Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đường lối cách mạng của ĐCSVN Văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.88 KB, 12 trang )

I. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

1. Xây dựng nền văn hóa trước đổi mới
• Khái niệm “Văn hoá”
- Quan niệm hẹp: Những giá trị, sáng tạo tinh thần, xã hội.
- Quan niệm rộng: Bao gồm cả quá trình sáng tạo và trình độ phát triển vật
chất, tinh thần của xã hội loài người trong suốt quá trình lịch sử.
- “Văn hóa là tất cả những sáng tạo hữu thức của một cộng đồng người vì
mục đích tồn tại và phát triển ”. Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà
của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của
cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa.
- Văn hóa là một phạm trù rất rộng. Xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ
xây dựng và phát triển văn hóa của nước ta hiện nay, Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII) khi đề cập đến phạm vi của văn hóa đã cụ thể thành 8 lĩnh vực lớn, đó
là: Tư tưởng, đạo đức, lối sống; di sản văn hóa; giáo dục và đào tạo; khoa học và
công nghệ; văn học, nghệ thuật; thông tin đại chúng; giao lưu văn hóa với thế giới;
thể chế và thiết chế văn hóa.
- Phân loại văn hoá:
+ Văn hoá vật chất: Những sáng tạo đáp ứng nhu cầu thụ hưởng vật chất.
+ Văn hoá tinh thần: Những sáng tạo đáp ứng nhu cầu thụ hưởng tinh thần.
+ Văn hoá vật thể (Tangible).
+ Văn hoá phi vật thể (Intangible).
- Khái niệm “Văn minh”: Là sáng tạo văn hoá trong thời đại văn minh đạt
tới trình độ cao có thể truyền bá ra ngoài không gian văn hoá sản sinh ra nó. Văn
minh thường được dùng để chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần của nhân
loại đến một thời kỳ lịch sử nào đó.
• Quan điểm xây dựng nền văn hóa mới


Đề cương văn hóa 1943


Đã đề xuất những tư tưởng lớn cho một nền văn hóa mới của Việt Nam:
- Cùng với kinh tế và chính trị, văn hóa là một mặt trận, ở đó người cộng sản
phải hoạt động, ĐCS phải lãnh đạo.
- Sự phát triển của nền văn hóa dân tộc gắn liền với độc lập dân tộc và quyền
dân chủ của nhân dân.
- Dân tộc, khoa học, đại chúng nêu trong đề cương thực chất bao gồm ba
tính chất "dân tộc, hiện đại, nhân văn" theo cách thể hiện ngày nay.
- Tóm lại, Bản Đề cương văn hóa 1943 cho thấy:
+ Đảng đã đề ra đường lối văn hoá của mình và nhận thức rõ vai trò của văn
hoá trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, đồng thời thấy rõ trách nhiệm của mình
với tương lai văn hoá Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc.
+ Đó là ngọn đèn soi cho cách mạng Việt Nam về một nền văn hoá dân tộc,
dân chủ, mở đường cho Cách mạng tháng Tám thắng lợi và dọn đường cho cách
mạng văn hoá tiến bước. Nó trở thành tôn chỉ của cuộc cách mạng mới, cách mạng
văn hoá do toàn dân tham gia và bảo vệ các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
+ Đây là cơ sở, nền tảng để Đảng tiếp tục hoàn thiện, phát triển đường lối
văn hoá của mình. Đây cũng là một định hướng quan trọng cho sự ra đời của nền
văn hoá Việt Nam sau khi chúng ta giành chính quyền và tiến hành cuộc kháng
chiến chống Pháp.
Đường lối văn hoá kháng chiến (1945-1954)
- Thể hiện qua các văn kiện:
+ Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” (25-11-1945).
+ Báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam” (Trường Chinh, 7-1948).
- Nội dung:
+ Xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ
động văn hoá cứu quốc;


