Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Bài thu hoạch ngoại khóa giáo dục quốc phòng an ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 33 trang )

Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Bài Thu Hoạch Ngoại Khóa
Giáo Dục Quốc Phòng An Ninh
Lớp :AR16.11
Thành viên:
1.Nguyễn Phú Lộc
2. Lương Mạnh Chiến
3.Trần Văn Công
4. Vũ Đức Thịnh
5.Phạm Cao Việt Bách


Lời Nói Đầu
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước,đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhận chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Câu nói ấy của chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói lên tất cả tinh thần của cả dân tộc. Lịch sử hào hùng của đất nước
được viết nên bằng nhưng cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại trải dài suốt hai ngàn
năm lịch sử. Chiến tranh đi qua nhưng những dấu tích của nó để lại vẫn luôn nhắc
nhở cho thế hệ trẻ chúng ta về một quá khứ hào hùng nhưng cũng đầy đau thương
và mất mát. Hai buổi ngoại khóa đi tham quan Đền Gióng và Viện bảo tang Phòng
Không – Không Quân đã để lại trong chúng em rất nhiều sự xúc động và niềm tự
hào sâu sắc.

Đền Gióng






ĐỊA ĐIỂM:
Đền Phù Đổng hay còn gọi là đền Gióng thờ Thánh Gióng - Phù Đổng
Thiên Vương, nằm ở xã Phù Đổng, Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.



Đền Phù Đổng còn được gọi là đền Thượng, tương truyền được dựng
trên nền nhà cũ của Thánh Gióng, bên trong đê sông `Đuống, còn đền Hạ
thờ mẹ của Thánh Gióng nằm ngoài đê, gần nơi được cho là có dấu chân
khổng lồ mà bà đã ướm thử rồi sinh ra Thánh Gióng. Năm 1010 khi rời
đô về Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho dựng đền, đến nay đã được trùng
tu nhiều lần.

Lịch sử liên quan:
Theo truyền thuyết, đền Gióng được xây dựng từ thời 3960610Hùng Vương thứ VI
thờ Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương. Sự tích Thánh Gióng dẹp giặc Ân là
biểu hiện của truyền thống đánh giặc giữ nước của cả dân tộc. Đó là niềm tự hào


lớn lao bởi ngay từ thuở dựng nước đã có kì tích đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo
vệ non sông, xứ sở, bảo vệ nhà nước Văn Lang mới xây dựng. Với công lao to lớn
đó, Thánh Gióng đã được vua Hùng Vương thứ VI phong là Phù Đổng Thiên
Vương. Ý chí giết giặc cứu nước đã được nhà thơ 31310Cao Bá Quát ngợi ca:
Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn
Đằng vân do hận cửu thiên đê
Dịch nghĩa:
Phá giặc, lên ba hiềm vẫn muộn
Lên mây, tầng chín hận chưa cao
Võ công hiển hách của Thánh Gióng cùng dân đánh giặc đã được nhà thơ 340Ngô

Chi Lan mô tả:
Thiết mã tại thiên, danh tại sử
Anh uy lẫm lẫm mãn giang san
Dịch nghĩa:
Ngựa sắt về trời, danh tại sử
Oai thanh vang dậy khắp xa gần
Đến thờ Lê, vua 3411300Lê Đại Hành (980 - 1005) lại phong ông là Sóc Thiên
Vương, đổi Sóc Sơn thành Vệ Linh Sơn. Năm 981, sau khi đánh thắng quân Tống
trở về, vua lại phong ông là Phù Thánh Đại vương. Đến thời Lý, vua 33110Lý Thái
Tổ đặt lại tên đền Gióng là Hiển Linh Điện, phong là Xung Thiên Thần Vương.
Thời Hậu Lê, Thánh Gióng được phong là Xung Thiên Đổng Thần Vương, mẹ hiệu
là Hiệu Thiên Mẫu. Vua 33340Lê Kính Tông(1600 - 1619) niên hiệu Hoằng Định
có lập bia và tế lễ. Đến thời 31340Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng (1740 1786) nhà vua đã cúng áo chầu và tiền vàng.
ành Hà Nội




Kiến trúc của đền :




Đền Gióng là một tổng thể thống nhất, gồm nhiều công trình xây trên
diện tích rộng:



Tam quan đền khá lớn, trên có gác, mở thêm hai cửa nhỏ hai bên. Trên
bậc thềm là hai con rồng đá, tạc vào năm 1705. Trước cổng là một sân

rộng, nhìn sang một thủy đình ở giữa một hồ nước, cạnh một gốc đa cổ
thụ. Thủy đình là nơi diễn ra các trò chơi dân gian và múa rối nước.




