Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Đường lối cách mạng của ĐCSVN Đường lối công nghiệp hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.96 KB, 18 trang )

ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
1. Tính tất yếu và mục tiêu của CNH
• Tính tất yếu của CNH đối với các quốc gia đang phát triển
- Tất cả các nước có nền kinh tế lạc hậu, nhất là những nước tiến lên
CNXH không qua chế độ TBCN như nước ta tất yếu phải tiến hành CNH, HĐH
vì:
+ Chỉ có CNH, HĐH mới có thể xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
CNXH. Từ CNTB hay từ trước CNTB quá độ lên CNXH, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho CNXH là một tất yếu khách quan, một quy luật mang tính
phổ biến và được thực hiện thông qua CNH, HĐH.
+ CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với
các nước chung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc
lập chủ quyền và định hướng XHCN.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu
tố vật chất của LLSX xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ)
tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật
chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
+ Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của
một xã hội là sự biến đổi và phát triển của LLSX; sự phát triển của khoa học
kỹ thuật, tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là QHSX thống trị.
+ CNH, HĐH tạo ra LLSX mới về chất, tạo tiền đề cho sự hình thành
nhiều mối quan hệ mới về kinh tế, chính trị xã hội trong toàn xã hội. Trên cơ
sở của LLSX mới, QHSX mới - QHSX XHCN sẽ được hình thành.
• Mục tiêu của CNH
- Mục tiêu cơ bản: Cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX, mức sống vật chất và tinh thần cao,


quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh.


- Những mục tiêu cụ thể: Đại hội X của Đảng (2006) xác định đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2. Đường lối CNH XHCN được hình thành, từng bước bổ sung (1960
-1986)
• Đường lối CNH được từng bước hình thành trong những
năm 1960-1975
- Vấn đề CNH đất nước từ lâu đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ
trung tâm của suốt thời kỳ quá độ lên CNXH và trên thực tế, chúng ta đã tiến
hành từ đầu những năm 1960 đến nay.


- Đại hội lần thứ III (1960) của Đảng:
+ Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta là CNH XHCN,
mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
+ Thực hiện CNH XHCN ở miền Bắc nước ta là “xây dựng một nền
kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và
lấy công nghiệp nặng làm nền tảng; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ”. Với phương châm ấy thì cả công nghiệp nặng, nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ đều phải chú trọng phát triển đồng thời. Nhưng trên thực tế
chúng ta tập trung quá mức vào việc phát triển công nghiệp nặng, mà coi
nhẹ hoặc không chú ý đầy đủ phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
+ Để thúc đẩy quá trình CNH, cần “tiến hành đồng thời ba cuộc cách
mạng trong đó cuộc CMKHKT là then chốt nhằm đưa miền Bắc tiến lên
công nghiệp hiện đại”. Tháng 2 - 1962, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa
III) có Nghị quyết chuyên bàn về CNH, bổ sung cho đường lối CNH của Đại
hội III. Về cơ bản, quan điểm về CNH vẫn giống như ở Đại hội III, nhưng
được cụ thể hóa rõ nét hơn về những vấn đề liên quan.

- Hội nghị Trung ương 19 (3 - 1971):
+ Tiếp tục bổ sung cho đường lối CNH: CNH được tiến hành bằng
cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
+ Quan điểm CNH của Hội nghị Trung ương 19 về căn bản đã kế thừa
quan điểm CNH XHCN đã được khẳng định từ Đại hội III (1960), nhưng có
một số thay đổi. Từ quan điểm “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý đồng thời phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” sang quan
điểm “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Quan điểm này cũng là cơ sở để xác
định nội dung CNH tại Đại hội lần thứ IV (12- 1976).


