Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Đường lối cách mạng của ĐCSVN Thể chế kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.48 KB, 6 trang )

BÀI TẬP NHÓM 5
-----------------

Đề bài: Phân tích sự giống và khác nhau và thể chế kinh tế Việt Nam
trước và sau thời kỳ đổi mới? Vì sao có sự giống và khác nhau đó?
Bài làm
Thể chế kinh tế luôn là vấn đề trọng yếu, tác động trực tiếp không những đến phát
triển kinh tế nói riêng, mà còn trực tiếp tác động đến sự ổn định của chế độ chính trị - xã
hội. Thể chế kinh tế hiệu quả không chỉ làm cho đất nước có nền kinh tế phát triển, giàu
mạnh, mà còn góp phần quan trọng bảo đảm chế độ chính trị, xã hội được ổn định và bền
vững. Ngược lại, thể chế kinh tế kém hiệu quả không những sẽ đưa nền kinh tế đó trở nên
nghèo nàn, đói khổ, mà còn tác động trực tiếp làm cho chế độ chính trị mất ổn định (có
thể sụp đổ).
Trước khi đổi mới,thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã phát
huy tác dụng trong thời chiến tranh, đã cho chúng ta điều kiện tốt để huy động của cải vật
chất và sức dân phục vụ cho hai cuộc kháng chiến vĩ đại. Tuy nhiên, thể chế kinh tế này
không có khả năng giải phóng sức lao động và khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của mọi
người để làm cho nền kinh tế có thể phát triển trong giai đoạn hòa bình. Khi bước vào
thời kỳ hòa bình, thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp không những
không phát huy được tác dụng, mà còn trở thành vật cản cho sự phát triển của đất
nước.Như một tất yêu khách quan buộc Đảng phải có sự chuyển biến, đổi mới hoàn thiện
thể chế để phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ thể
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Sự giống nhau về thể chế trước và sau thời kì đổi mới:
 Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho sự

phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Nhìn một cách tổng quát thì trước và sau đổi mới, quan niệm của Đảng ta luôn
giữ vững về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Trước đổi mới, khái niêm thường được dùng để chỉ bộ phận kinh tế thuộc sở


hữu nhà nước, do nhà nước trực tiếp quản lí và kinh doanh là kinh tế quốc
doanh.Sau đổi mới khái niệm kinh tế nhà nước đã được sử dụng phổ biến và hoàn
toàn thay thế cho khái niêm kinh tế quốc doanh.


Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) chỉ rõ:
vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp Nhà nước “thể hiện ở chỗ mở đường
và hỗ trợ cho các thành phần khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và
lâu bền của nền kinh tế, là một công cụ có sức mạnh vật chất của Nhà nước điều
tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Văn kiện Đại hội VIII (1996) nêu cụ thể: “tiếp tục đổi mới và phát triển có
hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh
tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ
trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà
nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã
hội mới”.
Văn kiện Đại hội IX (2001) lại nêu: kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước giữ những vị
trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng
suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật”.
Văn kiện Đại hội X (2006) một lần nữa khẳng định: “kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều
tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế
cùng phát triển”.
**Nguyên nhân:
Thứ nhất, kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước) về tư liệu
sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản
xuất. Ở đây, cần phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hữu. Nhà nước- đại diện cho
toàn dân – là chủ sở hữu công cộng của toàn dân.

Thứ hai, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của
nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành
phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền
kinh tế; là lựclượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên
kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Thứ tư, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác không chỉ
bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua
những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa hoc – công nghệ
hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho
ngân sách nhà nước, và tự tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.