Đôi câu đối trước cổng đền viết:
Thiết mã khóa vân cung, tuấn nhạc, liên quan thiên cổ ngưỡng
Thạch long kiều thủy các, sùng từ uy vọng ức niên khâm



Dịch nghĩa:
Ngựa sắt vượt cung mây, núi cao rạng rỡ ánh thiêng, ngàn năm



nhìn ngắm
Rồng đá chầu gác nước, đền lớn nguy nga vẻ đẹp, muôn thuở tôn



sung





Sau cổng chính là một phương đình tám mái, dưới chân còn hai con sư tử
đá. Tiếp đến là tiền đường rộng là nơi cử hành các nghi lễ. Nhà thiêu

hương bày đồ nghi trượng, tiếp đến là hậu cung. Trong hậu cung có
tượng Thánh Gióng và các tướng hộ vệ, cũng là nơi giữ các đạo sắc
phong của các triều đại phong kiến. Trong hậu cung cũng giữ một đôi
chóe sứ là cổ vật, chỉ dùng trong dịp lễ hội. Bậc thềm của hậu cung còn
giữ được những viên gạch chạm rồng, được cho là có từ đời Lý.





Trong đền còn có một bia đá dựng năm 1660. Phía sau đền có một giếng
nước trong, gọi là giếng Ngọc.




Từ cổng vào, bên phải của khu đền chính còn các nhà việc, dành cho
những người đến dự lễ hội, chia ra các ban tế của các xã xung quanh.



Bên trái của đền là chùa Kiến Sơ.

Đền Gióng nằm trên một khu đất đẹp, tương truyền được xây dựng chính trên nền
ngôi nhà cũ nơi Gióng sinh ra. Trước đây, nơi này chỉ là một thảo am nhưng vua
Lý Thái Tổ khi dời đô ra Thăng Long đã cho xây dựng thành một ngôi đền khang


trang. Trải qua nhiều lần trùng tu, ngôi đền hiện tại chủ yếu là những mảnh ghép
của những công trình thời Lý, thời Lê Trung Hưng, thời nhà Nguyễn và có cả

những phần mang màu sắc đương đại.
Trước đền có thủy đình nằm trong hồ bán nguyệt, được xây dựng từ thời Lý.Trải
qua gần 1.000 năm nhưng những nét chạm trổ tài hoa trên gỗ vẫn còn gần như
nguyên vẹn.Hằng năm thủy đình vẫn đứng đó lặng nghe những liền anh liền chị hát
giao duyên trong ngày lễ hội (9-4 âm lịch).
Cổng đền được xây dựng bằng gạch, đến nay đã được 109 năm.Phía sau cổng là
nhà tám mái (đúng ra là có hai tầng, mỗi tầng 4 mái), khá giống với nhà tám mái
trước chùa Láng vì cũng được xây dựng từ thời Lý.
Nhìn từ phía ngoài thì nhà tám mái không lớn, nhưng nếu có một ống kính góc
rộng, nằm ngửa ra giữa nhà mà chụp thì chắc chắn bạn sẽ thấy rõ sự kỳ vĩ của nó.
Dưới mỗi góc độ lại hiện ra một hình thù rất khác.
Sau nhà tám mái là nhà tiền tế, là nơi để thực hiện các nghi lễ. Tại đây, du khách có
thể dễ dàng nhận thấy sự chênh lệch “tuổi tác” khi bên trên những cột gỗ có từ thời
Lê Trung Hưng (thế kỷ 17) là những bức hoành phi ghi lại những lời nói của Bác


Hồ, những vần thơ Tố Hữu.

Ấn tượng nhất trong đền là cắp chiêng trống có đường kính lên tới 1,2m với độ lớn
tương đương chiếc trống đại được trưng bày tại lễ hội hoa vừa rồi. Vào mùa lễ hội,
tiếng trống, tiếng chiêng rền vang sẽ làm không khí thêm phần hào hùng trong
những hoạt cảnh tái diễn trận chiến anh hùng của Thánh Gióng.
Với mỗi ngôi đền thì phần quan trọng nhất bao giờ cũng là hậu cung, đền Gióng
cũng vậy.Đây là nơi đặt bức tượng Gióng cao hơn 2m, được tạc từ cách đây trên
100 năm. Bên cạnh có hai hàng tượng gồm 6 quan văn võ, 2 người hầu đứng, 2
phỗng quỳ và 4 lính hầu.


Nghiêng mình trước những công trình kiến trúc thách thức với thời gian.Cảnh vật
yên bình mà như có tiếng trống thúc quân ra trận.




