1
1
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
2
2
3
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc sử dụng phương tiện giao thông cá nhân đang tạo áp lực lên hệ thống hạ
tầng giao thông và đô thị hiện nay tại nước ta, đặc biệt là tại các đô thị lớn như Hà Nội
và TP. Hồ Chí Minh. Tính đến năm 2014 cả nước có 39 triệu xe máy, 2.2 triệu ô tô các
loại và gần 70 nghìn xe máy được đăng ký mới hàng quý (UBANGTQG, 2014), số
phương tiện cá nhân đã vượt quá quy hoạch đến năm 2020.
Hiện tượng tắc nghẽ giao thông xảy ra rất phổ biến tại các đô thị lớn như Hà Nội
và TP. Hồ Chí Minh gây nhiều thiệt hại về kinh tế và môi trường. Tính riêng cho Hà
Nội thiệt hại do tiêu hao nhiên liệu và công lao động do tắc nghẽn giao thông lên đến
600 triệu USD/năm (Phan Duy Toàn, 2012) và thải ra hàng ngàn tấn CO2 vào không
khí (Nguyễn Nga, 2012). Ngoài ra tắc nghẽn giao thông còn có tác động xấu đến sức
khỏe của cộng đồng như làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim gấp ba lần (Thu Hương,
2004).
Để giải quyết bài toán về vấn đề giao thông đô thị cần giảm được mật độ phương
tiện cá nhân và cải thiện hệ thống hạ tầng giao thông đô thị. Điều này có thể làm được
thông qua việc xây dựng hạ tầng cho giao thông và phát triển các dịch vụ giao thông
công cộng bằng xe bus và đường sắt đô thị. Việc sử dụng các phương tiện công cộng
là một giải pháp tốt để giảm hiện tượng tắc đường, giảm được khí thải độc hại ra môi
trường do giảm được mật độ phương tiện cá nhân trên đường.
Việc xây dựng hạ tầng cho hệ thống giao thông đòi hỏi nguồn vốn lớn, đặc biệt là
với hệ thống đường sắt đô thị (chi phí xây dựng, chi phí đền bù). Việc huy động những
nguồn vốn lớn cho những dự án như vậy là một trở ngại đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam khi nguồn lực cho phát triển đất nước còn hạn chế. Để giải quyết
vấn đề này thì việc huy động và sử dụng nguồn vốn như ODA là cần thiết.
Nguồn vốn ODA có vai trò quan trọng đối với các nước kém và đang phát triển.
ODA giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền móng cho sự
phát triển lâu dài qua việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế. Theo tính toán của WB
(World Bank) nếu có chính sách hợp lý thì tăng 1% ODA sẽ giúp nền kinh tế tăng
được 0.5% GDP. Tại Việt Nam trong 20 năm qua cũng đã nhận một lượng vốn ODA
lớn từ các nước phát triển, đặc biệt là Nhật Bản. Mặc dù nguồn vốn ODA có xu hướng
giảm trong những năm gần đây do Việt Nam đã trở thành một nước có thu nhập ở mức
4
4
trung bình thấp. Tuy nhiên nguồn vốn ODA vẫn được xem là một nguồn quan trọng và
Việt Nam vẫn nhận một lượng vốn ODA khá lớn. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư năm 2014 tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi đã ký kết với nhà tài trợ đạt
khoảng 5 tỷ USD.
Các nghiên cứu về hiệu quả ODA đối với nền kinh tế các nước đang phát triển
cho thấy ODA có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế (Durbarry, 2010; Driffield,
2006; Mohey ud-din, 2005). Bên cạnh đó cũng có nghiên cứu lại chỉ ra việc đầu tư
ODA chỉ là việc phân chia tài sản của người nghèo tại các quốc gia giàu có sang người
giàu tại các nước nghèo (Bauer, 1972). Tuy nhiên mọi người đều có cách nhìn lạc
quan về giá trị mà ODA mang lại (Stern, 1974). Tại Việt Nam các nghiên cứu về ODA
hiện nay chủ yếu tập trung việc tìm kiếm giải pháp thu hút vốn ODA và các đánh giá
hiệu quả dự án sử dụng ODA (Phạm Thị Túy, 2007; Nguyễn Minh Hải, 2009; Phạm
Hồng Thái, 2011) hay các đánh giá kinh nghiệm quản lý ODA từ các nước (Vương
Thanh Hà, 2009). Đặc điểm chung của các nghiên cứu tại Việt Nam là những đánh giá
kinh nghiệm, phân tích những thực trạng và đề ra xuất giải pháp cho việc thu hút và
nâng cao hiệu quả sử dụng ODA.
Mặc dù các nghiên cứu cho thấy việc sử dụng ODA một cách hợp lý có tác động
tích cực đối với nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển (WB). Tuy nhiên các
nghiên cứu trên thế giới chủ yếu đánh giá một cách tổng thể ảnh hưởng của ODA tới
nền kinh tế (Hansen & Tarp, 2001; Karras, 2006; Adam & Asu, 2014). Các nghiên cứu
tại Việt Nam chủ yếu là những đánh giá, nhận định về việc thu hút và sử dụng ODA
(Phạm Thị Túy, 2007; Nguyễn Minh Hải, 2009, Vương Thanh Hà, 2009) và chủ yếu
sử dụng các phương pháp định tính mà thiếu các nghiên cứu định lượng. Hiện tại theo
khảo sát của tác giả chưa có một nghiên cứu nào tại Việt Nam đánh giá các nhân tố
ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA cho các dự án, trong đó có dự án về đường sắt
đô thị bằng các phương pháp định lượng. Do đó tác giả quyết định lựa chọn đề tài
“Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ODA vào phát triển đường sắt
đô thị ở Việt Nam“ làm nghiên cứu cho luận án tiến sỹ của nghiên cứu sinh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả sử dụng vốn ODA, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA vào
phát triển đường sắt đô thị tại Việt Nam.
5
5
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về ODA và các nhân tố ảnh hưởng tới
hiệu quả dự án sử dụng ODA
Thứ hai, xác định các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ODA vào phát
triển đường sắt đô thị tại Việt Nam.
Thứ ba, đánh giá được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố hiệu quả sử dụng vốn
ODA vào phát triển đường sắt đô thị tại Việt Nam.
Thứ tư, thông qua đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn
ODA đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA cho các dự án
đường sắt đô thị.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án đưa ra một số câu hỏi nghiên cứu như sau:
(1)
(2)
(3)
Những nhân tố chính nào ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện dự án ODA ở khía
cạnh triển khai dự án ?
Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới hiệu quả thực hiện dự án ODA đối với
dự án đường sắt đô thị tại Việt Nam như thế nào ?
Làm thế nào để nâng cao hiệu quả thực hiện dựa án ODA nói chung và các dự
án sử dụng vốn ODA trong phát triển đường sắt đô thị tại Việt Nam?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Về nội dung luận án đi sâu vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng vốn ODA vào phát triển đường sắt đô thị tại Việt Nam, đi sâu phân tích các dự
án đường sắt đô thị tại Hà Nội. Cụ thể luận án chỉ tập trung vào việc phân tích ảnh
hưởng của các nhân tố tới hiệu quả sử dụng vốn ODA ở khía cạnh triển khai dự án.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Hiệu quả sử dụng vốn ODA vào phát triển đường sắt đô thị tại Việt
Nam (thông qua nghiên cứu trường hợp các dự án tại Hà Nội).
- Về thời gian: Đánh giá thực trạng triển khai các dự án đường sắt đô thị tại Hà Nội
đã và đang triển khai trong giai đoạn 2010 – 2015, khảo sát điều tra thực hiện trong
năm 2015.
6
6
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với phương pháp
định lượng để tập trung phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả sử dụng vốn
ODA vào phát triển đường sắt đô thị tại Hà Nội. Các nghiên cứu định tính được sử
dụng để khám phá, phát triển mô hình và giải thích sâu hơn cho kết quả nghiên cứu
định lượng. Nghiên cứu định lượng được sử dụng để kiểm chứng các giả thuyết nghiên
cứu và tính tin cậy của nghiên cứu (chi tiết xem tại chương 2).