+ Xây dựng nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa
học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc đó là Dân tộc, Dân chủ (nghĩa là yêu

nước và tiến bộ);
+ Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học
theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ;
+ Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới;
+ Phát triển cái hay trong văn hoá dân tộc; đồng thời bài trừ cái xấu xa, hủ
hoại, ngăn ngừa sức thâm nhập của văn hoá thực dân, phản động; đồng thời học cái
hay, cái tốt của văn hoá thế giới;
+ Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng
chiến kiến quốc 9 năm và cho cách mạng Việt Nam.
- Như vậy, nhiệm vụ của nền văn hoá mới là:
+ Phải “lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”. Nhiệm vụ của
văn hoá là “phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Văn hoá phục vụ nhân dân là
tư tưởng nền tảng của Đảng, là cơ sở tư tưởng để xây dựng nền văn hoá mới.
+ Nền văn hoá Việt Nam phải được cấu trúc lại, nếu muốn đưa dân tộc đi
đến văn minh, hiện đại, ở đó những thiếu hụt trong các giá trị truyền thống phải
được bù đắp, chuyển đổi, phải quán triệt lấy văn hoá làm nền tảng của sự phát triển.
+ Văn hoá, văn nghệ là một mặt trận. Văn hoá có nhiệm vụ khai sáng và
giáo dục nhân dân, văn hoá soi đường cho quốc dân đi.
+ Dân tộc, tính chất dân tộc, bản sắc dân tộc là vấn đề hàng đầu của nền văn
hóa. Đảng đặt sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới vào quá trình xây dựng và bảo
vệ đất nước, là một bộ phận khăng khít với kinh tế và chính trị trong toàn bộ sự
nghiệp cách mạng Việt Nam
Tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá (1954-1986)
- Tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá đồng thời với cuộc cách
mạng về QHSX và cách mạng về khoa học- kỹ thuật, xây dựng và phát triển nền
văn hoá mới, con người mới.


- Mục tiêu: Làm cho nhân dân thoát nạn mù chữ và thói hư tật xấu do xã hội
cũ để lại, có trình độ văn hoá ngày càng cao, có hiểu biết cần thiết về khoa học, kỹ

thuật tiên tiến để xây dựng CNXH, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá.
- Xây dựng nền văn hoá mới có nội dung XHCN và tính chất dân tộc, có tính
Đảng và tính nhân dân.
- Nhiệm vụ: Tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, phát triển mạnh
khoa học, văn hoá nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, chống tư tưởng
tư sản và tàn dư tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tư sản, xoá bỏ ảnh hưởng
của tư tưởng, văn hoá thực dân mới ở miền Nam.
- Tóm lại, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng ta vừa
sử dụng văn hóa như một vũ khí đấu tranh, vừa coi nó là một mục tiêu trong công
cuộc xây dựng đất nước theo đường lối chung.
• Kết quả xây dựng nền văn hóa trước đổi mới
Thành tựu
- Đã xoá bỏ dần những mặt lạc hậu, lỗi thời trong di sản văn hoá phong kiến,
trong nền văn hoá nô dịch của thực dân Pháp, bước đầu xây dựng nền văn hoá dân
chủ mới có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.
- Từng bước xoá mù chữ, phát triển hệ thống giáo dục, nâng cao dần trình độ
văn hoá.
- Văn hoá cứu quốc đã động viên nhân dân tham gia tích cực vào công cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cổ vũ quần chúng trong chiến đấu và
sản xuất. Trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ có thắng lợi của chính
sách văn hoá, của những giá trị tinh thần cao quý của con người Việt Nam.
Hạn chế và nguyên nhân
- Công tác tư tưởng và văn hoá thiếu tính sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc
xây dựng thể chế văn hoá còn chậm. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống có chiều
hướng phát triển. Đời sống văn học nghệ thuật còn những bất cập. Một số công


trình văn hoá vật thể và phi vật thể truyền thống không được quan tâm bảo tồn, lưu
giữ, thậm chí bị phá huỷ, mai một.
- Đường lối xây dựng, phát triển văn hoá giai đoạn 1954-1986 bị chi phối

