Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào môn giáo dục công dân cho học sinh lớp 10 trường trung học phổ thông thạch thất, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.24 KB, 77 trang )

LỜI CẢM ƠN
Qua bốn năm học tập và rèn luyện tại trường Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, được sự chỉ bảo và giảng dạy nhiệt tình của quý thầy cô, đặc biệt là quý thầy
cô khoa Lý luận Chính Trị - Giáo dục công dân đã truyền đạt cho em những kiến
thức về lý thuyết và thực hành trong suốt thời gian học ở trường. Trong thời gian
làm khoá luận tốt nghiệp em đã có cơ hội áp dụng những kiến thức học ở trường
vào thực tế ở mỗi tiết dạy trên lớp. Đồng thời học hỏi được nhiều kinh nghiệm thực
tế tại trường thực tập. Cùng với sự nổ lực của bản thân, em đã hoàn thành khoá
luận tốt nghiệp của mình.
Từ những kết quả đạt được này, em xin chân thành cám ơn:
Quý thầy cô trường Trường Đại học Sư phạm, đã truyền đạt cho em những
kiến thức bổ ích trong thời gian qua. Đặc biệt, là TS. Trần Thị Thu Huyền đã tận
tình hướng dẫn em hoàn thành tốt báo cáo tốt nghiệp này.
Trường Trung học phổ thông Thạch Thất đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
em trong thời gian thực tập và làm khoá luận
Do kiến thức còn hạn hẹp nên không tránh khỏi những thiếu sót trong cách
hiểu, lỗi trình bày. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và
Ban lãnh đạo, các bạn học sinh, sinh viên để khoá luận tốt nghiệp đạt được kết quả
tốt hơn.
Hà Nội, tháng 4 năm 2016
Sinh viên
Trần Thị Thu Huyền
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
(1)
(2)

GDCD
THPT

: Giáo dục công dân
: Trung học phổ thông


1


(3)
(4)
(5)
(6)

GV
HS
HĐTNST
KNS

: Giáo viên
: Học sinh
: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo
: Kỹ năng sống

2


3


Tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào môn giáo dục công dân cho học sinh lớp
10 trường Trung học phổ thông Thạch Thất, Hà Nội
Giáo viên hướng dẫn:Ts. Trần Thị Thu Huyền
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Thu Huyền

4



MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trong quá trình hội nhập và phát triển chung của xã hội đã tạo ra điều kiện
phát triển của cá nhân, mặt khác cũng đặt ra những thách thức và nhiệm vụ đòi hỏi
mỗi cá nhân phải trang bị cho mình không chỉ hành trang tri thức mà còn là những
kỹ năng hành động để chung sống và phát triển. Cuộc sống hiện đại đòi hỏi mỗi cá
nhân phải không ngừng cập nhật giá trị và hoàn thiện giá trị của mình. Trong đó,
kỹ năng sống đóng vai trò vô cùng quan trọng. Kỹ năng sống giúp cho con người
phát triển toàn diện, hoà đồng với các cá nhân khác trong xã hội. Đồng thời giúp
con người ứng phó linh hoạt với mọi hoàn cảnh sống khác nhau.
Việc đưa kĩ năng sống vào giáo dục bắt buộc tại các trường trung học phổ
thông hiện nay ở Việt Nam chưa được chú trọng. Các nhà giáo dục, thậm chí là
phụ huynh học sinh thường cũng ít quan tâm đến giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh, họ chỉ tập trung vào các môn được gọi là môn chính (như văn, sử, địa, toán,
lý, hóa, ngoại ngữ) – các môn phục vụ cho thi tốt nghiệp và thi đại học. Bên cạnh
đó, các môn như giáo dục công dân, thể chất, ki thuật công nghiệp, kĩ năng sống…
chưa được quan tâm thậm chí bị coi thường. Với cách hiểu sai lầm và lệch lạc như
trên, một số người đang có xu hướng biến quá trình học tập của con em mình thành
quá trình học tập theo trào lưu, theo xu hướng mà không phải học với mục đích:
học để sống, học để làm, học để vận dụng và học để thành người.
Trên thực tế, trong những năm gần đây, có rất nhiều trường hợp học sinh bị
khủng hoảng tâm lý trầm trọng, nguyên nhân là do: Nhiều gia đình chỉ quan tâm
đến việc kiếm tiền, đáp ứng nhu cầu vật chất cho con em mà lãng quên việc dạy
bảo con em những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống như: Kỹ năng ứng xử, giao


