Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU mổ nội SOI cắt tử CUNG HOÀN TOÀN của PHƯƠNG PHÁP TIÊM ROPIVACAIN 0,5% vào các vị TRÍ CHỌC TROCART ở THÀNH BỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.73 KB, 60 trang )

1

B Y T
TRNG I HC Y H NI

MAI VN TUYấN

ĐáNH GIá HIệU QUả GIảM ĐAU SAU Mổ
NộI SOI CắT Tử CUNG HOàN TOàN CủA PHƯƠNG PHáP
TIÊM ROPIVACAIN 0,5% VàO CáC Vị TRí CHọC
TROCART ở THàNH BụNG

CNG LUN VN CHUYấN KHOA CP II

1


2

H NI - 2015

B Y T
TRNG I HC Y H NI

MAI VN TUYấN

ĐáNH GIá HIệU QUả GIảM ĐAU SAU Mổ
NộI SOI CắT Tử CUNG HOàN TOàN CủA PHƯƠNG PHáP
TIÊM ROPIVACAIN 0,5% VàO CáC Vị TRí CHọC
TROCART ở THàNH BụNG
Chuyờn ngnh: Gõy mờ hi sc


Mó s: CK. 62 72 33 01

CNG LUN VN CHUYấN KHOA CP II
NGI HNG DN KHOA HC:

GS. Nguyn Th

2


3

3


4

HÀ NỘI - 2015DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASA

: Phân loại bệnh nhân theo hiệp hội gây mê hồi sức Mỹ
(American Society of Anesthesiologist)

BN

: Bệnh nhân

Cs

: Cộng sự


ECG

: Điện tâm đồ

EtCO2

: Áp lực CO2 cuối kỳ thở ra

FiO2

: Nồng độ ôxy trong khí thở vào

GMHS: Gây mê hồi sức
HATB : Huyết áp trung bình
HATT : Huyết áp tâm thu
HATTr

: Huyết áp tâm trương

MAC

: Nồng độ khí phế nang tối thiểu

Max

: Tối đa

Min


: Tối thiểu

Pb

: Áp lực khí ổ bụng

PCA

: Patient controlled Analgesia

SD

: Độ lệch tiêu chuẩn,

TKTW

: Thần kinh trung ương

Vmin

: Thông khí phút,

Vt

: Thể tích khí lưu thông

X

: Trung bình thực nghiệm


4


5

MỤC LỤC

5


6

DANH MỤC BẢNG

6


7

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau là một triệu chứng rất thường gặp sau phẫu thuật. Gây ra các rối
loạn về huyết động như: mạch nhanh, huyết áp tăng, các rối loạn về hô hấp:
thở nhanh, suy thở, xẹp phổi, các rối loạn về nội tiết: tăng cathecolamin,
tăng đường huyết, các rối loạn về thần kinh, tâm thần: vật vã, kích động.
Đau cũng để lại một dấu ấn nặng nề lên tinh thần của người bệnh [7, 10,
24, 45].
Điều trị đau sau mổ một mặt là vấn đề nhân đạo, một mặt nhằm giúp
cho bệnh nhân sớm phục hồi các chức năng, giảm thiểu các biến chứng,
đồng thời tạo nên một sự thoải mái trên tinh thần người bệnh sau phẫu
thuật. Do đó việc tìm kiếm các thuốc và các phương pháp điều trị thích hợp