6. Đóng góp mới của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án đem lại những đóng góp cả về mặt học thuật và
thực tiễn.
Về mặt học thuật, nghiên cứu đã xác định được khoảng trống nghiên cứu về sự
thiếu vắng các mô hình đánh giá hiệu quả dự án ở khía cạnh triển khai cho các dự án.
Kết quả tác giả đã phát triển một mô hình xây dựng các nhân tố tác động tới hiệu quả
dự án ODA và tiến hành kiểm định sự tin cậy của nó qua dữ liệu điều tra thực nghiệm.
Từ mô hình được phát triển bao gồm sáu nhân tố là (1) năng lực tài chính;(2) năng lực
tổ chức; (3) năng lực điều hành; (4) tầm nhìn của lãnh đạo; (5) khả năng thích nghi và
(6) quản trị rủi ro. Kết quả kiểm nghiệm từ dữ liệu thực nghiệm cho thấy có ba nhân tố
có ảnh hưởng thực sự đến sự đến hiệu quả thực hiện dự án là (1) năng lực tài chính; (2)
năng lực điều hành và (3) khả năng thích nghi.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu đã đưa ra những gợi ý để nâng cao hiệu
quả thực hiện dự án đường sắt đô thị một cách khoa học dựa trên cơ sở nghiên cứu tập
trung vào ba nhóm giải pháp chính (1) Cải thiện năng lực quản trị tài chính dự án; (2)
nâng cao hiệu quả điều hành dự án từ lãnh đạo và (3) Cải thiện khả năng thích nghi
của các bộ phận thực hiện dự án trước các biến đổi từ bên ngoài .
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục bảng, hình vẽ, danh mục từ viết tắt, tài
liệu tham khảo và các phụ lục luận án được kết cấu thành bốn chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và
các nhân tố anh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ODA vào phát triển đường sắt đô thị
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
7
7
Chương 4: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA
vào phát triển đường sắt đô thị tại Việt Nam.
8
8
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
(ODA) VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
ODA VÀO PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ
Một số vấn đề lý luận về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
1.1.1
Khái niệm về ODA
1.1
Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA: Official Develoment Assistance) là
nguốn vốn vay hỗ trợ các nước kém phát triển và đang phát triển để phát triển kinh tếxã hội, trong đó phần vốn viện trợ không hoàn lại tối thiểu là 25%.
Lịch sử phát ra đời của nguồn vốn vay ODA bắt đầu sau chiến tranh thế giới thứ
hai. Để hỗ trợ đồng minh của mình tái thiết đất nước Mỹ thực hiện kế hoạch Marshall
hỗ trợ các nước đồng minh sau chiến tranh (Fuhrer, 1993). Đến những năm 1970 Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc đề nghị các nước tài trợ dành ra một khoản 0.7% GNP để tạo
nguồn viện trợ cho các nước nghèo. Ngày nay, ODA đã trở thành một nguồn tài trợ
lớn cho nhiều nước nghèo, các nước đang phát triển.
Nghiên cứu về ODA đã được thực hiện bởi nhiều nhà nghiên cứu và mỗi tổ chức
đưa ra định nghĩa về ODA không thống nhất với nhau. Điểm thống nhất với nhau giữa
các định nghĩa là về mức hỗ trợ không hoàn lại tối thiểu là 25% mới được gọi là ODA.
Đầu thập niên 1970, OECD đưa ra định nghĩa đầu tiên về ODA như sau “ODA là một
giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi
và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%”(OECD, 1972). Ngân hàng
thế giới (WB) định nghĩa “ODA là một phần của tài chính phát triển chính thức,
trong đó có chủ yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải
chiến ít nhất 25% trong tổng viện trợ thì gọi là ODA” (WB, 2001). Tại Việt Nam
theo quy định của nghị định NĐ 17/2001/NĐ-CP, Chính phủ Việt Nam coi ODA là
hoạt động hợp tác và phát triển giữa nhà nước Việt Nam với nhà tài trợ, bao gồm:
(i) Chính phủ nước ngoài; (ii) Tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia. Các hình
thức cung cấp ODA bao gồm (a) ODA không hoàn lại, (b) ODA cho vay ưu đãi có
yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%.
Như vậy, quan niệm về ODA có thể được định nghĩa khác nhau nhưng đều thống
nhất với nhau ở khía cạnh yếu tố viện trợ không hoàn lại phải đạt ít nhất 25%. Có thể định
9
9
nghĩa ODA tại Việt Nam như sau “Nguồn vốn vay hỗ trợ chính thức (ODA) là các nguồn
vốn hỗ trợ của các tổ chức liên chính phủ, liên quốc gia hoặc chính phủ nước ngoài có
tính chất ưu đãi có hoàn lại hoặc không hoàn lại, trong đó phần vốn hỗ trợ không hoàn
lại phải chiếm ít nhất 25%”.
1.1.2
Bản chất của ODA
Bản chất của ODA là nguồn vay hỗ trợ phát triển có ưu đãi đối với nước tiếp
nhận nhằm phát triển kinh tế - xã hội trong dài hạn và giảm nghèo. Ngoài yếu tố về ưu
đãi, hỗ trợ nguồn vốn ODA còn gắn với các mục đích chính trị trong ngắn hạn của tổ
chức, nhà nước tài trợ.
Thứ nhất ODA là nguồn vốn hỗ trợ tăng trưởng dài hạn và giảm nghèo cho các
ngước kém phát triển và đang phát triển. Với mục đích giúp các nước kém phát triển và
đang phát triển có nguồn vốn đầu tư cho các dự án phát triển xã hội dài hạn nguồn vốn
ODA thường hướng tới trợ giúp các nước thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn và giảm
nghèo. ODA cũng có tính chất đầu tư tức là đem lại cả lợi ích cho bên hỗ trợ và bên nhận
hỗ trợ. Do có tính chất đầu tư nên các nguồn vốn vay ODA thường được sử dụng vào các
mục đích sau:
(1) Điều chỉnh hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Đối với những nước kém phát triển
nguồn vốn ODA có thể được sử dụng đề bù đắt cho thâm hụt cán cân thanh
toán quốc tế. Điều này giúp cho việc quản lý ngân sách trong giai đoạn cải cách
hệ thống tài chính hay chuyển đổi hệ thống kinh tế tốt hơn.
(2) Tăng nguồn vốn trong nước để chính phủ các nước kém phát triển, đang phát
triển có thể thực hiện các chương trình đầu tư quốc gia, đặc biệt là hệ thống đầu
tư cơ sở hạ tầng kinh tế tạo tiền đề cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo
hiệu ứng cho các khu vực vốn tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển.
(3) Cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân các nước kém phát triển và đang
phát triển thông qua các chương trình hỗ trợ giảm nghèo, cải cách giáo dục, y
tế, bảo vệ môi trường, vv.
(4) Trợ giúp chính phủ các nước nhận hỗ trợ thực hiện các chương trình nghiên
cứu tổng hợp nhằm hoạch định chính sách hay cung cấp thông tin cho đầu tư tư
nhân qua điều tra khảo sát, đánh giá tình hình kinh tế - xã hội ở nước tiếp nhận
ODA.
Nhìn chung, ODA có tính chất đầu tư nhưng không sinh lời trực tiếp trong ngắn
hạn mà hướng tới các mục tiêu có tính chất dài hạn, khả năng thu hồi vốn chậm nhưng
có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường cho sự phát triển của các khu vực
đầu tư khác, tăng cường sự hợp tác giữa nước cấp vốn ODA và nước tiếp nhận ODA..