• Những điều chỉnh quan trọng trong đường lối CNH những
năm 1976-1986
- Đại hội IV (1976) của Đảng:
+ Nhất quán với quan điểm của HNTƯ 19 (3 - 1971): “Ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ”. Như vậy, Đại hội lần thứ IV của Đảng đã có sự điều
chỉnh khi đề cập đến nhiệm vụ CNH. Đại hội tiếp tục xác định đây là nhiệm
vụ trung tâm của suốt thời kỳ quá độ, nhưng về phương châm phát triển đã
có sự uốn nắn lại. CNH được dự kiến tiến hành trong khoảng 20 năm và tới
lúc đó, Việt Nam sẽ có nền sản xuất lớn XHCN với công – nông nghiệp hiện
đại.
+ Nhận thức của Đảng về CNH ở thời điểm này mới chỉ dừng lại ở
mức quan tâm hơn đến nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, mà chưa nhận thức
đầy đủ rằng, trong điều kiện của một nước nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện
CNH, cần phải chú trọng và đặt trọng tâm vào nông nghiệp - một vấn đề có
tính quy luật của hầu hết các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển tiến
hành CNH.

- Đại hội lần thứ V (1982) của Đảng:
+ Đưa ra khái niệm “chặng đường đầu tiên” của thời kỳ quá độ, phân
kỳ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam với những nhiệm vụ và biện pháp
phù hợp. “Chặng đường đầu tiên” có vai trò tạo tiền đề cho CNH XHCN
theo tư duy mới.
+ Phải lấy nông nghiệp làm cơ sở và xây dựng cơ cấu công - nông
nghiệp hợp lý. Đại hội V xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chú trọng
công nghiệp nhẹ, còn công nghiệp nặng không được “ưu tiên” như tinh thần
của Đại hội III, IV, mà chỉ tập trung phát triển những ngành có tác dụng thúc
đẩy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và đáp ứng nhu cầu
phát triển dài hạn của đất nước.


+ Đây là những điều chỉnh nội dung, cách thức CNH là nhằm mục
tiêu tạo ra LLSX mới trong chặng đường đầu tiên, chuẩn bị những tiền đề
căn bản và lực lượng cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH ở thời kỳ tiếp theo.
Sự điều chỉnh ấy là đúng đắn, nhưng quan điểm này vẫn không quán triệt
trong nhận thức của toàn Đảng và trong chỉ đạo thực tiễn. Trên thực tế, vẫn
tiếp tục đầu tư cơ bản để xây dựng hàng trăm công trình quy mô lớn, nông
nghiệp chưa trở thành cơ sở cho sự phát triển công nghiệp.
- Tuy CNH được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá
độ, nhưng do nhiều vấn đề nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH
chưa được làm sáng tỏ, nên khi xác định đường lối CNH, chúng ta chưa đủ
cơ sở để làm rõ mục tiêu, bước đi, những chủ trương, biện pháp, những điều
kiện cần thiết của công cuộc CNH đất nước.
• Tiểu kết
- Nhận thức về CNH của Đảng từ Đại hội III đến Đại hội V có thể
phác họa thành giản đồ sau:
+ “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” -- > “Ưu tiên phát triển công

nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ” --> “Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu; đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng; tiếp tục xây dựng một
số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp thành cơ cấu công - nông
nghiệp hợp lý”.
+ Phân tích giản đồ trên, điểm khác biệt và cũng là bước chuyển căn
bản trong nhận thức về CNH của Đại hội V thể hiện rất rõ nét, trở về với
đúng với hướng CNH cần thiết phải đi của một nước nông nghiệp có xuất
phát điểm thấp.
• Hạn chế của CNH trước năm 1986