luôn là mối quan tâm của các bác sỹ gây mê hồi sức cũng như các bác sỹ
phẫu thuật.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, y học cũng ngày càng phát
triển. Phẫu thuật nội soi là một thành tựu của khoa học kỹ thuật trong y
học hiện đại. Với các ưu điểm vượt trội như giảm tới mức tối đa các sang
chấn do phẫu thuật, do đó giảm mức độ đau và thời gian nằm viện cũng
được rút ngắn…
Số lượng bệnh nhân có bệnh phụ khoa được phẫu thuật nội soi ngày
càng nhiều trong đó có phẫu thuật nội soi cắt tử cung hoàn toàn. Đau sau
phẫu thuật nội soi cắt tử cung hoàn toàn có những đặc trưng riêng và
được đánh giá ở mức độ trung bình, tuy vậy cũng ảnh hưởng khá nhiều lên
người bệnh [28].
Trong số các phương pháp gây tê vùng để giảm đau sau mổ thì
phương pháp tiêm thuốc tê vào các vị trí chọc trocart trong mổ nội soi là
phương pháp đơn giản nhưng mang lại hiệu quả giảm đau khá tốt. Tuy
nhiên, để thời gian giảm đau được kéo dài, người ta thường tiêm các thuốc


8

tê có tác dụng kéo dài như bupivacain[30, 36, 37]. Một số nghiên cứu cho
thấy sau mổ nội soi ổ bụng với phương pháp giảm đau này, đa số bệnh
nhân không cần dùng các thuốc giảm đau khác hoặc lượng thuốc giảm đau
sau mổ khác được dùng giảm một cách đáng kể trong vòng 48 giờ sau mổ,
đặc biệt là trong 6 giờ đầu [30], [36], [37], [39], [40], 49].
Ở Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu về tiêm bupivacain vào các
vị trí chọc trocart để giảm đau sau mổ nội soi.Tuy nhiên, do bupivacain là
thuốc tê có độc tính cao trên tim mạch, thần kinh, đặc biệt nếu tiêm nhầm
vào mạch máu có thể nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân.
Ropivacain là một thuốc gây tê thuộc họ amino amid đã được sử dụng

trên thế giới từ năm 1996. Với những tính chất ưu việt hơn bupivacain
như: ổn định về huyết động, ít độc với thần kinh và tim mạch hơn, nên ngày
càng được sử dụng rộng rãi để gây tê vùng [1]. Từ thực tế đó chúng tôi
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ nội soi cắt
tử cung hoàn toàn của phương pháp tiêm thuốc tê Ropivacain
0,5% vào các vị trí chọc trocart ở thành bụng”.Nhằm mục tiêu:
1.

Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ nội soi cắt tử cung
hoàn toàn của phương pháp tiêm thuốc tê Ropivacain 0,5%
vào các vị trí chọc trocart ở thành bụng.

2.

Đánh giá một số tác dụng phụ của phương pháp giảm đau
này.


9

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Một số vấn đề về đau

1.1.1. Khái niệm

Đau là một khái niệm về cảm giác và xúc cảm. Hệ thống đau cung cấp
các thông tin là các kích thích có hại và cho phép cơ thể đáp ứng lại với các

nguyên nhân gây thương tổn. Đau có thể là bản thể, tạng hoặc thần kinh
giao cảm [54].


Đau bản thể xảy ra là kết quả của tổn thương mô thường được định khu rõ
ràng và được gây ra bởi những hoạt động có hại lên da và mô sâu. Ví dụ
đau sau phẫu thuật hoặc gẫy xương.



Đau tạng thường là các tổn thương mô do áp lực hoặc căng các tạng. Đau
tạng thường mơ hồ, khó khu trú và thường lan ra các nơi khác. Ví dụ đau
bả vai sau phẫu thuật nội soi.



Đau thần kinh là kết quả của tổn thương hệ thần kinh trung ương hoặc
ngoại vi. Ví dụ: đau do điện giật, bỏng hoặc các bệnh lý thần kinh của bệnh
tiểu đường. Đau này thường có cảm giác bỏng rát.
1.1.2. Cơ chế dẫn truyền cảm giác đau

Cảm giác đau được dẫn truyền từ ngoại biên lên vỏ não thông qua các
chặng sau (xem hình 1.1) [45].