5


tiếp; Kỹ năng tự bảo vệ...Dẫn đến nguy cơ một bộ phận lớn thế hệ trẻ ngày nay
phát triển chưa toàn diện.
Ý thức được điểu này, các trường trung học phổ thông hiện nay đã bắt đầu
quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống nhưng còn gặp nhiều khó khăn và cũng
chưa được dạy một cách triệt để, ví dụ việc giáo dục kĩ năng sống sống ở trường
phổ thông thường được coi như một hoạt động ngoại khóa, có khi 1 năm 2 lần, có
khi 2 tháng 1 lần… mỗi lần tổ chức thì những người tổ chức thấy tốn kém, mất
nhiều côn g sức, bên cạnh đó còn lo lắng cho sự an toàn của các em khi hoạt động
ngoài trường, khó kiểm soát…Trong khi đó môn giáo dục công dân hoạt động
chính ở trên lớp lại tỏ ra chậm thay đổi, vẫn sử dụng nhiều giáo trình cũ và các
phương pháp dạy truyền thống, vì vậy, cũng không lôi cuốn và hấp dẫn được người
học. Giáo dục kĩ năng sống thì có quá nhiều hoạt động nhưng gặp nhiều khó khăn
còn môn giáo dục công dân thì có ít hoạt động , quá trình dạy học diễn ra tương đối
buồn tẻ nhưng lại có một không gian hoạt động tốt là lớp học, có thời gian hoạt
động liên tục theo từng tuần. Do đó, việc tìm ra phương pháp và kết nối được hai
môn học này với nhau chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc đào tạo ra
những thế hệ tương lai đáp ứng được với những yêu cầu của thời đại.
Với mong muốn nâng cao hiệu quả dạy học học cả hai môn giáo dục kĩ năng
sống và giáo dục công dân, tác giả khóa luận đã lựa chọn đề tài “Tích hợp giáo
dục kĩ năng sống vào môn giáo dục công dân cho học sinh lớp 10 trường trung
học phổ thông Thạch Thất, Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
2.1.
Mục đích nghiên cứu

cứu


Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào môn
giáo dục công dân. Điều tra nhu cầu dạy học thực tế đối với môn giáo dục kỹ năng
sống và giáo dục công dân cho học sinh lớp 10 trường THPT Thạch Thất, Hà Nội,
6


đưa ra quy trình và phương pháp dạy học tích hợp, tiến hành thực nghiệm và đưa
ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả dạy học tích hợp giáo dục kỹ năng sống
và giáo dục công dân.
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào môn
giáo dục công dân cho học sinh lớp 10 trường THPT.
- Khảo sát thực trạng dạy học môn giáo dục kĩ năng sống và thực trạng dạy học
môn giáo dục công dân.Từ đó đưa ra quy trình và phương pháp dạy học tích cực,
tiến hành thực nghiệm và đưa ra một số kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả
dạy học tích hợp.
3.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3.1.Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc dạy học tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giáo dục công dân
cho học sinh lớp 10
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khối lớp 10 trường Trung học phổ thông Thạch Thất, Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu tài liệu văn bản

Với đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp phân tích, tổng hợp, khái
quát hoá tài liệu nhằm xác định các khái niệm công cụ và cơ sở lý luận cho vấn đề
nghiên cứu
4.2. Nhóm nhương pháp nghiên cứu thực tiễn

7


- Phương pháp điều tra viết bằng bảng hỏi
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (phương pháp ăng két) là một phương
pháp phỏng vấn viết, được thực hiện cùng một lúc với nhiều người theo một bảng
hỏi in sẵn. Người được hỏi trả lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô
tương ứng theo một quy ước nào đó.
-

Phương pháp quan sát

Là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học thực nghiệm
thông qua các tri giác như nghe nhìn,.. để thu nhận các thông tin từ thực tế xã hội
nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài
-

Phương pháp phỏng vấn

Đây là phương pháp thu thập thông tin dựa trên cơ sở quá trình giao tiếp
bằng lời nói có tính đến mục đích đặt ra. Trong cuộc phỏng vấn, người phỏng vấn
nêu những câu hỏi theo một chương trình được đinh sẵn dựa trên cơ sở luật số lớn
của toán học
-


Phương pháp thực nghiệm

Là một phương pháp thu thập thông tin được thực hiện bởi những quan sát
trong điều kiện gây biến đổi đối tượng khảo sát và môi trường xung quanh đối
tượng khảo sát một cách có chủ định. Phương pháp thực nghiệm được áp dụng phổ
biến không chỉ trong nghiên cứu tự nhiên, kỹ thuật, y học mà cả trong xã hội và
các lĩnh vực nghiên cứu khác
4.

Cấu trúc khoá luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, phần nội dung luận văn được kết cấu gồm 2 phần lớn:

8


Chương 1: Một số lý luận cơ bản về việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào
môn giáo dục công dân cho học sinh lớp 10 trườngtrung học phổ thông Thạch
Thất, Hà Nội.
Chương 2: Khảo sát thực trạng dạy học tích hợp và tiến hành thực nghiệm dạy
học tích hợp kĩ năng sống vào môn giáo dục công dân cho học sinh lớp 10 trường
trung học phổ thông Thạch Thất, Hà Nội.