Lễ Hội Gióng



Lễ hội Gióng làng Phù Đổng là lễ hội truyền thống thường niên, hình thành từ thời
Lý, được dân chúng các làng Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Viên, Đổng Xuyên đứng
ra tổ chức, trở thành lễ hội nổi tiếng nhất vùng châu thổ Bắc Bộ. Đến nay, lễ hội
Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân
loại. Có lẽ mà bởi vậy mà thu hút không chỉ riêng du khách trong nước mà nhiều
du khách nước ngoài chưa từng biết đến Việt Nam lạ luôn cảm thấy trân trọng một
nét đẹp vốn có mang đậm bản sắc dân tộc qua lễ hội Gióng của Phù Đổng. Lễ hội
Phù Đổng được tổ chức từ mồng 6 đến 12 tháng 4 ÂL hàng năm với sự tham gia
của 5 làng: ba làng ở phía Bắc sông Đuống là Phù Dục, Phù Đổng và Đổng Viên và


hai làng bên bờ Nam là Đổng Xuyên và Hội Xá. Ngày hội chính là ngày mồng
9.Lễ hội có nhiều trò chơi đặc biệt như hát Ai Lao. Đây là một tập tục cổ xưa, ban
đầu hát bằng tiếng Lào, sau đó chuyển sang hát bằng tiếng Việt. Trong ngày lễ lớn
có trò diễn trận, rước kiệu, múa cờ, diễn lại sự tích Thánh Gióng đánh giặc Ân.
Trong trò diễn lại sự tích, đức Thánh Gióng được tượng trưng bằng cờ lệnh và 28
người con gái được cử ra làm tướng của giặc Ân.
Lễ hội Phù Đổng là một trong những đỉnh cao của sinh hoạt văn hoá cổ truyền ở
Việt Nam. Lễ hội tái hiện sự kiện lịch sử suy tôn anh hùng chống ngoại xâm là
Thánh Gióng, cũng đồng thời thể hiện những hình thức trong tín ngưỡng của cư
dân nông nghiệp.
Khu di tích Phù Đổng (Đền Thượng, đền Hạ, chùa Kiến Sơ) đã được công nhận Di
tích Lịch sử - Văn hoá năm 1975.


Hội Gióng là một lễ hội truyền thống hàng năm được tổ chức ở nhiều nơi thuộc
vùng Hà Nội để tưởng niệm và ca ngợi chiến công của người anh hùng truyền


thuyết Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Có 2
hội Gióng tiêu biểu ở Hà Nội là hội Gióng Sóc Sơn ở đền Sóc xã Phù Linh, huyện
Sóc Sơn và hội Gióng Phù Đổng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm
đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.Giá trị nổi
bật toàn cầu ở hội Gióng chính là một hiện tượng văn hóa được bảo lưu, trao
truyền khá liên tục và toàn vẹn qua nhiều thế hệ. Mặc dù ở gần trung tâm thủ đô và
đời sống cộng đồng trải qua nhiều biến động do chiến tranh, do sự xâm nhập và
tiếp biến văn hóa, hội Gióng vẫn tồn tại một cách độc lập và bền vững, không bị
nhà nước hóa, thương mại hóa.Lễ hội Gióng là thiên ca cho sức mạnh và nhân cách
người Việt. Chúng ta cần gìn giữ và phát huy nó.

Ngoài ra còn hơn 10 hội gióng cũng thuộc địa bàn Hà Nội (gọi là vùng lan tỏa vì
chưa được Unesco công nhận) như: hội Gióng Bộ Đầu xã Bộ Đầu, huyện Thường
Tín; lễ hội thờ Thánh Gióng ở các làng Đặng Xá, Lệ Chi (huyện Gia Lâm); các
làng Phù Lỗ Đoài, Thanh Nhàn, Xuân Lai (huyện Sóc Sơn); Sơn Du, Cán Khê,


Đống Đồ (huyện Đông Anh); Xuân Tảo (huyện Từ Liêm); làng Hội Xá (Quận
Long Biên).
Hội Gióng là một lễ hội văn hóa cổ truyền mô phỏng một cách sinh động và khoa
học diễn biến các trận đấu của thánh Gióng và nhân dân Văn Lang với giặc Ân.
Thông qua đó có thể nâng cao nhận thức cộng đồng về các hình thức chiến tranh
bộ lạc thời cổ xưa và liên tưởng tới bản chất tất thắng của cuộc chiến tranh nhân
dân, toàn dân, toàn diện trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.


Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, hội Gióng ở Sóc Sơn (nơi thánh Gióng
bay về trời) và hội Gióng ở xã Phù Đổng (nơi sinh ra thánh Gióng) có ý nghĩa và
hoàn chỉnh hơn những nơi khác, từ ý tứ truyền thuyết đến nghệ thuật diễn xướng.
Những nghi thức được quan tâm, chứa đựng trong nó sự huyền bí và sức sống của
một huyền thoại gắn liền với lòng tự chủ dân tộc của người Việt Nam.