10

Hình 1.1. Sơ đồ dẫn truyền cảm giác đau
a. Đường dẫn truyền từ các receptor vào tuỷ sống
Đau do nhiều nguyên nhân gây ra, có thể do mô bị tổn thương, thiếu

máu hoặc co thắt cơ. Các nguyên nhân gây đau này tạo ra các kích thích cơ
học, nhiệt hoặc hoá học tác động lên các receptor đau là các đầu tự do của
tế bào thần kinh được phân bố rộng trên lớp nông của da và các mô bên
trong như màng xương, thành động mạch, mặt khớp, màng não [10]. Các
receptor đau này cảm nhận cảm giác đau mãn và cấp. Các receptor đau
không có khả năng thích nghi, ngược lại khi bị kích thích liên tục, receptor
đau này càng hoạt hoá làm ngưỡng đau ngày càng giảm gây ra "hiện
tượng tăng cảm giác đau" [47]. Ngay sau mổ, ở nơi mổ xảy ra một loạt các
thay đổi về thể dịch : xuất hiện các chất của phản ứng viêm (chất P,
postaglandin E...) [10, 15, 57] và giảm ngưỡng hoạt hoá của receptor, ngoài
ra các receptor ở các tạng còn bị kích thích bởi sức căng (áp lực) [10].
Cảm giác đau được truyền từ các receptor nhận cảm đau về dây thần
kinh thứ nhất ở sừng sau tuỷ sống theo các sợi Ad (có ít myelin) với tốc độ
6-30 m/giây nếu là đau cấp và sợi C với cảm giác đau mãn (không có
myelin) tốc độ 0,5 m/giây [8, 15]. Ở trong tuỷ nếu là tổn thương cấp các


11

xung động này đi lên hoặc đi xuống từ 1-3 đốt tuỷ và tận cùng ở chất xám
sừng sau. Từ tế bào thần kinh thứ 2 ở sừng sau tuỷ các sợi C tiết ra chất
truyền đạt thần kinh là chất P thuộc loại peptid thần kinh có đặc điểm là
chậm được bài tiết và chậm bị khử hoạt do đó có thể giải thích vì sao cảm
giác đau mạn có tính tăng dần và vẫn còn tồn tại một thời gian sau khi
nguyên nhân gây đau đã hết [24].
b. Dẫn truyền từ tuỷ lên não
Sợi trục của tế bào thần kinh thứ 2 bắt chéo sang cột trắng trước bên đối
diện và dẫn truyền cảm giác đau từ tuỷ lên não theo nhiều đường:



Bó gai thị: nằm ở cột trắng trước-bên, đi lên và tận cùng tại phức hợp
bụng-nền của nhóm nhân sau đồi thị, là bó có vai trò quan trọng nhất.



Bó gai lưới: đi lên và tận cùng tại các tổ chức lưới ở hành não, cầu não và
não giữa ở cả 2 bên.



Các bó gai - cổ - đồi thị: từ tuỷ cùng bên đi lên đồi thị và các vùng khác của
não.



Chỉ có 1/10-1/4 số sợi dẫn truyền cảm giác đau chậm là tận cùng ở đồi thị
còn phần lớn tận cùng ở các nhân tại các cấu tạo lưới ở thân não, vùng mái
của não giữa, vùng chất xám quanh ống Sylvius, tại các vùng này có vai trò
quan trọng đánh giá kiểu đau. Cấu tạo lưới khi bị kích thích còn có tác
dụng hoạt hoá "đánh thức" vỏ não làm tăng hoạt động của hệ thần kinh
đáp ứng với đau nên người bị đau thường không ngủ được [10].
Ngoài ra, còn một số sợi có thể cho các nhánh tận cùng của các cấu
tạo lưới và đồi thị.
c. Nhận cảm ở vỏ não :
Tế bào thần kinh thứ 3 từ đồi thị vùng nền não và vùng cảm giác đau của
vỏ não. Vỏ não có vai trò quan trọng trong đánh giá đau, cảm giác đau


12


được phân tích và xử lý để tạo ra các đáp ứng. Tại vỏ não cảm giác đau lại
phân tán rộng nên khó xác định vị trí đau nhất.