9


NỘI DUNG
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào
môn giáo dục công dân cho học sinh lớp 10 trường

trung học phổ thông Thạch Thất, Hà Nội
1.1. Kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống
1.1.1. Khái niệm kĩ năng sống
Kỹ năng sống (life skills) là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi
lứa tuổi trong mọi hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, các tổ chức Liên Hợp Quốc (LHQ), Tổ chức y
tế thế giới (WHO), Quỹ cứu trợ nhi đồng (UNICEF), Tổ chức văn hoá, khoa học
và giáo dục của LHQ (UNESCO) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ
năng sống cho thanh thiếu niên. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm này vẫn nằm
trong tình trạng chưa có một định nghĩa rõ ràng, đầy đủ.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống, mỗi quan niệm
có cái đặc sắc và hợp lý riêng trong từng trường hợp cụ thể:
Theo quan niệm của tổ chức văn hóa, khoa học giáo dục của Liên Hiệp Quốc
(UNESCO): KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham
gia vào cuộc sống hàng ngày. (Tổ chức y tế thế giới WHO 2003) [24;5]
Theo quan niệm của tổ chức y tế thế giới (WHO): KNS là những kỹ năng
mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong các tình
huống hằng ngày để tương tác có hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu
quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày (theo Hội khuyến
học tỉnh Hoà Bình. 10/01/2013)

10


Theo quỹ nhi dồng Liên Hợp Quốc (UNICEF): KNS là cách tiếp cận giúp
thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về
tiếp thu tri thức, hình thành thái độ và kỹ năng[Luận án Tiến sĩ giáo dục “Giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông thông qua giờ giáo dục ngoài giờ
lên lớp, tác giả Phan Thanh Vân]
Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống và tự

hoàn thiện mình, UNCIEF phân loại kỹ năng sống theo các mối quan hệ cá nhân
với các nhóm KNS:
+ Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác, với các kỹ năng thành
phần: kỹ năng quan hệ tương tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp
lực tiêu cực của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng, giao tiếp có hiệu quả
+ Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả, gồm các kỹ năng: tư duy
phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề[Những kỹ năng sinh
viên cần biết – Báo Tuổi trẻ].
Những cách phân loại trên đã đưa ra bảng danh mục các KNS có giá trị trong
nghiên cứu phát triển lý luận về KNS và chỉ có tính chất tương đối. Trên thực tế,
các KNS có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi khi tham gia vào một tình huống
cụ thể, con người cần phải sử dụng nhiều kỹ năng khác nhau. Ví dụ khi cần quyết
định một vấn đề nào đó, cá nhân phải sử dụng những kỹ năng như: kỹ năng tự nhận
thức, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo và kỹ năng kiên định,….
Từ các khái niệm nêu trên, ta có thể rút ra nhận xét: Có nhiều cách biểu đạt
khái niệm kỹ năng sống với quan niệm rộng hẹp khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận
vấn đề. Khái niệm kỹ năng sống được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những
năng lực tâm lý xã hội (TLXH). Theo nghĩa rộng, KNS không chỉ bao gồm năng
lực TLXH mà còn bao gồm cả kỹ năng vận động.
11


Mặc dù cách biểu đạt khái niệm KNS có khác nhau nhưng điểm thống nhất
trong các quan niệm về KNS là: Khẳng định KNS thuộc về phạm trù năng lực, chứ
không thuộc về phạm trù kỹ thuật của hành động, hành vi.
Do tính chất phức tạp của KNS nên trong thực tế, các tài liệu về kỹ năng sống
đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động từ học tập để chuẩn bị vào nghề, cách học ngoại
ngữ, kỹ năng làm cha mẹ đến tổ chức trại hè. Tuy nhiên cần phân biệt giữa những
kỹ năng để sống còn (livelihood skills, survival skills) như học chữ, học nghề, làm
toán, bơi lội… với khái niệm kỹ năng sống đã được đề cập ở các định nghĩa nêu