Thứ hai vốn ODA thường kèm theo lợi ích chiến lược và chính trị ngắn hạn từ
10
10
phía nhà tài trợ. Ngoài các mục tiêu hỗ trợ các nước đang phát triển việc cung cấp
ODA của các nước và tổ chức còn có những mục đích riêng khác như (i) lợi ích kinh
tế từ khoản vay ODA; (ii) mở rộng hợp tác quốc tế; (iii) mở rộng thị trường xuất khẩu
của nước cung cấp ODA thông qua các điều khoản hợp tác và (iv) đảm bảo an ninh,
quốc phòng hoặc các mục tiêu chính trị khác. Các biểu hiện để đạt được các mục tiêu
của bên cung cấp ODA thường thông qua các phương thức:
(1) Thông qua hợp đồng kí kết các nước tiếp nhận phải thực hiện những yêu cầu
nhất định theo hướng có lợi cho bên viện trợ. Xu hướng thế giới cho thấy các
nhà tài trợ giảm các khoản viện trợ không hoàn lại và tăng các khoản vay ưu
đãi qua các điều kiện ràng buộc với nước tiếp nhận ODA như phải mua sản
phẩm, lựa chọn nhà thầu từ nước cung cấp ODA.
(2) Vốn ODA có sự phân biệt giữa các nước tiếp nhận cần đáp ứng tiêu chuẩn
có tính chất cá nhân từ các nhà tài trợ. Chỉ những nước đáp ứng được các
yêu cầu của nhà tài trợ mới được đầu tư các dự án ODA. Ngược lại, các nước
không có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn từ nhà tài trợ nhưng thực sự cần
vốn hỗ trợ phát triển lại không được thực hiện đầu tư.
(3) Với những những hình thức viện trợ có tính chất ràng buộc, nước tiếp nhận
vay có thể chịu mức lãi suất cao. Chính vì vậy, ngoài nguồn vốn vay có được
để đầu tư phát triển, nước tiếp nhận cũng gánh thêm khoản lãi suất cần phải
trả cho nước viện trợ. Vấn đề này cũng là một áp lực lớn trong việc sử dụng
hiệu quả nguồn vốn ODA nếu không muốn dẫn tới tình trạng nợ ODA với các
dự án không hiệu quả.
1.1.3
Phân loại ODA
Phân loại vốn ODA có nhiều cách khác nhau tùy vào từng tiêu chí phân loại.
Có bốn cách phân loại chính đối với các hình thức ODA (Nguyễn Thị Hoàng Oanh,
2006; Vũ Chí Lộc, 2012).
1.1.3.1 Phân loại theo phương thức hoàn trả
ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA mà bên nhận tài trợ không
phải hoàn trả cho bên tài trợ. Có thể coi viện trợ không hoàn lại như một nguồn thu
của ngân sách Nhà nước, được sử dụng theo hình thức Nhà nước cấp phát lại cho các
nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Viện trợ không hoàn lại chiếm
khoảng 25% trong tổng số vốn ODA trên Thế giới. Viện trợ không hoàn lại thường
được thực hiện dưới các dạng: Hỗ trợ kỹ thuật và viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
ODA vay ưu đãi: Nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền, với các điều
kiện ưu đãi về lãi suất (thấp hơn lãi suất thị trường), thời gian ân hạn và thời gian trả
11
11
nợ; hoặc không chịu lãi mà chỉ chịu chi phí dịch vụ. Vay ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số vốn vay ODA trên Thế giới, là nguồn thu phụ thêm để bù đắp thâm hụt
ngân sách Nhà nước.
ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu
đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại.
Nhìn chung hiện nay các nước cung cấp ODA đang có chiều hướng giảm viện trợ
không hoàn lại; tăng hình thức tín dụng ưu đãi và ODA hỗn hợp.
1.1.3.2 Phân loại theo nguồn cung cấp
ODA song phương: Là các khoản tài trợ phát triển chính thức từ nước này cho
nước kia (nước phát triển cho nước đang hoặc kém phát triển) thông qua Hiệp định
được ký kết giữa hai Chính phủ. Trong tổng số ODA lưu chuyển trên thế giới, phần tài
trợ song phương chiếm tỷ trọng lớn, có khi lên tới 80%, lớn hơn nhiều so với tài trợ đa
phương.
ODA đa phương: Là các khoản tài trợ phát triển chính thức của một số tổ chức
tài chính quốc tế và khu vực như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), …; hoặc các tổ chức phát triển của Liên
hợp quốc như: Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP), Quỹ nhi đồng
Liên hợp quốc (UNICEF), Tổ chức nông lương thế giới (FAO),…; hoặc Liên minh
Châu Âu (EU), các tổ chức thuộc Liên minh Châu Âu, và các tổ chức phi chính phủ
(NGOs)…cho các nước đang hoặc kém phát triển .
1.1.3.3 Phân loại theo mục đích sử dụng ODA
Hỗ trợ cán cân thanh toán: Là các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách của
Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: Chuyển giao tiền tệ hoặc hiện
vật cho nước nhận ODA; Hỗ trợ nhập khẩu (tài trợ hàng hoá): Chính phủ nước nhận
ODA tiếp nhận một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với các khoản cam kết, bán
cho thị trường nội địa và thu nội tệ.
Hỗ trợ theo chương trình: Là hỗ trợ theo khuôn khổ đạt được bằng hiệp định với
các nhà tài trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA trong một khoảng thời gian mà
không phải xác định trước một cách chính xác nó sẽ sử dụng như thế nào. Đây là loại
hình ODA trong đó các bên lồng ghép một hay nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều dự
án, hay nhiều hợp phần.
12
12
Hỗ trợ theo dự án: Là khoản hỗ trợ, trong đó nước nhận hỗ trợ phải chuẩn bị chi
tiết dự án. Loại hình hỗ trợ này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn ODA và chủ yếu
tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội. Trị giá vốn của các dự án đầu tư
thường lớn hơn và thời gian thực hiện dài hơn các loại dự án khác.
Hỗ trợ kỹ thuật: Là loại hình thường tập trung chủ yếu vào chuyển giao kiến thức
hoặc tăng cường cơ sở, lập kế hoạch, tư vấn, nghiên cứu tình hình thực tiễn, nghiên
cứu tiền khả thi…Vốn của dự án hỗ trợ kỹ thuật dành chủ yếu cho thuê tư vấn quốc tế,
tư vấn trong nước, tổ chức đào tạo, nghiên cứu khảo sát và mua sắm thiết bị văn
phòng. Trị giá vốn của các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường không lớn.
1.1.3.4 Phân loại theo điều kiện ODA
Theo điều kiện ODA được chi thành 3 loại: ODA không ràng buộc; ODA có
ràng buộc (gồm ODA ràng buộc bởi nguồn sử dụng và ODA ràng buộc bởi mục đích
sử dụng) và ODA ràng buộc một phần.
1.1.4 Các nguồn cung cấp ODA trên thế giới
ODA trên thế giới được cung cấp chủ yếu theo hai dạng song phương và đa
phương:
1.1.4.1 Các đối tác cung cấp ODA song phương
Các đối tác cung cấp ODA song phương chủ yếu bao gồm các nước công nghiệp
phát triển thuộc DAC, các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), ODA song phương còn
được cung cấp bởi Liên Xô và một số nước Đông Âu khác. Tại Việt Nam, trong những
năm trở lại đây nguồn cấp ODA được cấp chủ yếu từ Nhật Bản. Trong năm 2014 các
nhà tài trợ lớn bao gồm: Nhật Bản (JICA) hơn 1,770 tỷ USD, Ngân hàng Thế giới
(WB) gần 1,390 tỷ USD, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) 1,058 tỷ USD (Bộ tài
chính, 2015).