Tác dụng có lợi của cảm giác đau là tác dụng bảo vệ cơ thể, cảm giác đau
cấp gây ra các đáp ứng tức thời tránh xa tác nhân gây đau, còn cảm giác
đau chậm thông báo tính chất của cảm giác đau. Đa số các bệnh lý đều gây
đau, dựa vào: vị trí, tính chất, cường độ và thời gian xuất hiện của đau sẽ
giúp ích cho thầy thuốc trong chẩn đoán và điều trị bệnh [8, 10].
1.1.3. Nguyên nhân gây đau sau mổ



Tại nơi mổ xảy ra những thay đổi về thể dịch, thoát mạch phù nề, xuất hiện
các chất viêm, làm giảm ngưỡng hoạt hóa của các receptor như:
prostaglandin typ E, chất P, bradykinin,… Ngoài ra, các receptor còn bị kích
thích bởi sức căng nơi tổn thương [7, 10].



Các chất gây đau tích lũy và các kích thích do cắt ngang các sợi thần kinh
trên da tạo ra những luồng nhận cảm tổn thương và xuất hiện cảm giác
đau.



Luồng nhận cảm tổn thương từ cân cơ, màng bụng cũng tương tự như
nhận cảm vị trí trên da, nhưng luồng nhận cảm này kém chính xác và sự
khu trú cũng không rõ ràng.




Các sợi Aδ và sợi C được hoạt hóa gây nhiều luồng xung động tới vùng sừng
sau của tủy tạo nên những biểu hiện đặc trưng của sự nhận cảm tổn
thương, trong đó sự nhận cảm cảm giác đau chỉ là một phần trong các biểu
hiện lâm sàng và không hằng định.



Sự hoạt hóa của các receptor liên quan đặc biệt tới sự co thắt và sự căng
của cơ trơn ở tạng rỗng. Luồng nhận cảm tổn thương này mượn đường
của thần kinh giao cảm nên thường không chính xác, kém khu trú và có
tính lan tỏa.


13

1.1.4. Những yếu tố làm thay đổi ngưỡng đau


Yếu tố tâm lý không có ý nghĩa cảm giác thực thụ, nhưng chúng tác động và ảnh
hưởng sâu sắc vào cảm nhận đau, làm tăng hoặc giảm đáp ứng với đau. Một vài
yếu tố tinh thần, xúc cảm, quá trình tâm lý làm thay đổi cảm nhận đau [26].
Ngưỡng đau có thể tăng trên 35% khi đãng trí đơn thuần, nếu ám thị
hoặc thôi miên có thể làm tăng ngưỡng đau đến mức mà nhiều cảm nhận
đau phổ biến không nhận thấy được



Những yếu tố thể chất:


o

Tuổi: là yếu tố quan trọng, người già chịu đau tốt hơn người trẻ.Nhiều
nghiên cứu cho thấy có tăng ngưỡng đau cùng với tuổi và nhu cầu dùng
thuốc giảm đau ở người trên 40 tuổi thường giảm [26].

o

Giới: cũng là yếu tố dễ thay đổi ngưỡng đau. Nam giới có nhịp sinh học với
kích thích nhiệt, có ngưỡng đau tăng lên và giảm xuống 6 giờ một lần, cao
nhất vào lúc 8 giờ sáng, thấp nhất vào lúc 6 giờ tối. Nữ giới không có nhịp
sinh học hàng ngày nên họ có ngưỡng đau thấp suốt cả ngày [26].



Yếu tố thần kinh

o

Những thay đổi trong da có khuynh hướng làm cho con người nhạy cảm
với các kích thích đau.

o

Các thuốc an thần có thể làm dịu đau trong các chấn thương bề mặt [26].



Yếu tố thần kinh giao cảm


o

Hoạt động ly tâm giao cảm điều khiển chức năng của receptor xúc giác.

o

Khi kích thích thần kinh giao cảm làm tăng ngưỡng receptor cơ học trên bề mặt
da hơn so với ngưỡng kích thích sờ nắn.
1.1.5. Hiện tượng tăng cảm giác đau



Cường độ kích thích nhỏ nhất có thể gây được cảm giác đau gọi là ngưỡng
đau [27].