bởi tư duy chính trị “nắm vững chuyên chính vô sản”.
- Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá giai đoạn này cũng bị
quy định bởi cuộc cách mạng QHSX mà tư tưởng chỉ đạo là triệt để xoá bỏ tư hữu,
bóc lột càng nhanh càng tốt.
- Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao
cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, giáo
dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.
2. Phát triển đường lối văn hóa thời kỳ đổi mới
• Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về xây dựng nền văn hoá
thời kỳ đổi mới
Giai đoạn 1986-1998
- Về văn hóa:
+ Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo ra
một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân
chủ, tiến bộ (Đại hội VII).
+ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội (Đại hội VIII).
+ Tính chất của nền văn hóa: Là nền văn hóa XHCN đậm đà bản sắc dân
tộc, được xây dựng trên cơ sở thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Về khoa học – kỹ thuật:
+ Đây là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội;
có vị trí to lớn trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
+ Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó phải coi sự nghiệp giáo


dục - đào tạo và cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát
huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
Giai đoạn 1998- nay

- Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII, 7-1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản
chỉ đạo quá trình phát triển văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xác định chức năng, vai trò, đặc trưng, bản chất của nền văn hóa mà chúng ta
xây dựng.
Nghị quyết Trung ương 5 là chiến lược văn hóa của Đảng trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Đại hội IX, các Hội nghị Trung ương khóa IX và Đại hội X:
+ Văn hóa phải nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trở
thành nhân tố thúc đẩy con người hoàn thiện nhân cách; văn hóa văn hóa phải tham
gia vào việc điều tiết nền kinh tế thị trường, hướng nền nước ta trở thành nền kinh
tế thị trường văn minh, tiến bộ, đảm bảo đúng định hướng XHCN (Đại hội IX 2001).
+ Phát triển văn hoá đồng bộ với phát triển kinh tế (Hội nghị Trung ương lần
thứ 9, 1-2004).
+ Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây
dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hoá nền tảng tinh thần của xã hội. Đây chính là bước phát triển quan trọng trong nhận
thức của Đảng về vị trí của văn hoá và công tác văn hoá trong quan hệ với các mặt
công tác khác (Hội nghị Trung ương 9, 7-2004).
+ Phát triển sâu rộng, nâng cấp chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã
hội, làm cho văn hóa thấm sâu hơn vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Tóm lại, trong thời kỳ đổi mới, về xây dựng, phát triển Việt Nam, Đảng đã
có những nhận thức mới và rõ hơn trên những nội dung:


+ Nhận thức mới về 2 đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam: Tiên tiến và
đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Nhận thức rõ hơn tiêu chí “xây” và “chống” trong văn hoá.
+ Nhận thức rõ hơn về chức năng, vai trò của văn hoá: Nền tảng tinh thần
của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển (ĐH VII – ĐH X).
+ Xác định vai trò đặc biệt của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ:

Là động lực và có vị trí then chốt trong phát triển kinh tế - xã hội (ĐH VI – ĐH X).
• Nội dung đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa thời kỳ đổi
mới
Chức năng, vai trò của văn hóa
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
+ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn hoá được cấu thành bởi một hệ các giá trị tạo nên bản sắc của mỗi dân
tộc. Các giá trị này thấm nhuần trong mỗi con người và cả cộng đồng, được tiếp
nối qua các thế hệ, được vật chất hoá bền vững trong cấu trúc kinh tế - xã hội. Nó
tác động hàng ngày đến cuộc sống vật chất - tinh thần của mọi thành viên bằng môi
trường văn hoá - xã hội
+ Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển
Văn hoá là kết quả của sự sáng tạo của con người thể hiện tiềm năng sáng
tạo của dân tộc. Vì vậy nó là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển của dân tộc đó.
Trong nền kinh tế tri thức thì tri thức, kỹ năng trở thành nguồn lực quan
trọng nhất cho sự phát triển
Vai trò động lực và điều tiết của văn hoá trong kinh tế thị trường
Vai trò động lực của văn hoá trong hội nhập và bảo vệ môi trường
Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân
tố con người và xây dựng xã hội mới
+ Văn hoá là một mục tiêu của phát triển


Mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh” là
mục tiêu văn hoá
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội xác định: “Mục tiêu và động lực chính
của sự phát triển là vì con người, do con người”. Đó là chiến lược phát triển bền
vững
Trong thực tế nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lấn át

mục tiêu văn hoá. Văn hoá vẫn thường bị xem là lĩnh vực đứng ngoài kinh tế. Hệ
quả là kinh tế có thể tăng trưởng nhưng văn hoá bị suy giảm
- Văn hóa là một mặt trận.
Văn hoá là một mặt trận của cách mạng Việt Nam, quan trọng và gian khổ
không kém mặt trận kinh tế, mặt trận chính trị.
Đặc trưng nền văn hóa Việt Nam
- Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Tiên tiến:
Là yêu nước và tiến bộ.
Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện,
trong phương tiện chuyển tải nội dung.
+ Bản sắc dân tộc:
Bao gồm cả những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam; thể hiện sức sống bên trong của dân tộc
Còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo
Bản sắc dân tộc cũng phát triển
- Nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
+ Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có những giá trị và bản sắc văn hoá
riêng, bổ sung cho nhau
+ Cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam có nền văn hoá chung thống nhất
+ Thống nhất bao hàm cả tính đa dạng, đa dạng trong sự thống nhất
Chủ thể xây dựng, phát triển văn hóa


- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục và đào tạo, cùng
với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng thì xây dựng văn hoá là công việc
do mọi người cùng thực hiện.

Văn hoá thẩm thấu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội do đó thực hành
văn hoá là hoạt động hàng ngày của mỗi người dân.
Quần chúng là người hưởng thụ, tiêu dùng, phổ biến, sáng tạo và lưu giữ
các tài sản văn hoá.
Các thành phần kinh tế cùng tham gia xây dựng, phát triển văn hoá.
Các lực lượng văn hoá chuyên nghiệp giữ vai trò nòng cốt.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài đòi hỏi
phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Hoạt động “xây” và “chống” trong văn hoá là quá trình cách mạng lâu dài,
khó khăn, phức tạp, cần có ý chí cách mạng, có tính chiến đấu, cần sự kiên trì, thận
trọng.
Định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam
- Phát triển văn hoá gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội:
+ Xác định mục tiêu phát triển văn hoá phải căn cứ và hướng tới mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế và
ngược lại.
+ Phải xây dựng chính sách kinh tế trong văn hoá để gắn văn hoá với hoạt
động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế của văn hoá.
+ Phải xây dựng chính sách văn hoá trong kinh tế để chủ động đưa các yếu
tố văn hoá thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội:


Đó là con đường để các giá trị văn hoá trở thành nền tảng tinh thần bền vững
của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.
- Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại:
+ Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong
phong tục, tập quán và lề thói cũ.
+ Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hoá với các quốc gia, xây

dựng những giá trị mới của văn hoá đương đại.
- Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao:
Đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý nội dung, phương pháp dạy và học,
thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt
Nam.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ.
Phấn đấu đến năm 2010 năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình
độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng.
- Xây dựng và hoàn thiện các giá trị mới và nhân cách con người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Kết quả xây dựng nền văn hóa thời kỳ đổi mới
• Thành tựu
- Tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa là những lĩnh vực then
chốt đã có những chuyển biến quan trọng. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc được đề cao và phát huy.
- Nhận thức về giá trị di sản văn hóa và truyền thống văn hóa ngày càng
được nâng cao, tạo được sự đồng thuận và nguồn lực xã hội trong việc bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.