- Chưa xác định rõ đặc điểm cơ bản của nước ta quá độ lên CNXH, do
đó về nhận thức chưa hiểu sâu, nắm chắc xuất phát điểm của quá trình CNH
ở nước ta là nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển,
những tiền đề cần thiết cho CNH chưa được chuẩn bị đầy đủ. Cũng chưa xác
định được vị trí hợp lý của công nghiệp trong toàn bộ cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất, chưa kết hợp ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp, nên
đã đề ra quan điểm phát triển công nghiệp nặng đồng thời với phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
- Chúng ta tiến hành CNH trên cơ sở của mô hình kinh tế hiện vật, với
cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, là cơ chế phủ nhận sản xuất
hàng hoá, kinh tế thị trường, quy luật giá trị... Do vậy, đã triệt tiêu các động
lực cần và đủ để tiến hành CNH. Chúng ta đồng nhất quá trình CNH với việc
xây dựng những xí nghiệp công nghiệp có quy mô lớn, hiện đại, phát triển
mạnh công nghiệp nặng với những công trình quy mô lớn trong khi xã hội đòi
hỏi cấp bách phải giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu.
- Mục tiêu CNH XHCN là biến nền sản xuất thủ công thành nền đại
công nghiệp cơ khí, thay lao động năng xuất thấp bằng lao động sử dụng

máy móc. Tuy nhiên, ngay cả khi nhấn mạnh: “Thực chất của CNH XHCN
là tiến hành một cuộc CMKHKT”, thì thời kỳ đó cũng nhìn thấy mối quan
hệ giữa CMKHKT ở Việt Nam với CMKHKT đang diễn ra trên thế giới. Vì
thế, chúng ta không tranh thủ được những thành tựu khoa học - kỹ thuật của
thế giới. Xét cho cùng, chúng ta chỉ nhìn CNH đơn thuần là một tiến trình
kinh tế - kỹ thuật.
- Quá chú trọng và đề cao sự cân đối của kinh tế trong nước - cơ cấu
kinh tế giữa ba ngành kinh tế cơ bản: Công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ,
nông nghiệp, thể hiện qua mối quan hệ giữa hai khu vực kinh tế: Kinh tế
Trung ương và kinh tế địa phương. Tương tự, phân công lại lao động trong
quá trình CNH chỉ giới hạn trong phạm vi nền kinh tế nội địa. Điều này thể


hiện tư duy về nền kinh tế khép kín – thực chất vẫn là tư duy kinh tế hiện
vật, thực hiện trên phạm vi cả nước.
- Thiếu sự hợp tác với những lực lượng kinh tế hùng mạnh trên thế
giới. Hợp tác quốc tế phục vụ CNH XHCN diễn ra trong nội bộ các nước
XHCN, mà Việt Nam là một thành viên. Trong khi các nước tư bản hiện đại
lại nắm giữ phần lớn đỉnh cao của khoa học – công nghệ. Dù cho hoàn cảnh
khách quan (chiến tranh lạnh) hay nhận thức chủ quan (đánh giá sai sức sống
của CNTB), thì chung quy lại, việc không tranh thủ được những thành tựu
khoa học – công nghệ tiên tiến của loài người khiến CNH trì trệ, khó tránh
khỏi lạc hậu.
- Chưa đặt vấn đề CNH gắn liền với quá trình HĐH, thị trường hoá
(rất quan trọng), nhằm tạo điều kiện đồng bộ cho sự phát triển công nghiệp,
khoa học, công nghệ, giáo dục... Những hạn chế này cùng với những tiêu
cực do mô hình kinh tế hiện vật, cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã
mang lại những hiệu quả xấu đối với kinh tế đất nước, dẫn đến một cuộc
khủng hoảng trầm trọng kéo dài về kinh tế, xã hội trong hai thập kỷ 70 và 80
của thế kỷ XX.

II. ĐỔI MỚI, ĐIỀU CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CNH (1986 - NAY)

1. Đổi mới đường lối CNH và bổ sung, điều chỉnh đường lối
• Bước 1: Đổi mới đường lối CNH trong những năm 19861994
- Đại hội VI chưa bàn sâu về chính sách CNH, nhưng đã đưa ra một
số quan điểm mang tính chất đổi mới:
+ (1). Mục tiêu CNH: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh
tế (phát triển cân đối và nhịp độ tăng trưởng ổn định).
+ (2). Bước đi của CNH:
Sắp xếp nền kinh tế theo một cơ cấu hợp lý, trước tiên là điều chỉnh
cơ cấu kinh tế.