14


Giữa các cá thể ít có sự khác nhau về ngưỡng đau, nhưng phản ứng với
cảm giác đau lại rất khác nhau giữa các cá thể và chủng tộc [7].



Cường độ kích thích càng mạnh, cảm giác đau xuất hiện sau một thời gian
càng ngắn, còn cường độ kích thích nhẹ đòi hỏi thời gian dài mới gây ra
cảm giác đau [7].




Thương tổn ở mô hay ngoại vi (do tổn thương hay phẫu thuật) gây phản
ứng thần kinh

o

Tận cùng thần kinh ngoại vi bị kích thích hoặc giảm ngưỡng đau.

o

Xuất hiện sự kích thích ở trung ương hoặc gia tăng kích thích tùy theo khả
năng hoạt động của các neuron tủy sống.
Cả hai sự thay đổi này gây nên hiện tượng tăng cảm giác đau mà ta
gọi là đau sau phẫu thuật.



Mô bị tổn thương tạo nên những xung tác cảm giác dẫn tới phản ứng dây
truyền để tạo nên hiện tượng tăng cảm giác đau kéo dài ở hệ TKTW.
1.1.6. Ảnh hưởng của đau sau phẫu thuật ổ bụng đối với bệnh nhân



Trên tim mạch:
Đau làm mạch nhanh, huyết áp tăng, tăng sức cản ngoại biên, tăng
công cơ tim do tăng tiết catecholamine, tăng tiêu thụ oxy cơ tim dễ gây
thiếu máu cơ tim do mất cân bằng cung cầu về oxy của cơ tim, ngoài ra đau
còn làm thay đổi phân phối máu đến các cơ quan, dễ gây tắc tĩnh mạch sâu
do bệnh nhân không dám vận động sớm [65, 68].




Trên hô hấp:
Đau làm cho bệnh nhân thở nhanh nông, với thể tích khí lưu thông
thấp và không dám thở sâu. Do đó hậu quả là làm giảm thông khí ở một số
vùng phổi gây rối loạn tỷ số thông khí tưới máu. Đau làm bệnh nhân ho khạc
không hiệu quả, gây ứ đọng đờm dãi góp phần làm tăng công hô hấp và gây
mỏi cơ hô hấp. Hậu quả cuối cùng là xẹp phổi, thiếu oxy máu và nhiễm trùng


15

phổi [69].


Trên tiêu hoá: Đau làm giảm nhu động dạ dày ruột, kéo dài thời gian làm
rỗng dạ dày, chậm trung tiện và phục hồi chức năng ống tiêu hóa [24].



Tiết niệu: Bí đái



Thần kinh nội tiết: Đau gây ra các đáp ứng stress làm tăng catecholamine,
cortisol, glucagon, hormone tăng trưởng. (GH), vasopresine, aldosteron và
insuline gây tăng đường máu, tăng ứ đọng muối và nước, hoạt hoá
fibrinogen và tiểu cầu, tăng dị hoá proteine làm chậm liền vết mổ, gây suy
giảm miễn dịch, dễ nhiễm trùng sau mổ [24, 45, 69].




Tâm thần: Lo lắng, sợ hãi, mất ngủ, trầm cảm.
1.1.7. Cơ chế gây đau sau phẫu thuật nội soi ổ bụng