trên.
Tóm lại, khái niệm KNS được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở từng khu vực
và từng quốc gia. Theo đó, vấn đề phát triển KNS cho thanh thiếu niên ở các nước
cũng khác nhau. Tuy nhiên xu hướng chung là sử dụng khái niệm KNS của
UNESCO (sử dụng khái niệm KNS theo nghĩa rộng) để triển khai các hoạt động
phát triển KNS cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là thanh thiếu niên. Khái
niệm KNS theo nghĩa rộng còn đề cập đến khả năng con người quản lý được các
tình huống rủi ro. Đây chính là khả năng con người quản lý một cách hợp lý bản
thân, người khác và xã hội trong cuộc sống thường ngày.
Với phân tích nêu trên, tôi rút ra khái niệm KNS với nội hàm: “Khả năng làm
cho hành vi của mình thay đổi phù hợp với cách ứng xử, giúp con người vượt qua
thách thức của cuộc sống”.
Từ khái niệm trên, tác giả khóa luận sẽ chỉ tập trung vào nghiên cứu một số kĩ
năng cơ bản sau: Kỹ năng xác định giá trị bản thân, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
đương đầu với cảm xúc, căng thẳng và kỹ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích
cực.Sở dĩ tác giả lựa chọn các kĩ năng cơ bản này trong khái niệm kĩ năng sống vì

12


tác giả cho rằng các kĩ năng này rất cần để giáo dục học sinh THPT, chuẩn bị nền
tảng vững chắc để các em tự tin bước vào đời.
1.1.2. Giáo dục kĩ năng sống
Giáo dục KNS là một quá trình với những hoạt động giáo dục cụ thể nhằm tổ
chức, điều khiển để học sinh biết cách chuyển dịch kiến thức và thái độ, giá trị
thành hành động thực tế một cách tích cực và mang tính xây dựng. Giáo dục KNS
cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là
xây dựng hoặc thay đổi ở các em theo hành vi tích cực phù hợp với mục tiêu phát
triển toàn diện nhân cách người học dựa trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị,
thái độ và kỹ năng phù hợp.

Giáo dục KNS được áp dụng theo nhiều cách khác nhau và nhiều lĩnh vực
khác nhau, tuỳ từng địa phương. Ở một số nơi, KNS được hướng vào giáo dục vệ
sinh, dinh dưỡng và phòng bệnh. Một số nơi khác, giáo dục KNS nhằm vào giáo
dục hành vi ứng xử, giáo dục an toàn trên đường phố, giáo dục bảo vệ môi trường,
giáo dục phòng chống HIV/AIDS hay giáo dục lòng yêu hoà bình…
Giáo dục KNS là cách giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là
xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực
trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng thích hợp.
Giáo dục KNS có mục đích là thay đổi hành vi của người học từ thói quen thụ
động, có thể gây rủi ro, mang lại hậu quả tiêu cực chuyển thành những hành vi
mang tính xây dựng, tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống cá
nhân và góp nhần phát triển bền vững cho xã hội.
1.1.3. Vai trò của giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường THPT

13


Một là, giáo dục kĩ năng sống giúp học sinh hình thành được các kĩ năng cần
thiết để tham gia tích cực vào các hoạt động học tập và cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày của các em.
Đây là yếu tố cơ bản giúp học sinh trung học phổ thông có thể tham gia các
hoạt động phong phú, đa dạng, phức tạp của chương trình giáo dục trung học phổ
thông và thích ứng tốt với các hoạt động sinh hoạt đời thường. Bởi vì ở lứa tuổi
này, học sinh trung học phổ thông là giai đoạn đã trưởng thành về mặt thể lực,
nhưng sự phát triển cơ thể còn chưa vững chắc, các em bắt đầu thời kỳ phát triển
tương đối êm ả về mặt sinh lý. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi
quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát
triển, cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc tế
bào não của người lớn, số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần
khác nhau của vỏ đại não, điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hoá hoạt

động phân tích, tổng hợp của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học tập và rèn
luyện,… Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho các em học sinh trung học phổ thông
càng sớm càng tốt.
Hai là, với các hoạt động và các kĩ năng được hình thành qua giáo dục kĩ
năng sống giúp các em học sinh THPT có hứng thú học tập và có ý thức chủ động
hơn với quá trình học tập của mình.
Ở học sinh trung học phổ thông tính chủ định trong nhận thức được phát triển,
tri giác có mục đích đã đạt đến mức cao, quan sát trở nên có mục đích, hệ thống và
toàn diện hơn, tuy nhiên nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo viên thì quan sát của các em
cũng khó đạt được hiệu quả cao. Vì vậy, giáo viên cần quan tâm hướng quan sát
của các em vào những nhiệm vụ nhất định, không vội kết luận khi chưa tích luỹ đủ
các sự kiện. Có thể nói nhận thức của học sinh trung học phổ thông chuyển dần từ
nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính, nhờ tư duy trừu tượng dựa trên kiến
14


