cho người dân của cả nước…
Tuy nhiên, nguyên tắc quan trọng nhất là bảo vệ nghiêm ngặt 120 triệu ha đất canh
tác. Điều này được thể hiện rõ và xuyên suốt trong hệ thống pháp luật về đất đai của
Trung Quốc. Theo đó, trong quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia phải xác định được diện
tích đất canh tác cần bảo vệ nghiêm ngặt theo quy định của Nhà nước, trong đó phải chỉ
20
rõ diện tích đất canh tác cơ bản có chất lượng tốt nhất cần được duy trì vĩnh cửu và không
được phép chuyển đổi mục đích sử dụng dưới bất cứ lý do gì.
Hàng năm, căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất được duyệt, Chính phủ giao chỉ tiêu
chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang mục đích khác cho từng tỉnh. Trên cơ sở
đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân bổ cụ thể cho từng đơn vị hành chính cấp huyện và
Ủy ban nhân dân cấp huyện phân bổ kế hoạch sử dụng đất đến từng đơn vị xã để thực
hiện. Việc chuyển mục đích sử dụng đất canh tác sang sử dụng vào các mục đích khác
phi nông nghiệp phải được phê duyệt tại cấp tỉnh và Chính phủ. Trường hợp quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất bị vi phạm thì tùy mức độ vi phạm mà người đứng đầu địa phương
sẽ bị xử lý hành chính hoặc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đất bị vi phạm sẽ bị thu
hồi (Tổng cục Quản lý đất đai, 2012).
Bộ Đất đai và Tài nguyên quốc gia và Cơ quan quản lý đất đai thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh đều có trách nhiệm chung là tổ chức lập và thực hiện quy hoạch đất quốc
gia, quy hoạch tổng thể sử dụng đất; tham gia vào việc thẩm tra quy hoạch tổng thể đô thị
trình Quốc vụ viện phê chuẩn. Nhìn chung, Bộ Đất đai và Tài nguyên quốc gia chỉ đạo và
thẩm tra quy hoạch tổng thể sử dụng đất của địa phương; còn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
phê duyệt, chỉ đạo và thẩm định quy hoạch tổng thể sử dụng đất của thành phố (thuộc
tỉnh), huyện. Cơ quan quản lý đất đai thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện căn cứ vào quy
hoạch tổng thể sử dụng đất của cấp trên, tổ chức lập và thực hiện quy hoạch tổng thể sử
dụng đất và các quy hoạch chuyên ngành có liên quan cấp huyện. Phòng tài nguyên đất
đai cấp xã lập và thực hiện quy hoạch tổng thể sử dụng đất cấp xã, hợp tác và hỗ trợ làm
tốt công tác lấy ý kiến quần chúng đối với quy hoạch.
Chính phủ phê duyệt quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, các thành phố thuộc tỉnh nhưng có trên 1 triệu dân, các đặc khu kinh
tế. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch sử dụng đất của các đơn vị hành chính
cấp huyện và quy hoạch sử dụng đất của cấp xã.Ở Trung Quốc, theo quy định của Luật
đất đai năm 1999 thì kỳ quy hoạch sử dụng đất của các cấp là 10 năm.
21
Như vậy, quy hoạch sử dụng đất đã được nghiên cứu và áp dụng thực hiện ở
nhiều quốc gia trên thế giới với nhiều hình thức khác nhau. Trong vài thập kỉ gần đây,
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là FAO đã nhận thấy việc sử dụng đất đai không thể
giải quyết riêng rẽ theo từng ngành mà phải xem xét một cách toàn diện thoả đáng cả 3
vấn đề lớn: Kinh tế, xã hội, môi trường và sử dụng đất bền vững trong mối quan hệ thuận
nghịch chặt chẽ với nhau.
1.5.2. Quy hoạch sử dụng đất đai ở Việt Nam qua các thời kỳ.
Công tác xây dựng quy hoạch sử dụng đất ở nông thôn được triển khai bắt đầu từ
những năm 1960 khi phong trào hợp tác hóa nông nghiệp phát triển ở miền Bắc. Ban đầu
công tác quy hoạch còn ở mức độ nhỏ bé do việc quy hoạch nông thôn do Bộ Xây dựng
thực hiện, đến năm 1980 công tác quy hoạch được phát triển mạnh mẽ rộng khắp cả
nước.
1.5.2.1. Giai đoạn trước năm 1980
Quy hoạch sử dụng đất chưa được coi là công tác của ngành quản lý đất đai mà chỉ
được đề cập đến như là một phần của quy hoạch phát triển nông nghiệp. Mặc dù công tác
quy hoạch sử dụng đất đai lồng vào công tác phân vùng quy hoạch nông, lâm nghiệp đã
được xúc tiến vào năm 1962 nhưng chủ yếu là do các ngành chủ quản tiến hành cùng với
một số tỉnh, ngành có liên quan và chưa có sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ.
Công tác quy hoạch trong giai đoạn này lấy hợp tác xã làm đối tượng chính,
phương châm chủ yếu là: phục vụ sản xuất nông nghiệp, phục vụ đời sống nhân dân lao
động, phong trào hợp tác hóa. Trong quá trình xây dựng lựa chọn những xã có phong trào
hợp tác xã mạnh để thiết kế quy hoạch, sau đó tiến hành mở rộng quy hoạch. Nội dung
của quy hoạch thời kỳ này được thể hiện:
- Thiết kế xây dựng mọi cơ sở kinh tế kỹ thuật phục vụ cho hợp tác hóa.
- Khai khẩn mở rộng diện tích đất sản xuất.
- Quy hoạch cải tạo làng, xã, di chuyển một số xóm nhỏ lẻ giải phóng đồng ruộng
đưa cơ giới vào canh tác, xây dựng các công trình công cộng cho trung tâm xã.