1.1.4.2 Các đối tác cung cấp ODA đa phương
Bên cạnh việc cung cấp ODA song phương, ODA còn được chuyển giao thông
qua các tổ chức viện trợ đa phương bao gồm: Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ:
gồm Ủy ban châu Âu (EC) và các tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc; Các định chế tài
chính và các quỹ gồm: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB),…; Các tổ chức phi chính phủ (NGOs như Greenpeace,
Amnesty International, Human Rights Watch, Oxfam, Tổ chức chữ thập đỏ và lưỡi
13
13
liềm đỏ quốc tế, World Vision,…
1.1.5 Vai trò của ODA
Vốn ODA là nguồn vốn hỗ trợ ưu đãi của các nước phát triển dành cho các nước
kém phát triển và đang phát triển. Mặc dù có tính chất ưu đãi và có ý nghĩa lớn đối với
các nước nhận hỗ trợ từ các nhà tài trợ ODA nhưng bên cạnh đó ODA cũng phục vụ
mục đích về kinh tế hay chính trị của nước tài trợ đối với nước nhận tài trợ
1.1.5.1 Vai trò của ODA đối với các nước tiếp nhận
Thứ nhất, ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước kém phát triển và đang
phát triển đảm bảo chi đầu tư cho phát triển, giảm gánh nặng ngân sách cho nguồn
ngân sách eo hẹp của các nước nghèo. Vốn vay ODA thường có thời hạn vay dài từ 10
đến 30 năm và có mức lãi suất vay thấp hơn các nguồn vay khác. Do đó, ODA được
xem là nguồn vốn có tính “nhân đạo“ đối với các nước kém phát triển và đang phát
triển. Chỉ với nguồn vốn lớn với điều kiện vay ưu đãi như vậy chính phủ các nước
kém phát triển và đang phát triển mới có thể tập trung cho các dự án xây dựng cơ sở
hạ tầng xã hội như hệ thống giao thông, điện, giáo dục, y tế, nông nghiệp xóa đói,
giảm nghèo ... Những cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được xây dựng mới hoặc cải tạo
nhờ nguồn vốn ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của các
nước nghèo. Theo tính toán của các chuyên gia của WB, đối với các nước đang phát
triển có thể chế và chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng trưởng
tăng thêm 0,5%.
Thứ hai, ODA giúp các nước kém phát triển và đang phát triển nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường. Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và
các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ
thuật cho việc dạy và học của các nước kém phát triển và đang phát triển. Bên cạnh
đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế,
đảm bảo sức khoẻ cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước đang
phát triển đã gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
Thứ ba, ODA giúp các nước kém phát triển và đang phát triển thực hiện việc xóa
đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài
trợ quốc tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu
này biểu hiện tính nhân đạo của ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA
một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và giảm 0,9% tỷ lệ tỷ vong ở trẻ
sơ sinh. Và nếu như các nước giàu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ cứu được 25
triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Thứ tư, nguồn vốn ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân
thanh toán quốc tế của các nước kém phát triển và đang phát triển. Đa phần các nước
14
14
kém phát triển và đang phát triển rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất
lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt các khoản trợ
giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp
nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.
Thứ năm, nguồn vốn ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ
sung cho đầu tư tư nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng
vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện
trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần
củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ. Tuy
nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát huy tác dụng đối với đầu tư tư nhân. Ở
những nền kinh tế có môi trường bị bóp méo nghiêm trọng thì viện trợ không những
không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư nhân. Điều này giải thích tại sao các nước
đang phát triển mắc nợ nhiều, mặc dù nhận được một lượng ODA lớn của cộng đồng
quốc tế song lại không hoặc tiếp nhận được rất ít vốn FDI.
Thứ sáu, vốn ODA giúp các nước kém phát triển và đang phát triển tăng cường
năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp
luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ
quốc tế.
1.1.5.2 Vai trò của ODA đối với các nước tài trợ
Đứng ở khía cạnh của các nhà tài trợ ODA, nguồn vốn vay ODA cũng đem lại
những lợi ích kinh tế và chính trị nhất định:
Thứ nhất, thông qua cho vay ODA các nước tài trợ thu được các nguồn lợi ích có
tính chất kinh tế từ việc bán hàng hóa và dịch vụ trong nước thông qua các ràng buộc
trong hiệp định cho vay với các nước nhận tài trợ. Khoản vay ODA cũng chính là
khoản hỗ trợ doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường, bán được hàng hóa, dịch
vụ, chuyển giao các công nghệ lạc hậu từ các nước cho vay tới nước nhận tài trợ.
Trong thực tế, các khoản vay ODA thường kèm theo các điều kiện ràng buộc và nguồn
vốn có xu hướng quay trở lại chính nước tài trợ.
Thứ hai, thông qua các khoản vay ODA nước tài trợ gia tăng được vị thế kinh tế,
ảnh hưởng tới kinh tế và chính trị của các nước nhận viện trợ và nâng cao được vị thế
quốc gia của mình trên trường quốc tế.
Thứ ba, trong dài hạn nguồn vốn ODA giúp các nước tài trợ mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm đối với hàng hóa, dịch vụ của nước mình.
Thư tư, vốn ODA cũng tham gia việc rút gắn khoảng cách chênh lệch giàu –
nghèo giữa các nước, giúp giải quyết mẫu thuẫn về lợi ích giữa các nước giàu và các
nước nghèo.
1.2 Hiệu quả sử dụng vốn ODA
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn ODA
15
15
Hiệu quả là việc sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu một cách tối ưu.
Các khái niệm liên quan đến hiệu quả tập trung vào việc so sánh giữa lợi ích và chi
phí. Đối với các dự án sử dụng vốn ODA cũng vậy, hiệu quả của dự án là tương quan
giữa lợi ích thu được từ dự án và các chi phí bỏ ra của dự án. Trong thực tế hạch toán
lợi ích và chi phí thường được tính toán là các lợi ích và chi phí có tính chất tài chính.
Tuy nhiên, với các dự án ODA có đặc điểm nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, thúc
đẩy phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội nên các lợi ích và chi phí có tính chất
tài chính không phải là chỉ tiêu phản ánh đầy đủ tính hiệu quả của dự án. Hiệu quả của
dự án ODA là hiệu quả về tổng thể lợi ích xã hội đạt được với chi phí bỏ ra để thực
hiện dự án.
Các nhà nghiên cứu trong kinh doanh đưa ra quan điểm về hiệu quả là việc đạt
được các mục tiêu chiến lược không thuần túy là kết quả tài chính.Quan niệm về hiệu
quả này được xuất phát các nhà nghiên cứu cho rằng hiệu quả là việc đạt được các
mục tiêu, kết quả được đánh giá dựa trên mức độ đạt được các mục tiêu hay không
(Buzzell & Gale, 1987, Cyer & March, 1992; Hult và cộng sự, 2004, Keh và cộng sự,
2007). Theo đó, hiệu quả là kết quả đạt được các mục tiêu chiến lược đặt ra trong
tương quan với giới hạn về ngân sách (chi phí), thời gian thực hiện.
Đối với các dự án ODA có tính chất xã hội hơn là các hiệu quả tài chính nên
trong luận án này tác giả cũng quan niệm là hiệu quả dự án là việc đạt được các mục
tiêu chiến lược đặt ra. Trong một dự án ODA có nhiều bộ phận tham gia từ chủ đầu
tư, nhà thầu tư vấn, nhà thầu giám sát, nhà thầu thi công và mỗi bộ phận có những
mục tiêu khác nhau. Ở khía cạnh điều hành dự án, triển khai dự án có thể xem hiệu
quả dự án là hiệu quả của từng bộ phận. Hiệu quả của cả dự án là hiệu quả tổng thể
của từng bộ phận tham gia vào quá trình triển khai dự án. Đối với các dự án phát
triển cơ sở hạ tầng hiệu quả dự án được thể hiện qua ba khía cạnh chủ yếu (1) chất
lượng; (2) chi phí và (3) tiến độ. Ngoài ra còn có thể có những mục tiêu cụ thể khác
nữa. Xuất phát từ quan niệm như vậy trong luận án này hiệu quả dự án được định
nghĩa như sau:“Hiệu quả dự án sử dụng vốn ODA là việc đạt được các mục tiêu của
tất cả các bộ phận tham gia triển khai dự án, đạt được các mục tiêu chiến lược của
từng bộ phận về chất lượng công việc, chi phí, tiến độ và các mục tiêu khác “1. Như
vậy, trong luận án này hiệu quả dự án được hiểu là việc thực hiện thành công các mục
Lưu ý là trong luận án này tập trung vào đánh giá hiệu quả của quá trình triển khai dự án
nên hiệu quả chỉ xem xét ở khía cạnh triển khai dự án mà không đánh giá tính hiệu quả sau
khi thực hiện dự án và cũng không xét đến phương pháp đánh giá hiệu quả khi lập dự án. Bởi
hiệu quả dự án khi lập dự án là “hiệu quả giả định tương lai” đã được tiến hành đánh giá và
hiệu quả sau khi hoàn thành dự án là hiệu quả vận hành đối với dự án đường sắt đô thị chưa
xảy ra.