thức khoa học và vốn sống thực tế của các em đã tăng dần. Hứng thú học tập của
các em gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp, ý thức học tập đã thúc đẩy sự phát
triển tính chủ định trong các quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân,
điều này giúp các em có thể tham gia hoạt động giáo dục với vai trò chủ thể của
hoạt độngđó.
Ba là, giáo dục kĩ năng sống giúp các em học sinh THPT hình thành nhân
sinh quan và thế giới quan tốt, tích cực về xã hội, tự nhiên, các nguyên tắc và quy
tắc ứng xử trong cuộc sống.
Ở lứa tuổi này, các em mong muốn khám phá cuộc sống xung quanh càng
nhiều càng tốt, chúng bắt đầu có những trải nghiệm phong phú trong cuộc sống, có
cả những trải nghiệm tích cực và có cả những trải nghiệm tiêu cực. Vì thế, các em
học sinh ở giai đoạn này cần có những kĩ năng sống cần thiết để vượt qua những
khó khăn trong cuộc sống, để phân biệt được đúng sai và có đủ bản lĩnh để vượt
qua những cám dỗ, những sai lầm, thất bại đầu đời. Bên cạnh đó, các em cũng cần

có những kĩ năng cần thiết để xây dựng và mở rộng các mối quan hệ với những
người xung quanh (gia đình, bạn bè, xã hội…).
1.2. Lý luận về việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào môn giáo dục công
dân cho học sinh THPT
1.2.1. Dạy học tích hợp – xu hướng tất yếu của thời đại
Tích hợp là một khái niệm rộng, không chỉ dùng trong lĩnh vực lí luận dạy
học. Tích hợp (Tiếng Anh, tiếng Đức: Integration) có nguồn gốc từ tiếng La tinh:
Integration với nghĩa là xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở
những bộ phận riêng lẻ.

15


Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực
khoa học giáo dục (GD), khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì khai sáng, dùng để
chỉ một quan niệm GD toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho con
người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Tích hợp còn có nghĩa là thành lập một loại
hình nhà trường mới, bao gồm các thuộc tính trội của các loại hình nhà trường vốn
có.
Trong dạy học (DH) các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các
nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (Theo cách hiểu truyền thống
từ trước tới nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết
vào những nội dung vốn có của môn học, ví dụ: lồng ghép nội dung GD dân số,
GD môi trường, GD an toàn giao thông trong các môn học Đạo đức, Tiếng Việt
hay Tự nhiên và xã hội… xây dựng môn học tích hợp từ các môn học truyền thống.
Tích hợp là một trong những quan điểm GD đã trở thành xu thế trong việc xác
định nội dung DH trong nhà trường phổ thông và trong xây dựng chương trình
môn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở
những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình dạy học.
Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích hợp

trong GD và DH sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết những vấn đề phức
tạp và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với HS so với việc các môn
học, các mặt GD được thực hiện riêng rẽ. Tích hợp là một trong những quan điểm
GD nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ
phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Nhiều
nước trong khu vực Châu Á và trên thế giới đã thực hiện quan điểm tích hợp trong
DH và cho rằng quan điểm này đã đem lại hiệu quả nhất định.

16


Từ những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể hiểu, dạy học tích hợp là:
Thứ nhất, lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của
một môn học. Thí dụ: lồng ghép nội dung giáo dục dân số, giáo dục môi trường,
bảo vệ sức khỏe, giáo dục tiết kiệm... vào nội dung các môn học: giáo dục công
dân; địa lý, sinh học, vật lý, hóa học, toán, ngoại ngữ.
Thứ hai, xây dựng môn học tích hợp từ các môn học truyền thống.
Thứ ba, giáo viên có thể tích hợp các nội dung ở các môn học khác nhau,
hoặc các kiến thức khác liên quan đến bài giảng để chuyển tải đến học sinh những
chủ đề giáo dục lồng ghép thông qua các hình thức truyền đạt bằng trình chiếu,
giảng dạy, thảo luận, dạy học theo dự án.
1.2.2. Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào môn giáo dục công dân cho học sinh
lớp 10 ở trường THPT
Trước yêu cầu cấp bách về việc tích hợp đưa KNS và chương trình giáo dục
học đường, trong đó có giáo dục phổ thông nói chung, THPT nói riêng, thời gian
qua Bộ giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học về việc xây dựng
chương trình giáo dục KNS cho học sinh các cấp học. Một trong những vấn đề
được quan tâm ở các hội thảo này là phương thức thực hiện giáo dục KNS cho học
sinh như thế nào cho hiệu quả. Tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm của một số nước
cho thấy có 3 phương án thực hiện KNS cho học sinh là:

+ Xây dựng môn học về giáo dục KNS đưa vào chương trình học tập cho
học sinh.
+ Lồng ghép vào các nội dung giáo dục KNS vào các môn học có ưu thế và
các hoạt động giáo dục khác.
17