Cho đến nay, nguyên nhân đau sau phẫu thuật nội soi ổ bụng vẫn còn
là giả thiết. Dường như giả thiết được nhiều người chấp nhận hơn cả là giả
thiết do CO2 được đưa vào ổ bụng với một số lượng lớn. Khí CO 2 được bơm
vào ổ bụng kết hợp với H2O tạo thành H2CO3, chính axít này kích thích phúc
mạc gây nên hiện tượng viêm dẫn tới cảm giác đau [75].
Ở một khía cạnh khác, sự tồn dư của khí CO 2 ở vòm hoành sau mổ
cũng là nguồn gốc của đau hai vai sau phẫu thuật nội soi ổ bụng. Tuy nhiên,
bệnh nhân thường đau vai trái hơn vì vòm hoành phải được bảo vệ tốt hơn
do có gan che chắn. Cảm giác đau vai thường kéo dài trên 24 giờ. Một số
nghiên cứu xác nhận, khí tồn dư trong khoang phúc mạc có thể quan sát
được trên X-quang cho tới ngày thứ ba sau mổ [75].
Đau ở chỗ rạch da do kích thích trực tiếp thần kinh nhận cảm cảm giác.
1.2.

Những yếu tố ảnh hưởng tới đau sau mổ

1.2.1. Ảnh hưởng của phẫu thuật


Loại phẫu thuật: lồng ngực, bụng trên là đau nhiều nhất, tiếp theo là thận
và cột sống [65, 69].


16



Vị trí, phạm vi và thời gian phẫu thuật [24].



Tính chất đường rạch: ở bụng đường rạch chéo đau hơn rạch thẳng [24].



Đau do hít sâu sau phẫu thuật ngực, bụng, thận là dữ dội nhất, phẫu thuật
khớp háng, gối đau do co cơ [24].
1.2.2. Tâm lý, sinh lý và cơ địa bệnh nhân



Nhân cách, nguồn gốc xã hội, văn hoá, giáo dục và môi trường bệnh viện là
những nhân tố chủ yếu có khả năng làm biến đổi nhận thức đau [65].



Sự lo lắng làm tăng cường độ đau [47, 65].



Người trẻ hút thuốc lá nhiều đòi hỏi lượng morphine nhiều hơn [45].



Tình trạng trầm cảm trước mổ: rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, lo lắng không
chỉ liên quan đến đau mãn mà còn liên quan đến đau cấp sau mổ [24].

1.2.3. Các ảnh hưởng khác



Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ: chuẩn bị tốt trước mổ và giải
thích về diễn biến đau sau mổ làm tăng khả năng chịu đau.



Phẫu thuật nặng và kéo dài.



Biến chứng của cuộc phẫu thuật và gây mê.



Công tác chăm sóc bệnh nhân.



Phương pháp giảm đau sau mổ.



Liều lượng thuốc giảm đau họ morphine sử dụng trong mổ cũng
ảnh hưởng đến cường độ đau sau mổ [69].
1.2.4. Dự phòng đau sau mổ

Một xu hướng mới trong điều trị giảm đau sau mổ hiện nay là dự

phòng đau, tức là thực hiện giảm đau trước khi xuất hiện kích thích gây
đau, dẫn tới làm giảm mức độ đau và làm giảm lượng thuốc giảm đau tiêu
thụ sau mổ so với trường hợp can thiệp giảm đau khi đã xảy ra. Do vậy
phải dùng sớm từ trước mổ hoạc trong mổ mới phát huy được tác dụng dự
phòng đau của thuốc


17

Khái niệm dự phòng đau ‘Preemptive analgesia’’ có nghĩa là thực
hiện giảm đau trước khi xuất hiện kích thích nhận cảm tổn thương, có tác
dụng giảm mức độ đau vì vậy giảm liều thuốc giảm đau sau này [54].
Đây là một khái niệm mới, các thuốc được chứng minh có tác dụng
dự phòng đau hiện nay có họ opioid, thuốc ức chế receptor NMDA, thuốc
chống viêm giảm đau non- steroid, thuốc tê.
1.3.
1.3.1.