1
16
16
tiêu của từng bộ phận.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA
Do mục tiêu của các dự án ODA nói chung và dự án phát triển đường sắt đô
thị nói riêng có mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội nhiều hơn là vấn đề hiệu quả
tài chính. Do đó, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn ODA cũng có thể được chia thành
nhiều loại. Loại thứ nhất bao gồm các chỉ tiêu có thể lượng hóa được gọi là các chỉ
tiêu định lượng, loại thứ hai là các chỉ tiêu không lượng hóa cụ thể được gọi là các
chỉ tiêu định tính.
Các chỉ tiêu định lượng của dự án bao gồm: (1) Chỉ tiêu liên quan đến chất
lượng thực hiện dự án bao gồm các chỉ tiêu về tiêu chuẩn kỹ thuật của từng hạng
mục công việc, chỉ tiêu về tiêu chuẩn kỹ thuật cho công trình, thiết bị lắp đặt; (2)
chỉ tiêu về chi phí dự án như khả năng chuyển vốn, chi phí theo dự toán; các chỉ
tiêu tài chính của dự án dựa trên giả định về nguồn chi và thu khi kết thúc và đưa
dự án vào khai thác (NPV, IRR, B/C);(3) các chỉ tiêu liên quan đến thời gian thực
hiện và khai thác của dự án như tiến độ thực hiện từng phần dự án, chu kỳ khai thác
dự án khi đưa vào hoạt động.
Các chỉ tiêu định tính bao gồm các chỉ tiêu về hiệu quả xã hội như : (1)Mức độ
phù hợp của nhu cầu xã hội đối với dự án; (2) tính bền vững khi thực hiện dự án;
(3)mức độ tác động tới vấn đề an sinh, phúc lợi xã hội; (4) tác động tới môi trường,...
Trong luận án này, đứng ở khía cạnh nghiên cứu về hiệu quả dự án trong quá
trình triển khai các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án được tập trung vào các nhóm
(1)chất lượng công việc khi tham gia dự án;(2) Chi phí cho từng công việc khi tham
gia dự án; (3) Tiến độ thực hiện công việc khi tham gia dự án và (4) các mục tiêu
chiến lược khác của từng đơn vị tham gia dự án.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ODA
Hiệu quả sử dụng vốn ODA chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Tùy vào
góc độ đánh giá có thể thấy hiệu quả ODA được xem ở cả khía cạnh quản lý chung
(quản lý vĩ mô) và khía cạnh của từng dự án. Trong luận án này tác giả giới thiệu cả
hai nhóm nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA nhưng tập trung nhiều hơn
vào các khía cạnh của hiệu quả của dự án với định nghĩa về hiệu quả là việc đạt được
mục tiêu chiến lược đặt ra, hiệu quả dự án là hiệu quả tổng hợp của từng bộ phận tham
gia vào quá trình triển khai dự án.
1.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ODA ở khía cạnh vĩ mô
Ở khía cạnh vĩ mô hiệu quả sử dụng vốn ODA cũng được xem như việc đạt được
các mục tiêu đặt ra. Cũng có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc sử dụng ODA nói
chung. Trong luận án này tác giả đi sâu phân tích một số nhóm yếu tố chính bao gồm
(1) Điều kiện phát triển kinh tế của nước tiếp nhận; (2) Môi trường chính sách liên
quan đến ODA; (3) Khả năng quản lý của hệ thống bộ máy nhà nước và (4) Môi
17
(1)
(2)
(3)
(4)
17
trường văn hóa, điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng của nước tiếp nhận. Trong đó:
Điều kiện phát triển kinh tế của nước tiếp nhận chính là trình độ phát triển kinh tế
của nước tiếp nhận ODA. Đối với các nước đang phát triển có trình độ phát triển kinh
tế tốt được cải thiện thường xuyên cũng sẽ thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn
vay ODA cho các dự án phát triển kinh tế xã hội và ngược lại. Với các nước sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực của mình cho phát triển kinh tế đất nước (như Hàn Quốc,
Đài Loan trong quá khứ) nhưng thiếu các nguồn vốn cho phát triển thì khi tiếp nhận
ODA thường đem lại hiệu quả lớn hơn các nước có “tiền sử“ sử dụng các nguồn lực
kém hiệu quả. Các nước có tiền sử về việc sử dụng nguồn lực kém hiệu quả thường do
ảnh hưởng của hệ thống hành chính kém hiệu quả, tình trạng tham nhũng cao dẫn đến
lãng phí các nguồn lực của cho các mục tiêu phát triển. Do đó, khi tiếp nhận nguồn
vốn ODA cũng thường sử dụng một cách thiếu hiệu quả dẫn đến kết quả sử dụng
nguồn vốn kém hơn.
Môi trường chính sách liên quan đến nguồn vốn ODA: Môi trường chính sách về ODA
của nước tiếp nhận cũng ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng vốn ODA. Hệ thống chính
sách bao gồm hệ thống về pháp lý liên quan đến ODA như các luật đầu tư nước ngoài, các
hiệp định ký kết của các nước nhận viện trợ và viện trợ, các hệ thống văn bản pháp luật
điều chỉnh các hoạt động liên quan đến vốn ODA. Ngoài ra còn có hệ thống hành chính
của các cơ quan công quyền trong nước, sự đồng bộ về cơ chế phối hợp giữa các bộ phận
tham gia thu hút, quản lý, sử dụng vốn ODA của nước tiếp nhận.
Khả năng quản lý của hệ thống bộ máy nhà nước đối với các dự án ODA: Khả năng
quản lý hệ thống bộ máy cũng là một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả
sử dụng nguồn vốn ODA của các dự án nói chung. Khả năng quản lý của hệ thống bộ
máy nhà nước phụ thuộc vào hai khái cạnh chính là (1) các nhân tố con người và (2)
hệ thống cơ sở vật chất dành cho dự án. Đối với các nhân tố liên quan đến con người
có thể bao gồm các khía cạnh về kiến thức quản lý, năng lực chuyên môn phù hợp như
được đào tạo chuyên môn thích hợp cho từng dự án, kỹ năng và kinh nghiệm làm
việc, đạo đức nghề nghiệp, thái độ chuyên nghiệp với công việc, tính hợp tác và
khả năng phối hợp thực hiện công việc, vv. Đối với các nhân tố về hệ thống cơ sở
vật chất cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA cho từng dự án như hệ thống
trang thiết bị làm việc, giám sát, kiểm tra đối với chất lượng công việc của từng bộ
phận.
Môi trường văn hóa, điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng: Môi trường văn hóa, điều
kiện tự nhiên và hệ thống cơ sở hạ tầng cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn
ODA của các dự án. Các khía cạnh thuộc về văn hóa như các tập quán, thuộc tính văn
hóa đặc trưng của dân cư có thể tác động tiêu cực hay tích cực đến các dự án sử dụng
ODA. Điều kiện tự nhiên như các nguồn tài nguyên sử dụng cho dự án, mức độ sẵn có
18
18
của các nguồn nguyên liệu tự nhiên hay đặc trưng về địa lý, địa hình cũng ảnh hưởng
tới hiệu quả sử dụng vốn ODA khi thực hiện các dự án. Hệ thống cơ sở hạ tầng như
mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp thoát nước hay các cơ
sở cung cấp dịch vụ công cộng cũng là một yếu tố cần tính đến khi tính toán hiệu quả
sử dụng nguồn vốn của dự án.