+ Tích hợp giáo dục KNS vào các môn học và các hoạt động giáo dục trong
đó có hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Tôi cho rằng, cần xác định giáo dục tích hợp KNS là mục đích của giáo dục,
theo đó tất cả các môn học, các hoạt động giáo dục trong nhà trường phải hướng
đến giáo dục KNS cho học sinh. Có như vậy, giáo dục tích hợp KNS cho học sinh
mới được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục cả về thời gian và không gian.
Nhờ đó mà các mục tiêu về giáo dục KNS cho học sinh mới đạt được ở mức độ
cao. Đây cũng là lý do tôi chọn phương thức tích hợp là phương thức giáo dục
KNS cho học sinh trong trường THPT.Như vậy, theo phạm vi giới hạn của khoá
luận, vấn đề giáo dục tích hợp KNS cho học sinh THPT thông qua hoạt động dạy
học tích hợp vào môn GDCD chính là thực hiện việc giáo dục KNS theo phương
thức tích hợp.
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào môn GDCD cho học sinh THPT là việc
giáo viên tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú nhằm kích thích học sinh tham
gia một cách tích cực, chủ động vào các quá trình hoạt động và học tập môn
GDCD ở trên lớp, thông qua đó, giúp học sinh hình thành được những kĩ năng
sống cần thiết và những tri thức cơ bản của môn GDCD để các em hoàn thiện và
phát triển nhân cách toàn diện.
Giáo dục KNS thông qua hoạt động giáo dục dạy học tích hợp vào môn
GDCD là quá trình thiết kế, vận hành đồng bộ các thành tố của hoạt động dạy học
môn GDCD và giáo dục kỹ năng sống trong một chỉnh thể để thực hiện mục tiêu
của giáo dục KNS. Về bản chất, giáo dục KNS thông qua hoạt động dạy học
GDCD là thực hiện tích hợp hoạt động giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào môn

GDCD.

18


Để thực hiện tích hợp giáo dục KNS với hoạt động dạy học môn GDCD theo
phương pháp tích hợp nêu trên, cần thiết phải thực hiện các nội dung sau:
+ Tích hợp được các mục tiêu của giáo dục KNS cho học sinh THPT trong
hoạt động học môn GDCD.
+ Xác định cụ thể các nội dung giáo dục KNS để tích hợp vào nội dung của
hoạt động dạy học GDCD.
+ Lựa chọn các phương pháp để thực hiện các nội dung của hoạt động dạy
học GDCD phù hợp với phương pháp, giúp học sinh hình thành và phát triển KNS
đã xác định.
+ Thiết kế các công cụ kiểm tra đánh giá được kết quả của hoạt động dạy
học GDCD và kết quả của giáo dục tích hợp kỹ năng sống.
Tóm lại, giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy học môn GDCD là
thực hiện tích hợp các thành tố cơ bản của giáo dục KNS với các thành tố cơ bản
của hoạt động dạy GDCD và vận hành chỉnh thể một cách tối ưu.
1.2.3. Nguyên tắc dạy học tích hợp giữa giáo dục kĩ năng sống và GDCD
- Nguyên tắc tiếp cận hoạt động và nhân cách trong giáo dục tích hợp KNS
cho học sinh thông qua dạy học môn GDCD.
Nhân cách con người chỉ được hình thành thông qua hoạt động và bằng hoạt
động. Vì vậy, KNS của học sinh chỉ có thể được hình thành thông qua học tập và
giảng dạy cũng như các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường. Vì vậy trong
quá trình tổ chức hoạt động dạy học GDCD, giáo viên phải là người tạo ra động
lực cho người học, làm cho người học tham gia tích cực vào quá trình hình thành
kỹ năng sống nói chúng và kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quyết định, kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng thương lượng, kỹ năng tự nhận thức bản thân, kỹ năng ứng phó
19



với cảm xúc, v.v… Phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động phải thực sự là
phương pháp tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức, rèn luyện KNS cho học
sinh làm cho hoạt động dạy học GDCD nói chung và hoạt động giáo dục tích hợp
KNS cho học sinh nói riêng trở thành hoạt động cùng nhau của cả giáo viên và học
sinh trong nhà trường THPT.
-Giáo dục tích hợp KNS cho học sinh THPT thông qua hoạt động dạy học
môn GDCD phải đảm bảo xuất phát từ quyền và bổn phận học sinh.
Mọi phương pháp biện pháp và hình thức giáo dục KNS cho học sinh THPT
đều hướng tới thay đổi hành vi cho các em và phù hợp với khả năng tiếp nhận của
các em, phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh. Vì vậy phương pháp và
hình thức tổ chức phải đa dạng và phong phú đều hướng tới người học:
+ Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học, giáo viên cần phải phát huy
tích cực, tính tự chủ của học sinh trong việc sử dụng quyền và bổn phận của trẻ em
để giải quyết các nhiệm vụ của hoạt động, đồng thời giáo dục cho học sinh kỹ năng
giải quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên định, kỹ năng ứng phó với
xúc cảm, kỹ năng giao tiếp, v.v….
+ Gắn nội dung dạy học GDCD với thực tế cuộc sống để học sinh kiểm
nghiệm quyền và bổn phận của mình, từ đó giúp các em có nhận thức đúng, có thái
độ hành vi phù hợp để thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em, kỹ năng ra quyết
định trong cuộc sống hàng ngày.
-Phát huy thế mạnh của môn GDCD để giáo dục tích hợp KNS cho học sinh
THPT.
Hoạt động dạy học tích hợp vào môn GDCD là hoạt động được tổ chức theo
mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục THPT dưới sự hướng dẫn của giáo viên
chủ nhiệm lớp hay nhà sư phạm. Thông qua đó, tạo cơ hội cho học sinh biến quá
20



trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm tri
thức, thái độ, quan điểm và hành vi ứng xử của mình trong một môi trường an
toàn, thân thiện có định hướng giáo dục. Thông qua môn GDCD có thể giúp HS
sống một cách an toàn, khoẻ mạnh có khả năng thích nghi với những biến đổi của
cuộc sống hàng ngày bởi nội dung hoạt động đa dạng, phong phú, hình thức và
phương pháp thực hiện luôn luôn đổi mới.
Tóm lại, nguyên tắc trên là những tư tưởng, quan điểm có tính chỉ đạo xuyên
suốt quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động dạy học
môn GDCD ở trường THPT. Chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung hỗ
trợ lẫn nhau và được khoa học nói chung thừa nhận và có tính phổ biến.
1.2.4. Tích hợp về nội dung giữa giáo dục kĩ năng sống và GDCD
Tích hợp nội dung dạy học giữa giáo dục kĩ năng sống và môn GDCD là
một trong những việc làm cần thiết trong dạy học tích hợp. Việc tích hợp nội dung
chỉ diễn ra khi: Giáo viên phải xác định một số yếu tố sau: (1) Xác định mục tiêu
tích hợp; (2) Xác định các giá trị trong giáo dục kĩ năng sống mà người học cần đạt
được; (3) Nhóm các giá trị đó vào các nội dung dạy cụ thể theo từng vấn đề hoặc
từng bài của chương trình giáo dục công dân.
Theo giới hạn của khoá luận, tôi chỉ tập trung vào các kỹ năng như: Kỹ năng
xác định giá trị bản thân; kỹ năng giao tiếp có hiệu quả; kỹ năng đương đầu với
cảm xúc căng thẳng; kỹ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực.
-

Kỹ năng xác định giá trị bản thân:

Là khả năng xác định những đức tính, niềm tin, thái độ, chính kiến nào đó
của mình cho là quan trọng và giúp ta hành động theo phương hướng đó. Xác định
giá trị ảnh hưởng đến ra quyết định và hành động của con người. Với kỹ năng này,

21



có thể tích hợp vào bài sau: Bài 10: Quan niệm về đạo đức; Bài 11: Công dân với
một số vấn đề cấp thiết của nhân loại; Bài 16: Tự hoàn thiện bản thân.

22


-

Kỹ năng giao tiếp có hiệu quả:
Là khả năng tạo dựng mối quan hệ và khả năng ứng xử của con người trong
mối quan hệ với người khác đạt được kết quả cao nhất theo mục tiêu đã định. Kỹ
năng giao tiếp có hiệu quả bao hàm trong nó cả kỹ năng lắng nghe và hiểu được
người khác. Đồng thời, kỹ năng này là sự phối hợp của nhiều KNS khác như: Kỹ
năng tự nhận thức, kỹ năng thương lượng, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng chia
sẻ, kỹ năng kiềm chế.Với kỹ năng này, ta có thể tích hợp vào các bài học cụ thể
như: Bài 12:Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình; Bài 16: Tự hoàn thiện

-

bản thân.
Kỹ năng đương đầu với cảm xúc căng thẳng:
Là khả năng kiềm chế xúc cảm và tự giải thoát khỏi trạng thái căng thẳng.
Kỹ năng đương đầu với cảm xúc căng thẳng giúp học sinh nhận biết được một số
tình huống tạo nên căng thẳng nhận biết được những biểu hiện của sự căng thẳng
và tác động của nó đến cuộc sống.Với kỹ năng này, ta có thể tích hợp vào các bài
học cụ thể như: Bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; Bài