Cơ cấu kinh tế trong chặng đường đầu tiên là nông – công nghiệp dịch vụ.
(Đây là thay đổi căn bản về bước đi của CNH XHCN. Chuyển trọng
tâm từ phát triển công nghiệp nặng sang thực hiện ba chương trình kinh tế
lớn: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đây thực
chất là điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng giải kết cấu kinh tế lấy công
nghiệp nặng làm trọng tâm – cơ cấu mới khác với cơ cấu công – nông
nghiệp trước đây).
(Cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu phù hợp với: Quy luật về phát triển
các ngành sản xuất vật chất; điều kiện thực tiễn và khả năng của đất nước;
phân công lao động và hợp tác quốc tế).
+ (3). Tốc độ của CNH: Trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ, chưa thể đẩy mạnh CNH, mà chỉ tạo tiền đề cần thiết để đẩy mạnh CNH
ở chặng đường tiếp theo (đây là thay đổi căn bản về tốc độ của CNH
XHCN.)
+ (4). Phương thức tiến hành CNH:
Phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, coi trọng tính khả thi và tính hiệu
quả của các chương trình CNH (tránh tình trạng trước đây thường không

tính đến nhu cầu thực tế của nền kinh tế và hiệu quả kinh doanh).
Quá trình CNH phải được tiến hành từng bước, phù hợp với trình độ
LLSX trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thực hiện “bước quá độ nhỏ trong
bước quá độ lớn”.
CNH được tiến hành trong nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình
thức sở hữu, gắn với nền kinh tế mở (đây là bước phát triển tư duy quan
trọng nhất).
- Đại hội VII (1991):
+ “Phát triển LLSX, CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với
việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm”.


+ Tiến hành CNH theo định hướng mở cửa, hội nhập với nền kinh tế
thế giới và khu vực (bước nhận thức quan trọng).
+ Điểm then chốt ở đây là bước đầu nhấn mạnh CNH theo hướng hiện
đại. Đây là điểm rất quan trọng trong tư duy về CNH của Đảng, là bước
ngoặt trong tư duy phát triển, làm cơ sở cho việc thay đổi mô hình phát triển.
• Bước 2: Bổ sung đường lối CNH trong những năm 19942001
- Hội nghị Trung ương 7 (khóa VII, 7 – 1994) ra Nghị quyết về phát
triển công nghiệp, công nghệ:
+ Bổ sung thêm: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội,
từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao
động kỹ thuật cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại dựa trên cơ sở phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học, công
nghệ, tạo ra năng suất lao động cao.
+ Hội nghị cũng đưa ra khái niệm: CNH, HĐH, coi đây là khái niệm
kép, trong đó CNH và HĐH có mối quan hệ mật thiết với nhau, định vị
CNH trên cơ sở HĐH, hay CNH hiện đại.
+ Xác định: CNH là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia của tất cả

các thành phần kinh tế, với nội dung trọng yếu là CNH nông nghiệp, tiến
hành trên cơ sở nền kinh tế thị trường, của nền kinh tế mở và trên nền tảng
khoa học – công nghệ hiện đại, kết hợp công nghệ truyền thống với công
nghệ hiện đại; đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định.
- Đại hội VIII (1996):
+ Từ năm 1986 đến năm 1996, đất nước ta đã trải qua 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng với 2 kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm. Trong
10 năm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã phát huy cao
độ nội lực của dân tộc, kiên trì mục tiêu CMXHCN và tuy còn một số mặt