Bảo Tàng Phòng Không Không Quân



Địa Điểm : 171 Đường Trường Chinh, Quận Thanh Xuân,
Hà Nội



Lịch sử Bảo Tàng Phòng Không Không Quân :


Bảo tàng Phòng không - Không quân được xếp hạng 2 trong hệ thống bảo tàng
Quốc gia Việt Nam; là nơi lưu giữ những hình ảnh, tư liệu, hiện vật minh chứng
cho quá trình ra đời, xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng của bộ
đội Phòng không - Không quân Việt Nam. Đã bắn rơi 52 máy bay Pháp và
2.635 máy bay Mỹ, trong đó có 64 máy bay chiến lược B..52; 108 lượt đơn vị,
71 cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
Anh hùng lao động. Được Đảng, Nhà nước tặng thưởng 2 Huân chương Sao
vàng.4 Huân chương Hồ Chí Minh. 2 Huân chương Độc lập hạng Nhất. 1 Huân
chương Quân công hạng Nhất. Hàng trăm, hàng ngàn Huân chương Quân công,
Huân chương Chiến công các loại, được tặng nhiều phần thưởng cao quý.
*Bảo tàng PK - KQ được thành lập ngày 22 tháng 10 năm 1963.

Đơn vị tiền thân: Bảo tàng Phòng không thành lập năm 1958.
* Xây dựng mới từ 2004 và khánh thành ngày 28/8/2007
* Diện tích:
- Trưng bày ngòai trời: 18.000m2.
Có đủ chỗ đỗ xe ôtô các loại.
- Trưng bày nội thất: 3.200m2.
Có sa bàn điện tử và hệ thống điều hòa không khí.
*Vớicác bộ sưu tập hiện vật khối lớn hấp dẫn:
Phần trưng bày ngoài trời diện tích trên 15.000m2 với 73 hiện vật khối được trưng
bày khoa học giới thiệu các bộ sưu tập hiện vật vũ khí độc đáo về 4 lực lượng của
bộ đội PK- KQ: Pháo Cao xạ, Máy bay, Tên lửa, Ra đa. Đây là những vũ khí đã lập
nhiều chiến công xuất sắc: Khẩu pháo 37mm của khẩu đội Tô Vĩnh Diện tham gia
chiến dịch Điện Biên Phủ; Cuộc hành trình của Khẩu pháo 90mm do Mỹ sản xuất
tham gia đánh thắng trận đầu ngày 5/8/1964; Ra đa bắt được tín hiệu máy bay
chiến lược B.52 thông báo cho quân và dân Hà Nội trước 35 phút; Bệ phóng tên


lửa đã lập công bắn rơi tại chỗ máy bay B.52 đêm 18/12/1972 ngay trên bầu trời
Thủ đô; Máy bay Mig.21 đã bắn rơi máy bay B.52 đêm 27/12/1972; Các máy bay
Mig., máy bay trực thăng vận tải và một số máy bay cường kích ta thu được của
nguỵ quyền Sài Gòn trong đó có máy bay A.37 phi đội Quyết Thắng sử dụng ném
bom sân bay Tân Sơn Nhất, góp phần giành thắng lợi trong Chiến dịch Hồ Chí
Minh.... một số loại vũ khí, phương tiện mà thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã sử
dụng trong chiến tranh Việt Nam.
Phần trưng bày trong nhà gồm có 6 đề mục lớn:
Đề mục 1: Bộ đội PK – KQ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (những
chiến công của trung đoàn 367 tại chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1946 – 1954).
Đề mục II: Sự hình thành và phát triển các lực lượng PK – KQ chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1964).
Đề mục III: Bộ đội PK – KQ cùng với quân và dân miền Bắc đánh thắng hai cuộc

chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ra miền Bắc, đỉnh cao là đập tan cuộc tập
kích đường không chủ yếu bằng máy bay chiến lược B.52 vào Hà Nội và Hải
Phòng (2/1965 – 1/1973).
Đề mục IV: Bộ đội PK – KQ chiến đấu trong đội hình quân binh chủng hợp thành,
chiến dịch đường 9 Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào – 1971, chiến dịch Quảng Trị –
1972, chiến địch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975.
Đề mục V: Chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc; Xây dựng và sẵn sàng chiến đấu,
quản lý vững chắc vùng trời, vùng biển của Tổ quốc, cùng cả nước thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN (từ 1975 đến