Thứ sáu, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế,
đô thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan
trọng sống còn, nhưng đòi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn lại chậm…
 Chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước vẫn được duy trì tuy nhiên có sự thay đổi

về mức độ tác động.
Trước đổi mới vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước gần như là tuyệt đối. Nhà
Nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống
chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ
sở các quyết định của cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh
được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản
phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết
định. Nhà Nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp,
doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà Nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà
nước thu.
Sau đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta, tính tất yếu trong việc duy trì vai

trò quản lý vĩ mô của nhà nước đã được Đại hội VII của Đảng khẳng định “Tiếp
tục xóa bỏ cơ chế quan liêu bao câp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Bàn tay vô hình với những quy luật
kinh tế của nền kinh tế thị trường phát huy được rất nhiều ưu điểm tạo ra một môi
trường kinh doanh lành mạnh, tối ưu. Tuy nhiên, muốn tạo lập một nền kinh tế thị
trường hoàn chỉnh thì ở đó vẫn cần có sự quản lý của nhà nước nhằm khắc mục
những thất bại của thị trường, thực hiện mục tiêu nhân đạo mà bản thân thị trường
không thể khắc phục được.
Vai trò quản lý vĩ mô trong thời kỳ đổi mới thể hiện ở những đặc điểm sau:
• Nhà nước cần phải xây dựng các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội phù hợp với điều kiện của nước ta theo các mục tiêu mong muốn.
-Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay, các doanh nghiệp được quyền tự
do lựa chọn những phương án sản xuất kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận
các doanh nghiệp có thể định hướng cho hành vi của họ . Trong nền kinh tế
hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
và cạnh tranh có thể dẫn tới sự triệt tiêu các nguồn lực kinh tế, làm cho môi
trường kinh doanh bị phá hủy và nền kinh tế không thể nào phát triển. Bằng
việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế, nhà nước quản lí và can thiệp
vào các doanh nghiệp vơi mục tiêu làm giàu cho đất nước. Thực chất của sự
định hướng phát triển cả nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau,
quy tụ các lợi ích khác nhau về cùng một lợi ích để mỗi người theo đuổi lợi
ích cá nhân của mình cũng là theo đuổi lợi ích của cả dân tộc.


Đề ra chiến lược phát triển kinh tế trong dài hạn.
-Vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước là ở chỗ nhà nước là người hoạch
định các chương trình phát triển kinh té xã hội, mà mỗi chương trình là một
cơ hồi đầu tư mở rộng sản xuất cho doanh nghiệp. Như vậy bằng cách
hoạch định các chương trình phát triển kinh tế nhà nước có thể thực hiện
được ý đồ của mình nhằm cho đất nước phát triển vững chắc công bằng

hiệu quả
• Can thiệp vào kinh tế khi cần thiết.
-Định hướng, tạo môi trường, phân phối thu nhập là những công việc cần
thiết thể hiện vai trò của nhà nước trong chiến lược dài hạn.Trong quá trình
thực hiện các chiến lược đó, dưới ảnh hưởng cua cơ chế cung cầu- giá cả
trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế
quốc tế, chính vì vậy trong quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của các
chương trình dài hạn, những cú sốc làm chệch mục tiêu là điều không tránh
khỏi. Trong những trường hợp đó, nhà nước cần phải sử dụng công cụ lãi
suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những trấn
động do cú sốc gây ra, đưa nền kinh tế theo định hướng
• Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực môt cách hợp lý.
-Nhà nước là người đảm nhận vai trò thiết lập và duy trì quyền sở hữu các
nguồn lực kinh tế theo hướng xác định rõ chủ sở hữu đích thực của dông
dân, của các doanh nghiệp tập thể tư nhân và Nhà nước.
-Nhà nước đóng vai trò “ bà đỡ” cho sự ra đời của cơ chế thị trường, các
thành phần kinh tê, hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc thành phàn kinh tế
khác nhau kinh doanh có hiệu quả.


 Tiếp tục giữ chủ trương phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với

tiến bộ và công bằng xã hội
Đây là quan điểm xuyên suốt trong các thời kỳ lịch sử và vẫn được giữ vững cả
trước và sau đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết thực tiễn, phát triển lý
luận trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội một cách khoa
học. Đảng ta cho rằng, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiền đề để thực hiện công bằng xã hội, không thể

có công bằng, tiến bộ xã hội nếu không dựa trên nền tảng tăng trưởng kinh tế. Mặt
khác, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực, điều kiện quan trọng có tác
dụng thúc đẩy, bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Mỗi bước tiến của tăng
trưởng kinh tế gắn với việc từng bước thực hiện mục tiêu tiến bộ, công bằng xã
hội ở từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đại hội X của Đảng khẳng định:


"Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải
quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người
2. Sự khác nhau về thể chế trước và sau thời kỳ đổi mới:

Trước Đổi mới
Sau Đổi mới
Nguyên nhân
Đường
Đường lối quản lý kinh tế Dần chuyển sang nền kinh nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
lối lãnh kế hoạch hóa tập trung.
tế thị trường xã hội chủ quan liêu bao cấp phát huy tác
đạo
nghĩa.
dụng trong thời chiến song không
có khả năng giải phóng sức lao
động khơi dậy tiềm năng sang tạo
của con người để làm cho nền kinh
tế phát triển khi khi thời bình.
Sự phân công lao động trong xã
hội cũng làm xuất hiện nhiều hình
thức sở hữu và nhiều thành phần
kinh tế khác nhau. Sự thay đổi trở

thành một điều kiện tất yếu để phát
triển kinh tế bắt kịp với sự phát
triển của thế giới nhưng vẫn phù
hợp với định hướng chính trị ở
Việt Nam.
Sự quản Bộ máy quản lý cồng kềnh Bộ máy quản lý đã có nhiều Sự quản lý của chính phủ thay đổi

của nhiều cấp trung gian và sự thay đổi với sự ban hành là điều kiện tất yếu để phù hợp với
Nhà
kém năng động sinh ra đội của nhiều bộ luật như là sự thay đổi trong đường lối lãnh
nước
ngũ quản lý kém năng lực luật doanh nghiệp, luật đao. Trong mô hình kinh tế cũ
phong cách cửa quyền thuế.
quan hệ tiền – hàng bị coi nhẹ ,giá
quan liêu.
cả gần như không có quan hệ gì
với giá trị hàng hóa ,cũng như là
Nhà nước bao cấp toàn bộ Nhà nước thừa nhận sự tồn tương quan cung cầu nên mọi sự
giá, tiền lương hiện vật và tại khách quan của nền kinh tính toán là sai lệch làm mất đi
chế độ cấp phát vốn của tế hàng hóa nhiều thành động lực của sự phát triển ,hình
ngân sách
phần giá cả được chuyển thành cơ chế kìm hãm phát triển
sang vận động theo nguyên kinh tế - xã hội.
tắc thị trường một cách
thống nhất đồng bộ, hàng
hóa được buôn bán tự do
trên thị trường.
Các
thành
phần

kinh tế

Gồm các thành phần kinh Gồm các thành phần kinh tế
tế nhà nước, tập thể và cá nhà nước, tập thể và cá thể.
thể.
Kinh tế Nhà nước vẫn giữ
Kinh tế Nhà nước giữ vai vài trò chủ đạo.
trò chủ đạo.

Sự xuất hiện của các thành phần
kinh tế mới là kết quả tất yếu của
quá trình đổi mới và hội nhập quốc
tế, trong một số ngành kinh tế,
kinh tế nhà nước tỏ ra hoạt động
không hiệu quả gây thất thoát lớn


Các thành phần kinh tế cho ngân sách nhà nước nên nhà
Không tồn tại kinh tế tư mới: kinh tế tư nhân, kinh nước không thể tiếp tục độc quyền
nhân, không có các hoạt tế tư bản nhà nước, kinh tế trong các ngành kinh tế đó.
động thương mại buôn bán có vốn đầu tư nước ngoài
tự do trên thị trường.
dần thể hiện được vai trò và
vị trí của mình trong tổng
thể nền kinh tế quốc dân.
Sự quản
lý trong
các
doanh
nghiệp

Nhà
nước

Nhà nước quản lý nền kinh
tế chủ yếu bằng mệnh lệnh
hành chính dựa trên chỉ
tiêu pháp lệnh từ trên
xuống dưới.
Các cơ quan hành chính
can thiệp quá sâu vào hoạt
động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nhưng
không chịu trách nhiệm về
vật chất đối với các quyết
định của mình.

Một số doanh nghiệp Nhà
nước dần tiến hành cổ phần
hóa và hoạt động như các
doanh nghiệp khác trên thị
trường.

Giúp tăng quyền tự chủ cho các
doanh nghiệp nhà nước, chuyển
sang hình thức hạch toán kinh
doanh ăn lời chịu lỗ.




×