yếu kém, chưa vững chắc, song nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Đất nước đã có điều kiện để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Đại hội VIII của Đảng được coi là đại hội của CNH, HĐH đất nước
+ Về căn bản, nhất trí với quan điểm về CNH của HNTƯ 7, xác định
mục tiêu, quan điểm chỉ đạo quá trình CNH, HĐH ở nước ta, coi CNH,
HĐH là một bộ phận của đường lối phát triển kinh tế, là nội dung vật chất
của quá trình phát triển kinh tế, được thực hiện theo mô hình phát triển kinh
tế của Việt Nam – mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
+ CNH là quá trình HĐH, có thể và cần phải bằng con đường rút
ngắn, chuyển nền kinh tế chậm phát triển sang nền kinh tế công nghiệp hiện
đại, tạo cơ sở cho tăng trưởng cao, lâu bền của nền kinh tế (điểm nhấn quan
trọng).
• Bước 3: Điều chỉnh đường lối CNH từ năm 2001- nay
- Đại hội IX (2001) bổ sung thêm về con đường CNH rút ngắn, về xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và yêu cầu phát triển bền vững:
+ Tư duy mới của Đại hội lần thứ IX là cách đặt vấn đề về con đường
CNH, HĐH rút ngắn. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta có thể phát huy
những lợi thế của đất nước, gắn CNH với HĐH trong từng bước, tiếp cận
với nền kinh tế tri thức, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện

đại về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, phát huy
nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam.
+ Phương hướng thực hiện CNH, HĐH ở nước ta: Phát triển nhanh và
có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
+ CNH, HĐH phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập và tự chủ,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và việc nâng cao
năng suất, chất lượng, sản phẩm nông nghiệp.


- Đại hội X (2006) có một bước tiến mới:
+ Xác định CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức,
“coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH”
(đây mới chỉ là “mốt” thời thượng. Hình thức là một bước tiến. Nhưng nếu
không hiểu sẽ không tạo ra những chuyển biến thực tiễn).
2. Tổng quát về nội dung cơ bản của đường lối CNH, HĐH thời kỳ đổi
mới
• Mục tiêu CNH
- Cốt lõi của CNH là phát triển LLSX để đạt tới trình độ hiện đại.
- Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp
và toàn diện, diễn ra trong các tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết
hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa
biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình.
Mục tiêu đến năm 2020 của quá trình CNH, HĐH là nước ta về cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, còn mục tiêu sâu xa là trở
thành một nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
• Quan điểm CNH

- (1). CNH gắn với HĐH và CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức
+ Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ
đang diễn ra mạnh mẽ, phải thực hiện đồng thời và đồng bộ CNH và HĐH
như một quá trình thống nhất. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước
trong khu vực, hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới
+ Xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra
nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước, cho nên quá trình CNH,
HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở


đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát
triển. Bên cạnh đó, bối cảnh mới trong nước cũng như trên thế giới cho phép
nước ta có khả năng “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH.
+ CNH, HĐH ở nước ta gắn với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế tri
thức tạo điều kiện cho việc thực hiện mô hình CNH, HĐH “rút ngắn”.
Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình CNH, HĐH
tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức.
+ Nước ta thực hiện CNH, HĐH khi trên thế giới kinh tế tri thức đã
hình thành và đang phát triển. Đó là lợi thế của các nước đi sau, song đi
cùng với nó là thách thức, bởi tạo lập điều kiện cho kinh tế tri thức hình
thành đòi hỏi những nỗ lực to lớn (kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự
sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống).
- (2). CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
+ CNH, HĐH không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp
của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ
đạo. CNH, HĐH gắn với kinh tế thị trường giúp khai thác có hiệu quả mọi

nguồn lực trong nền kinh tế, sử dụng có hiệu quả.
+ Thực hiện CNH thay thế nhập khẩu, hướng tới xuất khẩu, lấy xuất
khẩu làm hướng chính, nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước đạt hiệu quả. Coi
thị trường bên ngoài là một động lực đặc biệt quan trọng cho CNH.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm thế giới...
- (3). Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững.
+ Để tăng trưởng kinh tế cần có 5 yếu tố chủ yếu là: Vốn, khoa học
công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước
thì con người được coi là yếu tố cơ bản quyết định.