nay).
Đề mục VI: Trưng bày các chuyên đề về đoàn kết quốc tế, hợp tác vũ trụ, đoàn kết
quân dân, sức mạnh từ mặt đất.
Trưng bày trong nhà hơn 3.000 hiện vật, hình ảnh đã tái tạo lại những trang sử oai
hùng của bộ đội Phòng không – Không quân, mỗi hiện vật, hình ảnh trong hệ
thống trưng bày là huyền thoại về những chiến công xuất sắc của bộ đội Phòng
không – Không quân qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, lập nên
những kỳ tích anh hùng đánh thắng không quân nhà nghề của nước có nền khoa
học kỹ thuật hiện đại đến nay vẫn còn là những điều hấp dẫn đối với nhiều khách
tham quan trong và ngoài nước. Ngày nay, Quân chủng Phòng không – Không
quân là một Quân chủng lớn mạnh, với các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, không
ngừng cải tiến kỹ thuật, luôn cảnh giác cao, sẵn sàng cùng với các lực lượng vũ
trang của Quân đội nhân dân Việt Nam bảo vệ vững chắc trời và biển Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Một trong số hiện vật quý hiếm đó là chiếc ghế máy bay Mi.4 đã vinh dự được Chủ
tịch Hồ Chí Minh sử dụng khi đi công tác; đặc biệt có bộ sưu tập hiện vật về Ban
nghiên cứu không quân, về Trung đoàn pháo cao xạ 367 với những chiến công xuất
sắc tại mặt trận Điện Biên Phủ; Chiến thắng tại cầu Hàm Rồng (Thanh Hoá),
Không quân nhân dân Việt Nam đã mở mặt trận trên không thắng lợi; Tư liệu hiện

vật trận đầu đánh thắng của bộ đội Tên lửa Phòng không Việt Nam ngày
24/7/1965; Bộ đội Phòng không - Không quân đánh thắng chiến tranh điện tử của
đế quốc Mỹ; cùng quân và dân miền Bắc bảo vệ Hà Nội – Hải Phòng 1967; Chiến
đấu ở chiến trường khu IV; bảo vệ tuyến vận tải chiến lược 559 (Đường Hồ Chí
Minh); Sa bàn điện tử chiến dịch “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng
12/1972; Chiến đấu trong đội hình quân binh chủng hợp thành; Quân chủng PK-


KQ thường xuyên cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ
quốc Việt Nam XHCN; Đặc biệt duy nhất tư liệu hiện vật chuyến bay Hợp tác vũ
trụ quốc tế Việt Nam - Liên Xô và có sưu tập tặng phẩm của các đoàn quốc tế đến
thăm và tặng bộ đội Phòng không – Không quân….
Trong kho lưu trữ của Bảo tàng PK- KQ đang lưu giữ trên 62.000 tư liệu, hiện
vật gốc quý hiếm về lịch sử oanh liệt của bộ đội Phòng không – Không quân Việt
Nam. Bảo tàng đã đón tiếp nhiều đoàn khách quốc tế, đặc biệt là đón các vị nguyên
thủ quốc gia, các tướng lĩnh của quân đội các nước, được đón tiếp các đoàn khách
quan trọng của một số nước trên thế giới trong đó có các cựu phi công Mỹ đã tham
gia chiến tranh ở Việt Nam.

III. Điểm mặt các ‘Át chủ bài’ của Không
quân Nhân dân Việt Nam
* Át (Aces) là một danh hiệu công nhận cho các phi công lái máy bay quân sự có
số lần bắn hạ máy bay đối phương đạt con số 5 trở lên. Danh hiệu Át có từ Chiến
tranh thế giới thứ nhất.
Chiến tranh Việt Nam ghi nhận cuộc chạm trán không cân sức giữa lực lượng
không quân hùng hậu nhất thế giới của Mỹ với lực lượng không quân còn non trẻ
của Việt Nam. Tuy mới thành lập, thiếu kinh nghiệm, trang thiết bị kém hiện đại
hơn nhưng với sự nỗ lực phi thường công với tinh thần sáng tạo, dũng cảm các phi
công Việt Nam đã lập được những chiến công hiển hách.
Có đến 16 phi công Việt Nam được công nhận danh hiệu Át trong khi đó con số

phi công Át của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam chỉ có 5 người.

Dưới đây là danh sách 16 phi công Việt Nam được công nhận danh hiệu
Át:
1.Phi công Nguyễn Văn Cốc - Bắn rơi nhiều máy bay Mỹ nhất