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ODA ở khía cạnh triển
khai từng dự án
Xuất phát từ quan điểm hiệu quả dự án ODA cũng giống như hiệu quả của các
dự án kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn ODA cho các dự án ở quá trình triển khai là
việc đạt được các mục tiêu chiến lược đặt ra. Cách xác định hiệu quả trong doanh
nghiệp có nhiều cách phụ thuộc vào nhiều tiêu chí khác nhau như hiệu quả tài chính,
việc đạt được các mục tiêu kinh doanh (Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang,
2009). Đối với dự án ODA có tính chất xã hội hơn là các hiệu quả tài chính. Do đó
tác giả quan niệm hiệu quả dự án ODA là việc đạt được các mục tiêu chiến lược đặt
ra. Quan niệm về hiệu quả này được xuất phát các nhà nghiên cứu cho rằng hiệu quả
là việc đạt được các mục tiêu, kết quả được đánh giá dựa trên mức độ đạt được các
mục tiêu hay không (Buzzell & Gale, 1987, Cyer & March, 1992; Hult và cộng sự,
2004; Keh và cộng sự, 2007). Các phân tích từ lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm
trong các lĩnh vực kinh doanh cho thấy có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng tới
hiệu quả kinh doanh. Cũng giống như trong đánh giá hiệu quả kinh doanh trong luận
án này tác giả thông qua phân tích từ các nghiên cứu trước xem xét 06 nhân tố chủ
yếu tác động tới hiệu quả dự án là (1) Năng lực tài chính; (2) Khả năng tổ chức; (3)
Năng lực điều hành; (4) Tầm nhìn chiến lược của lãnh đạo; (5) Năng lực thích ứng
và (6) Quản trị rủi ro. Trong đó:
(1) Năng lực tài chính: Năng lực tài chính là nguồn lực tài chính của dự án, là khả năng
tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền một cách hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể
hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời đủ để đảm bảo và duy trì
hoạt động của dự án được tiến hành bình thường. Đối với các dự án ODA thì việc
cung cấp tài chính đầy đủ, kịp thời theo từng giai đoạn của dự án giúp cho quá trình
triển khai dự án được thuận lợi, không bị gián đoạn. Mỗi giai đoạn của dự án đều bắt
buộc sử dụng một nguồn vốn nhất định đã được định sẵn từ dự toán. Do vậy, việc
cung cấp tài chính đầy đủ và đúng thời điểm sẽ làm cho chất lượng công trình được
đảm bảo như kế hoạch ban đầu: tiền chi trả cho nhân sự cũng được duy trì ổn định
tránh tình trạng nợ lương dẫn đến trì trệ tiến độ dự án; dòng tiền ổn định sẽ làm cho
19
19
hệ thống từ điều hành tới thi công được triển khai một cách thuận lợi, không gặp khó
khăn về vấn đề liên quan đến chi phí về nguyên vật liệu dự án hay là tiến độ giả
phóng mặt bằng của dự án ODA. Các nghiên cứu trong kinh doanh cho thấy năng lực
tài chính có ảnh hưởng tới kết quả của tổ chức (Baral, 2005; Kouser và cộng sự,
2011). Cũng giống như vậy đối với dự án ODA thì năng lực tài chính của dự án cũng
là một nhân tố đảm bảo tính hiệu quả của dự án.
(2) Khả năng tổ chức: Khả năng tổ chức là khả năng phối hợp, gắn kết các hoạt động để
triển khai và thực hiện và đạt được các mục tiêu đặt ra. Chất lượng tổ chức, phối hợp
được xem là một yếu tố ảnh hưởng tới kết quả thực hiện (Becker & Gerhart, 1996;
Huselid, 1995). Ngoài ra chất lượng kết nối các hoạt động cũng có ảnh hưởng tới kết
quả thực hiện (Walter, Auer & Ritter, 2006). Năng lực tổ chức còn có tác động tới
việc quản trị khủng hoảng (Grewal & Tansuhaj, 2001). Đối với một dự án ODA khả
năng tổ chức từ ban đầu sẽ giúp cho việc thực hiện các mục tiêu và kế hoạch diễn ra
thuận lợi. Trong suốt quá trình vận hành của dự án năng lực tổ chức cũng có ảnh
hưởng tới kết quả thực hiện.Ngoài ra, khả năng tổ chức còn có thể sử dụng các
nguồn lực một cách có hiệu quả nhất, giảm thiểu được những sai sót và lãng phí
trong điều hành cũng như thi công dự án.
(3) Năng lực điều hành: Năng lực điều hành là khả năng chỉ đạo của các lãnh đạo cấp
trên đối với cấp dưới. Việc điều hành tốt của lãnh đạo sẽ truyền cảm hứng cho nhân
viên, nhân viên biết làm như thế nào là tốt nhất và có thể đẩy nhanh tiến độ thực hiện
công việc. Điều hành không những là chỉ đạo mà còn là truyền cảm hứng làm việc
cho các cấp dưới sẽ giúp cho họ có động lực lao động hơn, dẫn tới hiệu quả lao động
cũng từ đó mà tăng lên. Năng lực điều hành cũng là một trong những chỉ tiêu đánh
giá năng lực lãnh đạo. Năng lực điều hành cũng được kiểm chứng cho thấy có ảnh
hưởng tới kết quả thực hiện hay hiệu suất của tổ chức (Krasnikov & Jaynchandran,
2008; Kim, 2006).
(4) Tầm nhìn lãnh đạo: Tầm nhìn lãnh đạo chính là tầm nhìn của bản thân đối với tổ
chức mà họ là người đứng đầu. Nếu để mô tả, có thể nói rằng tầm nhìn là điểm giao
nhau giữa tiềm năng của một tổ chức và năng lực tối đa mà người lãnh đạo có thể đạt
được. Đối với các tổ chức thì tầm nhìn và chiến lược của lãnh đạo có ảnh hưởng tới
khả năng cạnh tranh và kết quả kin doanh của tổ chức (Porter, 2009). Tầm nhìn và
chiến lược của tổ chức được xem như một phần năng lực quản trị của tổ chức (AIM,
2013). Đối với các dự án ODA nếu lãnh đạo có tầm nhìn đúng đắn được mọi người
20
20
trong tổ chức chia sẻ, người lãnh đạo có thể thuyết phục được những người trong tổ
chức đồng lòng theo mình vượt qua những khó khăn, thách thức để thực hiện được
mục tiêu của tổ chức cũng như nâng cao hiệu quả dự án. Lãnh đạo có những chiến
lược rõ ràng sẽ giúp việc triển khai công việc dễ dàng hơn nhờ tính sát thực, chi tiết
cụ thể. Bên cạnh đó, tầm nhìn của lãnh đạo còn có thể tìm ra các rủi ro có thể gặp
phải trong qua trình thực hiện dự án, từ đó có các biện pháp ứng phó trước hoặc khi
rủi ro đó xảy ra; điều này giúp tiến độ dự án không bị ảnh hưởng bởi các lý do khách
quan cũng như chủ quan từ phía dự án.
(5) Khả năng thích nghi: Khả năng thích ứng là khả năng mà tổ chức phối hợp và định
dạng lại các nguồn lực của mình dể đáp ứng những thay đổi của môi trường (Gibson
& Birkinshaw, 2004; Sapienza và các cộng sự, 2006; Zhou & Li, 2010). Đối với
doanh nghiệp khả năng thích nghi là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng tới kết
quả kin doanh (Zhou & Li, 2010). Đối với dự án ODA để đạt hiệu quả cũng cần có
khả năng thích với những biến động từ môi trường bên ngoài. Đó có thể là khả năng
ứng phó khi có tình trạng giải ngân chậm, tiến độ hay chất lượng gặp khó khăn. Khả
năng thích ứng tốt sẽ làm cho bộ máy có thể vẫn hoạt động một cách bình thường khi
gặp những thay đổi từ môi trường bên ngoài.