22
- Cải thiện điều kiện sống, xây dựng nhà ở, sắp xếp các lô đất ngăn nắp, trật tự, cải
tạo đường làng ngõ xóm.
1.5.2.2 Giai đoạn 1981 – 1986
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 đã chỉ rõ: "Xúc tiến công tác điều tra
cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiên cứu chiến
lược kinh tế xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm sau".
Thực hiện nghị quyết này, các tỉnh, thành phố đã tham gia triển khai chương trình lập
tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất tại Việt Nam đến năm 2000.
Trong các tài liệu sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất của tỉnh đều đề cập đến vấn đề
sử dụng đất đai và được tính toán tương đối có hệ thống để khớp với cả nước, các vùng
kinh tế lớn, các huyện trong tỉnh với sự tham gia phối hợp của các ngành. Các tài liệu này
đã bước đầu đánh giá được hiện trạng, tiềm năng đất đai và đưa ra các dự kiến sử dụng
quỹ đất quốc gia đến năm 2000.
1.5.2.3. Giai đoạn 1987 – 1993
Đây là thời kỳ công tác quy hoạch sử dụng đất đai đã có được cơ sở pháp lý quan
trọng. Song cùng với sự trầm lắng của công tác quy hoạch nói chung sau một thời kỳ
triển khai rầm rộ, công tác quy hoạch sử dụng đất cũng chưa được xúc tiến như luật đã
quy định.
Đây là thời kỳ công cuộc đổi mới ở nông thôn diễn ra sâu sắc cùng với việc giảm
vai trò quản lý tập trung của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nên công tác quy hoạch cấp
xã trong giai đoạn này nổi lên như một vấn đề cấp bách. Đây là mốc đầu tiên trong việc
triển khai quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã trên khắp các xã của cả nước. Tuy vậy còn
nhiều hạn chế về nội dung và phương pháp thực hiện.
1.5.2.4. Thời kỳ 1994 - 2003
Trong giai đoạn này, việc nghiên cứu, triển khai công tác quy hoạch sử dụng đất
đai trên phạm vi cả nước được các ngành, các cấp và mọi thành viên trong xã hội hưởng
ứng. Đây chính là mốc bắt đầu của thời kỳ đưa công tác quản lý đất đai vào nề nếp sau
23
một thời gian dài tuyệt đối hóa về công hữu đất đai ở miền Bắc và buông lỏng công tác
này ở các tỉnh phía Nam dẫn đến tình trạng có quá nhiều diện tích đất không có chủ sử
dụng đất.
Đặc biệt từ năm 1995, Chính phủ đã chỉ đạo công tác quy hoạch sử dụng đất đai
một cách chặt chẽ hơn, cụ thể hơn. Trong thời gian này, Tổng cục địa chính (cũ) đã xây
dựng báo cáo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của cả nước đến năm 2010.
Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội đã thông qua kế hoạch sử dụng đất đai cả nước giai
đoạn 1996 - 2000. Đây là lần đầu tiên, có một báo cáo về quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất tương đối đầy đủ các khía cạnh về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và
môi trường đối với việc khai thác sử dụng đất đai cho một thời gian tương đối dài được
soạn thảo theo phương pháp tiếp cận từ trên xuống dưới và có điều tra thống kê để tổng
hợp từ dưới lên.
Giai đoạn này, đã có nhiều tỉnh soạn thảo và triển khai quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, ở cấp huyện và xã cũng đang được tổ chức triển khai lập quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Các phương án quy hoạch
này ngày càng được đảm bảo tốt hơn các yêu cầu về nội dung khoa học và pháp lý nhằm
đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra (Nguyễn Hữu Ngữ, 2010).
1.5.2.5. Thời kỳ từ năm 2003 đến nay
* Về căn cứ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
Căn cứ theo quy định của Hiến pháp 1992, pháp luật về đất đai trong giai đoạn này
đã không ngừng hoàn thiện các quy định về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
nhằm khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên đất.
Ngoài Luật đất đai, các nghị định dưới luật, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành
các văn bản hướng dẫn về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong phạm vi cả
nước.
Nhìn chung, các quy định của pháp luật hiện hành đã tạo ra hành lang pháp lý
tương đối hoàn chỉnh cho việc triển khai công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất bao
24
gồm về loại hình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; về nguyên tắc, căn cứ, trách nhiệm để
lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; về nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; về
thẩm quyền quyết định, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và quy định về việc triển khai
thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
* Về tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước, của cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã;
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của khu công nghệ cao, khu kinh tế và quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh các giai đoạn 2001 - 2005 và 2006 2010 đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả.
Qua hai kỳ thực hiện kế hoạch sử dụng đất cho thấy diện tích đất lúa đã được bảo
vệ khá tốt. Tuy nhiên, việc chuyển diện tích trồng lúa nước, nhất là đối với đất lúa có khả
năng nông nghiệp cao chưa được cân nhắc một cách đầy đủ. Đáng lưu ý là ở một số địa
phương có thể sử dụng đất khác để xây dựng khu công nghiệp và phát triển khu dân cư
nhưng vẫn sử dụng vào đất lúa.
Trong những năm gần đây, tình hình phát triển đô thị của nước ta đã có chuyển
biến mạnh mẽ. Hàng loạt dự án xây dựng các khu đô thị đã và đang được triển khai tạo ra
những biến đổi đáng kể cho các đô thị. Tuy nhiên, việc phân bổ sử dụng đất, phân khu
chức năng trong các đô thị mới còn nhiều bất cập, nhiều nơi mật độ xây dựng quá dày,
không chú ý dành quỹ đất cho phát triển các công trình công cộng và bảo vệ môi trường.
25