Đứng đầu trong danh sách các “Át” của Không quân Nhân dân Việt Nam là phi
công Nguyễn Văn Cốc với 9 lần bắn rơi máy bay Mỹ trong đó có 7 lần được phía
Mỹ công nhận.
Phi công Nguyễn Văn Cốc sinh năm 1943 tại huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.Ông
được tuyển chọn đi học lái máy bay MiG-17 vào năm 1961. Sau đó, ông lại sang
Liên Xô học chuyển loại MiG-21. Ông bắt đầu các hoạt động bay chiến đấu với
MiG-21 trong biên chế Trung đoàn 921, đoàn Sao Đỏ từ tháng 12/1965.
Chỉ trong vòng 2 năm (1967-1968), ông đã bắn rơi 9 máy bay Mỹ (gồm 3 F-4, 3 F5, 1 F-102, 2 UAV tầng cao AQM-34A).
Một trong những trận đánh đáng nhớ nhất của ông, được tuyển chọn vào tập sách
những trận đánh hay của không quân là trận ngày 30/4/1967.
Khi đó, biên đội của ông gồm phi công Nguyễn Ngọc Độ bay số 1, ông bay số 2
cất cánh đánh chặn một tốp F-105 của địch.Trong trận đánh, sau khi phi công
Nguyễn Ngọc Độ phóng tên lửa diệt một máy bay, tranh thủ lúc lúc địch chưa phát
hiện ra ta, ông đã nhanh chóng công kích bắn hạ thêm một máy bay F-105.
Đây có thể nói là bước “cải tiến chiến thuật”, vì theo nguyên tắc chiến thuật bài
bản, trong biên đội 2 MiG-21 thì số 2 chỉ có nhiệm vụ yểm trợ, quan sát đối
phương giúp số 1 công kích. Tuy vậy, Nguyễn Văn Cốc đã sáng tạo cải tiến chiến
thuật, khi thời cơ đến, ở thế có lợi cùng tham gia tiêu diệt máy bay địch, vừa bảo
vệ đồng đội nhưng vừa tăng hiệu suất chiến đấu.
Việc sáng tạo ra chiến thuật cải tiến số 2 cùng công kích, ông đã được đồng đội đặt
cho biệt danh “chim cắt số 2”. Với những chiến công xuất sắc trong 2 năm chiến
đấu, năm 1969, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang
Nhân dân.


2.Phi công Nguyễn Hồng Nhị - Lập chiến công trên độ cao 18km, mở màn
chiến thắng cho MiG-21 VN
Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, Thiếu tướng Nguyễn Hồng Nhị là một


trong những phi công xuất sắc của Không quân Nhân dân Việt Nam.
Chỉ trong vòng 3 năm từ 1966-1968, phi công Nguyễn Hồng Nhị đã lập chiến công
bắn hạ 8 máy bay địch. Trong đó, riêng năm 1967, ông bắn hạ tới 6 chiếc F-4 và F8 của địch.
Một trong những trận đánh đáng lưu ý của ông là vào ngày 4/4/1966, khi đó ông đã
dùng một chiếc MiG-21 bắn hạ máy bay không người lái tầng cao ở độ cao
18.000m. Điều đặc biệt ở đây, ông là người đầu tiên bay trên MiG-21 chiến và
cũng là lần đầu tiên MiG-21 của ta lập công diệt địch.
Trong quá trình học tập trở thành phi công của ông. Ban đầu, ông được chọn đi học
lái tiêm kích – bom. Nhưng khi về nước lại được giao lái máy bay tiêm kích đánh
chặn MiG-21. Đây là một trở ngại lớn vì những khoa mục, bài tập tiêm kích ông
học rất ít, không thuần thục.
Bằng, lòng dũng cảm, sáng tạo, ông đã lập được những chiến công xuất sắc bảo vệ
bầu trời miền Bắc Việt Nam. Thậm chí, những người phe đối phương cũng phải
“ngả mũ kính phục” ông.
Năm 2005, một sĩ quan cao cấp Hải quân Mỹ (sau này trở thành Đô đốc Hải quân)
đã tới Hà Nội du lịch với mong muốn được gặp Thiếu tướng Nguyễn Hồng Nhị để
bày tỏ lòng ngưỡng mộ. Rất tiếc, khi đó ông không có mặt ở Hà Nội.

3.Phi công Phạm Thanh Ngân
Phạm Thanh Ngân sinh ngày 18/4/1939 tại xã Lương Phú, huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên. Tháng 3/1959, ông nhập ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 4/1961, ông được cử sang Liên Xô học lái tiêm kích MiG-17. Tháng
10/1964, ông về nước và tham gia chiến đấu trong Trung đoàn 921 Sao đỏ.
Tháng 8/1965, ông đi học chuyển loại tiêm kích MiG-21. Tháng 6/1966, ông về

nước và bắt đầu trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ bầu trời miền Bắc.
Trong thời gian từ 1966-1968, ông cùng đồng đội tham gia chiến đấu và trực tiếp
bắn rơi 8 máy bay địch. Có hai trận đánh ngày 18 và 20/11/1967, ông và phi công