(6) Khả năng quản trị rủi ro: Khả năng quản trị rủi ro là việc dự đoán và ứng phó với các
rủi ro xảy ra khi thực hiện dự án (Ward & Chaman, 2003; Larson & Gray, 2011;
Schoroeder và cộng sự, 2011). Quản trị rủi ro của dự án có thể thực hiện thông qua việc
dự đoán được khả năng xảy ra bất chắc cho dự án, từ đó có các quyết định thực hiện phù
hợp nhằm tránh hoặc giảm thiểu thiệt hại có thể mang lại cho dự án. Ngoài vấn đề dự
đoán rủi ro trong trường hợp chưa xảy ra sự cố, quản trị rủi ro còn được thể hiện qua các
kế hoạch đối phó với các sự cố đã xảy ra, tổ chức chấp nhận rủi ro này và có các cách
khắc phục tối ưu nhất giúp đảm bảo hiệu quả của dự án đang thực hiện.
1.4 Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến luận án
1.4.1 Các nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu của Vũ Thị Kim Oanh (2002) về đánh giá các giải pháp chủ yếu sử
dụng có hiệu quả vốn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam. Trong luận án này tác
giả tập trung vào phân tích tổng quan về ODA, vai trò của ODA, quá trình phát triển
của nguồn vốn ODA trên thế giới. Phân tích của luận án tập trung vào việc đánh giá
thực trạng sử dụng vốn ODA theo hai giai đoạn từ 1975 – 1990 và sau 1990. Tác giả
đã đánh giá được những tồn tại, hạn chế và những mặt làm được trong công tác sử
dụng vốn ODA tại Việt Nam. Tuy nhiên, giống như những luận án trong giai đoạn
này, nghiên cứu mới dừng lại ở khía cạnh đánh giá nghiệp vụ của các cơ quan quản lý
21
21
mà thiếu tính hàn lâm trong nghiên cứu như việc thiết lập các mô hình nghiên cứu,
kiểm định các giả thuyết nghiên cứu khoa học đặt ra.
Nghiên cứu của Tôn Thanh Tâm (2005) về nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn
ODA tại Việt Nam. Nghiên cứu tập trung vào giới thiệu tổng quan về ODA, một số chỉ
tiêu đánh giá về định tính và định lượng liên quan đến quản lý ODA. Luận án tập trung
vào phân tích thực trạng chế tài thanh tra, kiểm tra, giám sát tại các chương trình, sự
án dựa trên cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về ODA với nhau dẫn
đén các tiêu cực trong quản lý vốn ODAcho các hương trình, dự án. Từ đó, tác giả đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ODA cho các
chương trình dự án. Mặc dù đây được đánh giá là một nghiên cứu tốt. Tuy nhiên, cũng
giống như các luận án trong giai đoạn này nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở việc phân
tích mô tả thực trạng, giải pháp có tính chất nghiệp vụ của cơ quan quản lý mà thiếu
tính hàn lâm do thiếu vắng việc thiết lập các mô hình nghiên cứu và kiểm định các giả
thuyết khoa học đặt ra.
Nghiên cứu của Lương Mạnh Hùng (2008) đánh giá hiệu quả các dự án ODA
tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chia thành hai yếu tố ảnh hưởng là (1)
nhân tố khách quan bao gồm: Tình hình kinh tế, chính trị của quốc gia tài trợ, các
chính sách, quy chế của nhà tài trợ và môi trường cạnh tranh; (2) nhân tố chủ quan
bao gồm: tình hình kin tế, chính trị của quốc gia tiếp nhận viện trợ, quá trình xây
dựng dự án, quy trình và thủ tục của nước tiếp nhận viện trợ, năng lực tài chính của
nước tiếp nhận ODA, năng lực và đạo đức của cán bộ quản lý và sử dụng ODA, sự
cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và tham gia rộng rãi cảu các bên liên quan, theo
dõi và kiểm tra giám sát việc thực hiện dự án.
Nghiên cứu của Lê Thị Mai Anh (2008) đối với thu hút và sử dụng ODA của
Nhật Bản đưa ra khuyến nghị về các nhân tố: (1) Cần tích cực đẩy mạnh tốc độ giải
ngân nguồn vốn ODA. Về phí Việt Nam cần đơn giản hóa văn bản pháp lý và thủ tục
liên quan đến ODA. Về phía nhà tài trợ hài hòa và đơn giản hóa quy trình thủ tục với
chính phủ Việt Nam cũng như cần thiết nhằm đảm bảo tiến trình thực hiện hiệu quả;
(2) Đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án ODA: Cần xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc
phân cấp ODA nhằm tránh tình trạng ách tắc trong quá trình triển khai nhiều dự án
ODA; (3) Xây dựng hệ thống thông tin hữu hiệu về ODA: Các thông tin thu được
phải đảm bảo yêu cầu chính xác, đầy đủ và kịp thời; (4) Tăng cường công tác đào tạo
và điều phối bố trí cán bộ trong quản lý và sử dụng ODA: Cần có các chương trình
huấn luyện rộng rãi để tạo ra những thay đổi về nhận thức, thái độ và nâng cao trình
độ cán bộ ở tất cả các cấp từ trung ương xuống địa phương.
22
22
Nghiên cứu của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2010) đánh giá
việc sử dụng ODA cho thấy có 8 nhân tố cần chú ý để thu hút và sử dụng hiệu quả
ODA là (1) Nâng cao nhận thức và hiểu đúng về bản chất của ODA; (2) Sử dụng
ODA có chọn lọc, phù hợp và kết hợp hài hòa với các nguồn đầu tư khác; (3) Đẩy
mạnh tốc độ giải ngân ODA; (4) Tối đa hóa hiệu quả và tốc độ lan tỏa của ODA; (5)
Mở rộng diện thụ hưởng ODA tới khu vực tư nhân để thực hiện các chương trình và
dự án phục vụ các lợi ích cộng đồng; (6) Xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc phân
cấp ODA; (7) Tăng cường theo dõi và quản lý ODA; (8) Xây dựng kế hoạch giảm
dần theo thời gian trả nợ ngắn hạn và gắn với điều kiện chặt chẽ.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Vũ (2010) cho rằng các yếu tố để nâng cao hiệu
quả sử dụng ODA tại Việt Nam là: (1) Phải có quan niệm đúng đắn về nguồn vốn
ODA; (2) Luôn tính tới yếu tố trượt giá của đồng VNĐ để thỏa thuận lãi suất cho
phù hợp; (3) Cần khắc phục tính ỷ lại, trông chờ vào nguồn ngân sách nhà nước; (4)
Thu hút đầu tư ODA một cách hợp lý, tránh đầu tư giàn trải, manh mún nhưng cũng
không nên tập trung quá nhiều vào một số địa phương và một số ngành dẫn tới mất
cân đối trong quá trình phát triển bền vững quốc gia; (5) Cần phối hợp đồng bộ giữa
các Bộ, ngành, địa phương và chủ đầu tư để nâng cao tỷ lệ giản ngân trên cơ sở đẩy
mạnh nhanh tiến độ thực hiện dự án, rút ngắn thời gian xây dựng nhanh chóng đưa
công trình vào khai thác, sử dụng là một việc làm hết sức quan trọng để tận dụng thời
gian ân hạn và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA.
Nghiên cứu của Lê Bá Khởi (2012) đối với nguồn vốn ODA của Australia tại
Việt Nam cho thấy việc sử dụng hiệu quả ODA phụ thuộc vào (1) khả năng kiểm
soát các dự án; (2) công tác quản lý xét thầu; (3) quản lý hành chính và (4) áp dụng
tiêu chuẩn đánh giá môi trường chung.
Nghiên cứu của Hà Thị Thu (2014) về thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát
triển hính thức (ODA) vào nông nghiệp, nông thôn tại khu vực duyên hải miền Trung.