+ CNH, HĐN không chỉ đơn thuần là quá trình kinh tế - kỹ thuật, kinh
tế - xã hội, mà còn là quá trình phát triển chất lượng nguồn nhân lực theo
hướng chuyên nghiệp hóa, chuẩn hóa, trí thức hóa. Lấy việc phát huy nguồn
lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
+ Khắc phục những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực nước ta để
đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế thành công và
củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
+ Đây là cách thức đúng đắn để đạt mục tiêu phát triển con người.
+ Phát triển nguồn nhân lực chính là tạo lập cơ sở quan trọng để tiếp
cận và phát triển kinh tế tri thức.
+ Bởi vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải được xác định là
một nội dung trung tâm của phát triển bền vững và của quá trình HĐH.
+ Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện theo hai hướng: Phát
triển con người và hiện đại hóa khâu giáo dục, đào tạo. Ở đây, phát triển con
người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung tâm.
- (4). Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của CNH, HĐH.
+ Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao

động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển
kinh tế nói chung.
+ Phát triển khoa học, công nghệ trong quá trình tiến hành CNH,
HĐH là yêu cầu tất yếu và bức xúc.
+ Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt
của cách mạng khoa học và công nghệ. Chú ý đi ngay từ đầu vào công nghệ
hiện đại đối với các lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền
kinh tế. Đồng thời, chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ sử dụng
nhiều lao động để giải quyết việc làm.


- (5). Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên,
bảo tồn đa dạng sinh học.
+ Sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững có quan hệ chặt chẽ với
việc bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Môi trường tự
nhiên và sự đa dạng sinh học là môi trường sống và hoạt động kinh tế của
con người, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học chính là bảo vệ điều
kiện sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.
+ CNH, HĐH đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ. Đẩy mạnh CNH, HĐH phải hướng đến nhu cầu phát triển bền vững cho
tương lai.
- (6). Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
• Định hướng CNH
Từ những nét trên đây, có thể thấy nội dung cốt lõi về kinh tế của
CNH, HĐH ở Việt Nam cần hướng tới:
- Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền
vững;
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của
các ngành công nghiệp và dịch vụ;

- Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nâng cao chất
lượng, năng xuất các sản phẩm nông nghiệp.
- Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để HĐH nông nghiệp và các
ngành kinh tế hiện có;
- Phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri thức,
khoa học và công nghệ;
- Không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.


• Một cách tổng quát, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ
quá độ và tiến hành CNH phải gắn liền với HĐH, với khoa học - công nghệ,
với kinh tế tri thức, thực hiện trong cơ chế thị trường, là sự nghiệp của toàn
dân với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế mở,
luôn được điều chỉnh phù hợp với xu thế chung. CNH là nội dung vật chất của quá
trình thay đổi trong phương thức sản xuất, trong kết cấu kinh tế, tuân theo quy luật
kinh tế thị trường. HĐH và rút ngắn là thực chất của CNH trong điều kiện phát
triển hiện đại và toàn cầu hóa. Đây là quá trình chuyển từ CNH cổ điển sang CNH
hiện đại.
• Tiểu kết
(1)- Như vậy, đường lối CNH của Đảng ta trước đây và hiện nay đều
nhất quán xác định vị trí, mục tiêu và định hướng phát triển:
+ Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí trung tâm của CNH suốt thời kỳ quá
độ. Nói trung tâm có nghĩa là mọi nhiệm vụ đều phải tập trung phục vụ cho
nhiệm vụ CNH và ngược lại, mỗi bước tiến của CNH lại thúc đẩy và tạo
điều kiện cho việc thực hiện các nhiệm vụ khác.
+ Mục tiêu của CNH vẫn là xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp, có LLSX phát triển với năng suất lao động cao, có QHSX phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, kết hợp chặt chẽ giữa tăng
trưởng kinh tế, phát triển văn hoá với công bằng xã hội, củng cố quốc phòng và

an ninh quốc gia.
+ Định hướng phát triển của sự nghiệp CNH trước sau không thay đổi,
vẫn kiên trì định hướng XHCN nhằm xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
(2) - Tuy vị trí, mục tiêu và định hướng phát triển CNH về cơ bản giống
nhau; nhưng phương châm chiến lược, phương thức tiến hành và hình thức,
bước đi được xác định lại không giống nhau.