Nguyễn Văn Cốc đã bắn rơi tới 4 máy bay địch.
Đặc biệt, 2 trong số máy bay MiG-21 mà ông từng điều khiển mang số hiệu 4324
và 4326 đều là những chiếc có số lần bắn hạ đối phương cao nhất (4324 với 14 lần
và 4326 với 13 lần).
4.Phi công Mai Văn Cương
Anh hùng phi công Thiếu tướng Mai Văn Cương sinh năm 1941 tại xã Hoàng Đạo,
huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông nhập ngũ ngày 28/3/1959 và được kết nạp
vào Đảng ngày 23/8/1964.
Tháng 7/1961, ông được cử đi học lái máy bay tiêm kích MiG-17 tại Liên Xô.
Năm 10/1964, ông là sĩ quan lái máy bay của Trung đoàn 921. Tháng 9/1965, ông
tiếp tục cử đi học chuyển loại MiG-21 tại Liên Xô.
Trong quá trình chiến đấu, phi công Mai Văn Cương đã bắn hạ 8 máy bay Mỹ các
loại.
5.Phi công Đặng Ngọc Ngự
Phi công Đặng Ngọc Ngự với 7 lần bắn hạ máy bay Mỹ, phi công lái Mig-21 thuộc
Trung đoàn 921, đoàn Sao Đỏ. Ngày 22/5/1967 bắn rơi chiếc F-4C, ngày
10/5/1972 bắn rơi chiếc F-4E, ngày 8/7/1972 bắn rơi chiếc F-4E.

6.Phi công Nguyễn Văn Bảy - Có duyên số với số 7
Anh hùng phi công Đại tá Nguyễn Văn Bảy A (*) sinh năm 1936 tại xã Hòa Thành,
Lai Vung. Năm 1953, do không chịu lấy vợ theo ý gia đình ông bỏ trốn vào bộ đội.
Sau hiệp định Geneva 1954, ông tập kết ra miền Bắc.
Năm 1960, ông được chọn đi học lái máy bay tiêm kích MiG ở Liên Xô.Tháng
4/1965, ông về nước tham gia chiến đấu trong đội hình Trung đoàn tiêm kích 921
Sao Đỏ.

Trong suốt những năm chiến đấu (1966-1968), phi công Nguyễn Văn Bảy đã tham
gia đánh 13 trận bắn rơi 7 máy bay Mỹ và chưa lần nào phải nhảy dù.


Đặc biệt có những trận đánh hiếm có mà có lẽ khi nghe tới nhiều phi công Mỹ
cũng phải “thán phục”. Trận ngày 7/10/1965, khi chiến đấu trên bầu trời Yên Thế,
máy bay của ông bị trúng đạn thủng kính buồng lái. Dù vậy, ông vẫn bình tĩnh bịt
lỗ thủng to nhất và đưa máy bay hạ cánh an toàn. Sau trận đó, ông đếm tất cả có 82
lỗ thủng nắp buồng lái.Có thể nói, đây là kỳ tích hiếm có phi công nào trên thế giới
làm được.
Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, năm 1967, ông được Đảng và Nhà
nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Có một điều lạ, cuộc đời ông dường như gắn chặt với con số “7”. “Tao toàn gặp số
bảy: Tên Bảy, con thứ 7, đi bộ đội lúc 17 tuổi, học văn hóa 7 ngày lên 7 lớp, 7 lần
bắn rơi 7 máy bay Mỹ bằng máy bay MiG-17, được phong Anh hùng năm
1967…”, ông kể.

7.Phi công Nguyễn Đức Soát
Anh hùng phi công Trung tướng Nguyễn Đức Soát sinh năm 1946 tại xã Nam
Phong, huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
Năm 1965, ông nhập ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng trong năm này ông
được cử đi học lái tiêm kích MiG-21 tại Liên Xô.
Năm 1968, ông về nước và được cử vào Trung đoàn Không quân 921 Sao Đỏ. Chỉ
trong năm 1972, ông đã lần lượt bắn rơi 6 máy bay Mỹ.
Một trong những trận đánh đáng nhớ của ông và đồng đội là trận ngày 27/6/1972.
Trong trận đánh đó, hai biên đội MiG-21 Nguyễn Đức Soát – Ngô Duy Thư (trung
đoàn 921) và Phạm Phú Thái – Bùi Thanh Liêm (trung đoàn 927) đã phối hợp tiêu
diệt 4 chiếc F-4.
Đây là trận thắng oanh liệt khi chỉ trong ít phút bốn phi công của ta đã bắn rơi bốn
máy bay phản lực hiện đại được những phi công sừng sỏ Không quân Mỹ điều

khiển.
Với những chiến công xuất sắc trong chiến đấu, năm 1973, phi công Nguyễn Đức


Soát được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân khi mới
27 tuổi.