-


16: Tự hoàn thiện bản thân.
Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực:
Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực là khả năng nhận thức được
các mâu thuẫn nảy sinh trong cuộc sống và các nguyên nhân của những mâu thuẫn
đó để bình tĩnh suy nghĩ về cách thức giải quyết mâu thuẫn đó một cách thiện chí.
Kỹ năng này đòi hỏi ở học sinh tư duy phê phán, tư duy sáng tạo để nhìn nhận vấn
đề và đánh giá người khác, biết lắng nghe, thừa nhận ý kiến hợp lý của người khác,
biết cách thương lượng và ra các quyết định hợp lý. Với kỹ năng này, ta có thể tích
hợp vào các bài học cụ thể như: Bài 13: Công dân với cộng đồng; Bài 14: Công
dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
1.2.5. Một số phương pháp cơ bản được sử dụng trong dạy học tích hợp giữa
giáo dục kĩ năng sống và môn GDCD
23


Việc sử dụng phương pháp nào vào dạy học tích hợp luôn là vấn đề được ưu
tiên hàng đầu trong đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là dạy học tích cực. Vì
vậy để nữa chọn được những phương pháp phù hợp nhất, cần thiết phải bắt nguồn
từ những cầu sử dụng phương pháp tiến bộ nhất hiện nay. Đó là hai hướng tiếp cận
sau:
+ Phương pháp tiếp cận cùng tham gia: tạo sự tương tác giữa giáo viên với
học sinh, học sinh với học sinh và tăng cường sự tham gia của học sinh trong học
tập, thực hành kỹ năng.
+ Phương pháp tiếp cận hướng vào người học: dựa vào kinh nghiệm sống và
đáp ứng nhu cầu của học sinh.
Với các phương pháp tiếp cận trên, các phương pháp dạy học cụ thể được sử
dụng trong giáo dục KNS cho học sinh THPT là: Phương pháp đàm thoại, phương
pháp tổ chức thảo luận nhóm, phương pháp xử lý tình huống,phương pháp tổ chức
một số hoạt động trải nghiệm sáng tạo…
-Phương pháp đàm thoại

Phương pháp đàm thoại là phương pháp mà giáo viên căn cứ vào nội dung
bài học khéo léo đặt ra câu hỏi, để học sinh căn cứ vào kiến thức đã có kết hợp với
sự hướng dẩn của giáo viên qua các thiết bị giảng dạy để làm sáng tỏ vấn đề, tìm ra
những tri thức mới ;nhằm củng cố, mở rộng, đào sâu những tri thức đã tiếp thu
được, từ đó tổng kết hệ thống hóa tri thức.
Để thực hiện phương pháp này giáo viên cần phải:
+ Phải làm cho học sinh ý thức được mục đích của toàn bộ hay một phần lớn
của cuộc đàm thoại. Hệ thống câu hỏi phải được lựa chọn và sắp xếp hợp lý, gắn
bó với nhau thành một thể thống nhất.
24


+ Các câu hỏi được chia thành đơn giản và phức tạp.Số lượng và tính chất
phức tạp của câu hỏi phụ thuộc vào tính phức tạp của đối tượng nghiên cứu, kiến
thức cần thiết để tiếp thu tài liệu mới, trình độ phát triển của học sinh. Sau khi giải
quyết xong một vấn đề cần tổng kết lại kết quả của việc giải quyết vấn đề nêu ra.
+ Phải đảm bảo nguyên tắc đàm thoại với cả lớp và không bị động “theo
đuôi” lớp.Muốn vậy cần đặt câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ rồi mới chỉ định một học
sinh trả lời, không chiều theo ý muốn của học sinh đi lệch khỏi trọng tâm vấn đề.
- Phương pháp tổ chức thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp được yêu thích và sử dụng
thường xuyên trong hoạt động dạy - học tích cực. Mỗi giáo viên phải nắm vững
phương pháp, có kỹ năng trong tổ chức, điều khiển các hoạt động này.
-Phương pháp xử lý tình huống
Trong lĩnh vực giáo dục,người thầy không chỉ truyền đạt kiến thức cho học
sinh mà còn phải đối mặt với một số tình huống sư phạm nan giải.Trước những
tình huống đó mỗi người sẽ có một cách giải quyết khác nhau.
-Phương pháp tổ chức một số hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐTNST) nhằm định hướng, tạo điều kiện
cho học sinh quan sát, suy nghĩ và tham gia các hoạt động thực tiễn, qua đó tổ chức

khuyến khích, động viên và tạo điều kiện cho các em tích cực nghiên cứu, tìm ra
những giải pháp mới, sáng tạo những cái mới trên cơ sở kiến thức đã học trong nhà
trường và những gì đã trải qua trong thực tiễn cuộc sống, từ đó hình thành ý thức,
phẩm chất, kĩ năng sống và năng lực cho học sinh
HĐTNST có nội dung rất đa dạng và mang tính tích hợp, tổng hợp kiến
thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo dục
25


×