+ Trước đây, Đảng ta hiểu quá trình CNH là chuyển lao động thủ công
lên lao động cơ giới hoá, chuyển tỷ trọng từ nông nghiệp sang các ngành công
nghiệp. Do vậy, có lúc ta hiểu điện khí hoá đồng nghĩa với CNH.
+ CNH gắn liền với HĐH nhằm thích ứng nhanh chóng với quy trình
phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ thế giới vài thập kỷ gần đây
và những thập kỷ tới.
Ngày nay, không thể tiến hành CNH, HĐH theo sơ đồ truyền thống, vì
không có hiệu quả và khi làm xong sẽ trở thành lạc hậu so với thế giới. Nếu
biết cách làm, biết thích nghi với môi trường công nghệ mới thì con đường
CNH sẽ rút ngắn và đỡ gian khổ hơn so với các nước đã phải trải qua trước
đây.
+ CNH trước đây được tiến hành theo cơ chế cũ, tập trung bao cấp.
Ngày nay việc thực hiện CNH, HĐH theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo chủ yếu.
+ CNH trước đây thường được hiểu là việc của Nhà nước thông qua
khu vực quốc doanh và tập thể nay là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các
thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo.
+ CNH XHCN trước đây tiến hành trong điều kiện có hệ thống XHCN
thế giới giúp đỡ. Nay trong bối cảnh quốc tế và khu vực đã khác trước, Đảng
ta đề ra quan điểm xây dựng hệ thống kinh tế mở trên cơ sở giao lưu thông
suốt trên thị trường trong nước và hội nhập với nền kinh tế thế giới, trên cơ

sở giữ vững độc lập, chủ quyền, thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên doanh,
liên kết nhằm thu hút vốn, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệp quản lý của
các nước khác theo nguyên tắc: Nội lực là chủ yếu, ngoại lực là quan trọng
để thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong thời đại hiện nay, không
có một nước nào có thể đáp ứng được mọi nhu cầu trong nước mà lại không
biết tận dụng lợi thế của mình, qua xuất khẩu, thu hút đầu tư và công nghệ
để phát triển đất nước.


(3)- CNH, HĐH ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu:
+ Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng
lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong các tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự
và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển
theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các
tác nhân tham gia quá trình. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mang tính
bao trùm rất cao, theo đó đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn là nước
ta trở thành một nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
+ Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công
nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong CNH rồi
mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời và đồng bộ CNH và HĐH
như một quá trình thống nhất. Về đại thể, riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn
nhận quá trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: (1). Đó là quá trình xây
dựng nền công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chất kỹ thuật (LLSX) của nền kinh tế; (2). Đó là quá trình cải cách hệ thống thể
chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập. CNH gắn với HĐH là cách làm
đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực,

hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới.
+ Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút
ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ
thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối cảnh mới trong
nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá
trình CNH, HĐH. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện được CNH,
HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: (1). Đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng


cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc
để đuổi kịp); (2). Lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho
phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, để
đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn (thực chất là lựa chọn
con đường, bước đi và giải pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt
này không đối lập mà có thể thống nhất với nhau, và đang tiếp tục được làm
rõ để định hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta.
- Thứ tư: Ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với
việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua, tại không ít
diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai chiều giữa
CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại
thể, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay
đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Hay nói cách khác, phát
triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho việc thực hiện mô hình CNH, HĐH
“rút ngắn” ở nước ta. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của
quá trình CNH, HĐH tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi
vào kinh tế tri thức. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta phải nắm bắt các tri
thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp và các
ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và
dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức.



×