8.Phi công Nguyễn Ngọc Độ
Anh hùng phi công Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Độ sinh năm 1934 tại xã Phong
Thịnh, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Tháng 6/1953 ông nhập ngũ Quân đội
Nhân dân Việt Nam.
Tháng 10/1956 ông được cử đi học lái máy bay chiến đấu tại Trung Quốc. Năm
1964, ông về nước tham gia chiến đấu trong Trung đoàn 921.
Trong quá trình chiến đấu, ông trực tiếp cầm lái chiếc MiG-21 F13 số hiệu 4420
bắn rơi 6 máy bay chiến đấu Mỹ.
9.Phi công Nguyễn Nhật Chiêu
Anh hùng phi công Đại tá Nguyễn Nhật Chiêu sinh năm 1934 tại xã Quốc Tuấn,
huyện Nam Sách, Hải Dương. Năm 1956 ông được cử đi học lái máy bay chiến
đấu tại Trung Quốc.
Về nước tháng 8/1964, ông tham gia chiến đấu trong đội hình Trung đoàn 921 Sao
Đỏ.
Trong suốt những năm tháng chiến đấu, phi công Nguyễn Nhật Chiêu đã lập công
bắn hạ 6 máy bay Mỹ.
Đặc biệt, ông là phi công lái MiG-17 đầu tiên của Việt Nam giành chiến thắng
trước F-4 vào ngày 20/9/1965.


Ngoài ra, ông còn đánh một trận xuất sắc khác vào ngày 23/8/1967, chiếc MiG-21
ông điều khiển đã bắn hạ liền 2 chiếc F-4.
10.Phi công Vũ Ngọc Đỉnh

Phi công Vũ Ngọc Đỉnh với 6 lần bắn hạ máy bay Mỹ trong đó có 5 lần được phía
Mỹ công nhận, ông là phi công lái MiG-21 thuộc đoàn Sao Đỏ.
Tổng cộng ông bắn hạ 3 chiếc F-105D, một chiếc F-4D và một chiếc trực thăng
MH-53, một chiếc tác
11.Phi công Lê Thanh Đạo
Anh hùng phi công Lê Thanh Đạo sinh năm 1944 tại xã Thụy Phương, huyện Từ
Liêm, Hà Nội. Năm 1965, ông được cử đi học lái máy bay chiến đấu tại Liên
Xô.Năm 1968, ông hoàn thành nhiệm vụ học tập trở về nước tham gia chiến đấu
trong Trung đoàn Không quân 921.
Ông lập chiến công đầu ngày 18/12/1971 bắn hạ một chiếc F-4 bay vào trinh sát
miền Bắc chuẩn bị cho một cuộc đánh phá. Trong suốt năm 1972, ông lập công bắn
hạ thêm 5 máy bay khác của quân địch.
Dù vậy, trong các trận đánh trên không, anh hùng phi công Lê Thanh Đạo cũng bị
bắn rơi một lần vào ngày 15/10/1972. Ông bị thương buộc phải điều trị gần 1 năm,
sau khi lành vết thương ông tiếp tục “tung cánh trở lại” trên MiG-21 thêm 5-6 năm
nữa.
Với những chiến công xuất sắc, ngày 11/1/1973, ông được Đảng và Nhà nước
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

12.Phi công Nguyễn Đăng Kính


Anh hùng phi công Thiếu tướng Nguyễn Đăng Kính sinh năm 1941 tại xã Xuân
Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ông nhập ngũ ngày 23/3/1959 và được
kết nạp vào Đảng tháng 3/1966.
Tháng 10/1961, ông được chọn đi học lái máy bay tiêm kích tại Liên Xô.Tháng
10/1965, ông về nước và được biên chế vào Trung đoàn không quân 921.
Trong 2 năm chiến đấu (1967-1968), ông đã 6 lần bắn rơi máy bay Mỹ và 4 lần bị
bắn rơi. Một trong những chiến công đáng nhớ của ông là bắn rơi một máy bay gây
nhiễu điện tử EB-66 tại Lang Chánh (Thanh Hóa) tháng 11/1967.

Chiếc EB-66E này được coi là có giá trị tầm cỡ máy bay ném bom chiến lược B52.
13.Phi công Lê Hải
Anh hùng Phi công Lê Hải với 6 lần bắn hạ máy bay Mỹ, ông là phi công lái MiG17 thứ 2 của Không quân Nhân dân Việt Nam được công nhận danh hiệu Át.
Ông lái MiG-17F thuộc đoàn bay Yên Thế, phía Mỹ công nhận ông dành 2 chiến
thắng trước F-4C và F-4B.
14.Phi công Nguyễn Văn Nghĩa - "Mở màn" cho không quân trong 12 ngày
đêm
Anh hùng phi công Nguyễn Văn Nghĩa sinh năm 1946. Trong cuộc chiến chống
chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam bằng không quân của Mỹ, ông đã cất
cánh 100 lần trong đó xuất kích trực tiếp chiến đấu 68 lần, 9 lần gặp địch, 8 lần nổ
súng, phóng 8 quả đạn tên lửa, bắn rơi 6 máy bay Mỹ (trong đó có 5 chiếc rơi tại
chỗ).
Trong chiến dịch 12 ngày đêm bảo vệ bầu trời Hà Nội, phi công Nguyễn Văn
Nghĩa là người "mở màn" cho Không quân Nhân dân Việt Nam khi bắn hạ một
chiếc F-4 đêm 23/12/1972.


×