- Lĩnh vực văn học, nghệ thuật có bước phát triển mới, có những biến đổi
sâu sắc, đạt được nhiều thành tựu, đóng góp tích cực vào quá trình dân chủ hóa xã
hội, làm phong phú, đa dạng đời sống văn hóa.
- Giao lưu văn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng cùng với quá
trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của Nhà nước ta
- Việc xây dựng thể chế và thiết chế văn hóa đã chú ý đến những yêu cầu
của thời kỳ mới, tuy chưa hoàn chỉnh nhưng về căn bản bảo đảm được sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phát huy tiềm năng sáng tạo của trí thức, văn
nghệ sĩ và của nhân dân tham gia xây dựng, phát triển sự nghiệp văn hóa.

• Hạn chế và nguyên nhân
Những yếu kém
- Những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hóa còn chưa
tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ mạnh để tác động có hiệu quả đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Chất
lượng xây dựng đời sống văn hóa còn nhiều mặt hạn chế.
- Di sản văn hóa đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.
- Hoạt động văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập.
- Giao lưu văn hóa còn thiếu chủ động; chưa tạo được nhiều nguồn lực để
mở rộng hợp tác, giao lưu.
- Quan tâm chưa đúng mức, chậm đổi mới công tác xây dựng thể chế văn hóa.
Những nguyên nhân chủ yếu
- Về khách quan:
+ Những thành tựu to lớn và sự biến đổi nhanh chóng, phức tạp trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội vừa là nguồn cảm hứng sáng tạo, vừa là
những vấn đề rất mới mẻ, luôn biến động và sự tác động nhiều chiều, dẫn tới sự bỡ
ngỡ, lúng túng trong lực lượng hoạt động văn hóa, văn nghệ.


+ Các thế lực thù địch ráo riết chống phá ta trên mặt trận tư tưởng, văn hóa,
lợi dụng ưu thế về công nghệ thông tin, toàn cầu hóa về kinh tế để áp đặt các giá trị
văn hóa, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” về văn hóa; đồng thời, mặt trái
của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức tư tưởng, đạo
đức, lối sống của một bộ phận dân chúng, nhất là lớp trẻ, cũng như đối với đời
sống văn hóa, văn nghệ.
+ Sự bùng nổ về thông tin, truyền thông đi kèm với làn sóng giao thoa, du
nhập văn hóa với nhiều yếu tố văn hóa mới, có mặt tích cực nhưng cũng không ít
những tiêu cực, trong khi trình độ cán bộ và phương tiện kỹ thuật để quản lý những
vấn đề mới mẻ này còn hạn chế, dẫn đến sự lúng túng, bị động trong tổ chức thực

hiện.
- Về chủ quan:
+ Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, nhận thức về vị trí, vai trò
của văn hóa của nhiều cấp, nhiều ngành, trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo chưa
đúng tầm; chưa nhận thấy rõ mối quan hệ gắn bó giữa kinh tế, văn hóa và chính trị;
chưa quan tâm gắn phát triển kinh tế, phát triển các ngành, các lĩnh vực đi đôi với
xây dựng và phát triển văn hóa; chưa coi phát triển văn hóa là trách nhiệm của toàn
xã hội.
+ Trước những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp của đời sống văn
hóa, văn nghệ trong nền kinh tế thị trường, sự chỉ đạo của các cấp từ Trung ương
đến địa phương còn bộc lộ sự bất cập, hạn chế, phương thức lãnh đạo còn chậm
được đổi mới; chưa lường hết tính phức tạp và những tác động của mặt trái kinh tế
thị trường đối với đời sống văn hóa, văn nghệ.
+ Đầu tư cho lĩnh vực xã hội nói chung và văn hóa nói riêng, chưa tương
xứng với yêu cầu mới. Chưa có nhiều cơ chế và chính sách cụ thể phát huy nội lực
của nhân dân.



×