Nghiên cứu này tập trung vào phân tích hệ thống cơ sở lý luận của nguồn vốn ODA
đối với nông nghiệp,phân tích thực trạng thu hút và sử dụng ODA tại khu vực duyên
hải miền Trung đưa ra một số hạn chế trong việc thu hút và sử dụng ODA như: như
thiếu định hướng tổng thể thu hút vốn ODA cho nông nghiệp, nông thôn, tình trạng về
ban quản lý ODA không chuyên và tính kiêm nhiệm trong quản lý, bố trí vốn đối ứng
không kịp thời, khung thể chế chưa hài hòa giữa Chính phủ Việt Nam và nhà tài trợ,
vv. Từ đó đưa ra một số đề xuất về phương án phê duyệt đề án thu hút và sử dụng
ODA cho nông nghiệp và nông thôn đến năm 2020, áp dụng mô hình quan quản lý
23
23
chuyên nghiệp, hoàn thiện văn bản pháp lý liên quan đến ODA và nhận thức đúng bản
chất cho vay của ODA. Nhìn chung, nghiên cứu này tiếp cận ở khía cạnh ngành, vĩ mô
mà không phải cho từng dự án. Mặt khác nghiên cứu vẫn tập trung vào những phân
tích có tính chất nghiệp vụ quản lý hơn là thiết lập và kiểm định các giả thuyết khoa
học thông qua dữ liệu nghiên cứu.
1.4.2 Các nghiên cứu nước ngoài
Đối với các nghiên cứu tại các nước đang phát triển khác các tác giả cũng đưa
ra rất nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng tới việc sử dụng hiệu quả nguồn ODA.
Nghiên của của Hansen & Tarp (2001) về ảnh hưởng của ODA tới tăng trưởng
kinh tế của các nước đang phát triển cho thấy mối quan hệ tích cực giữa viện trợ và
tăng trưởng GDP bình quân. Tuy nhiên nghiên cứu chủ yếu sử dụng chuỗi dữ liệu
thời gian đánh giá tác động ở khía cạnh vĩ mô của nền kinh tế, những tác động này là
tác động tổng hợp mà không xét đến khía cạnh hiệu quả cho từng dự án.
Nghiên cứu của Karras (2006) đánh giá ảnh hưởng dài hạn của ODA với dữ
liệu từ giai đoạn 1960 – 1997 của 71 nền kinh tế trên thế giới cho thấy viện trợ ODA
có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn và thực sự có ý nghĩa
thống kê. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của ODA tới tăng trưởng có sự khác biệt
giữa các nền kinh tế. Đây là một nghiên cứu tốt về đánh giá ảnh hưởng của ODA tới
phát triển kinh tế, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của ODA với các nước kém
phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, cách tiếp cận của nghiên cứu ở khía cạnh vĩ
mô nên không giúp ích cho việc đánh giá hiệu quả của ODA ở khía cạnh từng dự án.
Nghiên cứu của Chanboreth & Hach (2008) tại Campuchia cho thấy việc nâng
cao hiệu quả sử dụng ODA phụ thuộc vào việc: (1) Cung cấp các dự án rõ ràng, ưu
tiên các dự án chiến lược quốc gia và đảm bảo quy trình ngân sách ODA; (2) Củng
cố và cải cách triệt để quản lý hành chính công nhằm đem lại hiệu quả sử dụng
nguồn vốn ODA một cách triệt để; (3) Ưu tiên đầu tư dự án một cách riêng lẻ không
tập trung tránh chồng chéo gây đến ách tắc triển khai dự án; (4) Thực hiện kế hoạch
thống kê lại các nguồn viện trợ chính phủ nhằm quản lý tốt việc giải ngân cũng như
thực hiện dự án; (5) Đảm bảo việc trao đổi giữa hai bên viện trợ và nhận viện trợ
nhằm nâng cao chất lượng dự án.
Nghiên cứu của Sankar & Schneider (2013) đã có những đánh giá về phương
phướng sử dụng hiệu quả ODA của Nhật Bản tại Lào: Chính phủ Nhật Bản đặc biệt
24
24
quan tâm tới sự phát triển xã hội, dân sinh, giới tính của Lào nên mọi việc làm trong
quá trình triển khai dự án ODA của Nhật luôn luôn chú trọng tới các khía cạnh sau:
(1) Xem xét ngay từ ngay giai đoạn đầu của dự án có ảnh hưởng xấu tới môi trường
hoặc xã hội. Cần có xác nhận không có các tác động xấu hoặc chắc chắn rằng áp
dụng các biện pháp nhằm giảm thiếu vấn đề liên quan tới môi trường, xã hội; (2)
Đảm bảo hệ thống chính trị trong đó các chính sách phản ánh tiếng nói của người
dân; (3) Luôn luôn thực hiện các dự án theo pháp luật; (4) Công bố đầy đủ các thông
tin của chính phủ; (5) Phòng ngừa tăng cường kiểm soát công tác chống tham nhũng.
1.5 Khoảng trống nghiên cứu
Nhìn chung, các nghiên cứu liên quan đến tại Việt Nam về đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn ODA tập trung đánh giá thực trạng và kiến nghị các giải pháp nhằm thu hút
và sử dụng ODA có hiệu quả. Một số nghiên cứu khác đi vào đánh giá cho từng nhóm
dự án nhưng vẫn tập trung ở khía cạnh vĩ mô mà không phải các khía cạnh khi triển
khai dự án. Các nghiên cứu tại nước ngoài cũng chủ yếu đánh giá ở khía cạnh vĩ mô và
tác động vĩ mô của vốn ODA tới tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Do
đó, có thể thấy các nghiên cứu trước đây còn để lại một số khoảng trống nghiên cứu
cần giải quyết như:
Thứ nhất, các nghiên cứu cả tại Việt Nam và trên thế giới tập trung nhiều vào tác
động của ODA tới nền kinh tế ở khía cạnh vĩ mô và thường không xem xét cho từng
dự án cụ thể và khái quát hóa những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả trong quá trình
triển khai dự án.
Thứ hai, các nghiên cứu tại Việt Nam tập trung vào hoạt động đánh giá nghiệp
vụ quản lý của các dự án thường thiếu tính mới và tính hàn lâm của một nghiên cứu
khoa học. Những đánh giá về thực trạng, giải pháp chỉ được xem như những báo cáo
nghiệp vụ của nhà quản lý có ít tính học thuật.
Thứ ba, một số nghiên cứu đưa ra được các chỉ tiêu cho đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn ODA, tuy nhiên chưa có nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của nó tới hiệu quả
sử dụng vốn ODA ở khía cạnh điều hành dự án như thế nào.
Thứ tư, theo khảo sát của tác giả hiện nay chưa có một nghiên cứu nào xây dựng
được một cách hệ thống mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của các nhân tố tới
hiệu quả sử dụng vốn ODA ở khía cạnh điều hành, đặc biệt là đối với những dự án
25
25
đường sắt đô thị.
Đây là những khoảng trống nghiên cứu cần được bổ sung và nghiên cứu này có
nhiệm vụ thiết lập, phát triển và kiểm chứng mô hình đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
ODA ở khía cạnh điều hành thông qua nghiên cứu trường hợp các dự án đường sắt đô
thị tại Việt Nam (Hà Nội).
Tóm tắt chương 1
Chương này tác giả tập trung vào việc hệ thống hóa cơ sở lý luận về ODA, vai
trò, bản chất của ODA, những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA ở cả khía
cạnh vĩ mô và khía cạnh của từng dự án. Tác giả đưa ra một định nghĩa về hiệu quả sử
dụng ODA ở khía cạnh triển khai là việc đạt được các mục tiêu chiến lược của từng bộ
phận tham gia dự án. Đồng thời thông qua phân tích hệ thống các nghiên cứu trước
đây tác giả cũng chỉ ra những khoảng trống nghiên cứu chính mà nghiên cứu này
hướng tới giải quyết. Cụ thể là việc cần thiết phát triển, thiết lập và kiểm chứng một
mô hình đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA ở khía cạnh triển
khai dự án.
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết
2.1.1 Mô hình nghiên cứu
Với quan niệm hiệu quả dự án là việc đạt được các mục tiêu chiến lược đặt ra.
Hiệu quả dự án là hiệu quả của từng bộ phận tham gia vào dự án. Khái niệm này xuất
phá từ các nghiên cứu trong kinh doanh cho rằng hiệu quả là việc đạt được các mục
tiêu hay là không (Buzzell & Gale, 1987, Cyer & March, 1992; Hult và cộng sự, 2004;