Tóm tắt dược lý của ropipivacain
Tính chất lý hóa:

Ropivacaine là thuốc tê thuộc nhóm amino amid, với tên hóa học:
S1 – propyl-2’, 6’-pipecoloxylidine hydrochloride monohydrate.
Công thức hóa học của ropivacaine:


18

Ropivacaine có một trung tâm quay cực dưới dạng đồng phân S. Nó
tan

rất tốt trong dầu, giá trị PKa là 8,1 và hệ số phân bố dầu nước là 141 ( ở
25oC, n-octanol/ đệm phosphate với PH 7,4.
Dung dịch tiêm Anaropine ( Ropivacaine hydrochloride) là dung dịch
vôkhuẩn , đẳng trương, đẳng áp. PH của dung dịch được điều chỉnh 4,0-6,0
bằngnatri hydroxide hoặc acid hydrochloric. Dung dịch không chứa chất
bảo quản.
1.3.2.Dược động học:
Hấp thu: Nồng độ ropivacaine trong huyết tương phụ thuộc vào liều,
loại phong bế và sự phân bố mạch ở vị trí tiêm. Ropivacaine có dược lực
học tuyến tính.Nồng độ tối đa trong huyết tương tỉ lệ với liều.
Ropivacaine hấp thu hoàn toàn và theo hai pha từ khoang ngoài màng
cứng, với thời gian bán thải của hai pha theo thứ tự là 14 phút và 4 giờ.
Pha hấp thu chậm là yếu tố làm ảnh hưởng đến tốc độ thải trừ ropivacaine,
giải thích lý do vì sao sau khi tiêm ngoài màng cứng thời gian bán thải pha
cuối kéo dài hơn sau khi tiêm tĩnh mạch.
Phân bố: Trong huyết tương, ropivacaine chủ yếu liên kết với
anpha1acid glycoprotein trong đó dạng tự do chiếm gần 6%.Thể tích phân bố ở
trạng thái hằng định là 47 lít. Ropivacaine có thể đi qua nhau thai với nồng
độ ropivacaine tự do cân bằng nhau ở mẹ và thai nhi. Lượng protein liên
kết trong máu của thai nhi thấp hơn trong máu mẹ nên nồng độ thuốc
trong huyết tương toàn phần của thai nhi sẽ thấp hơn của mẹ.


19

Chuyển hóa: Ropivacaine được chuyển hóa chủ yếu ở gan bởi phản
ứng hydroxyl hóa nhân thơm tạo thành 3-hydroxy-ropivacaine (được
chuyển hóa bởi CYP1A2) và phản ứng khử N-alkyl thành PPX (được chuyển
hóa bởi CYP3A4). PPX là một chất chuyển hóa hoạt động. Ngưỡng gây độc
của PPX tự do trong huyết tương trên TKTW chuột cao gấp khoảng 20 lần

so với ropivacaine tự do. PPX là một chất chuyển hóa ít quan trọng khi
dung một liều nhưng là một chất chuyển hóa rất quan trọng khi truyền
ngoài màng cứng liên tục.
Thải trừ: Các chất chuyển hóa được thải trừ qua thận. Khoảng 1%
ropivacaine đơn liều thải trừ dưới dạng chưa chuyển hóa. Ropivacaine có
độ thanh thải huyết tương toàn phần trung bình là 440ml/phút, độ thanh
thải của ropivacaine không gắn kết là 8 lít/ phút và độ thanh thải qua thận
là 1ml/phút. Thời gian bán thải pha cuối là 1,8 giờ sau khi tiêm tĩnh mạch,
và tỉ lệ chiết xuất ở mô gan là trung gian, khoảng 0,4.
1.3.3.Dược lực học:


20

Ropivacaine gây ức chế có hồi phục dẫn truyền xung thần kinh bằng
cách ức chế vận chuyển ion natri đi vào màng tế bào thần kinh. Thuốc
cũngcó tác động tương tự trên màng tế bào dễ bị kích thích ở não và cơ
tim. Ropivacaine có tác dụng gây tê và giảm đau. Ở liều cao có tác dụng gây
tê phẫu thuật, còn dung liều thấp có thể gây ức chế cảm giác (giảm đau).
Việc dùng thêm adrenaline không cải thiện được thời gian và cường độ của
ức chế do ropivacaine tạo ra. Ropivacaine có ít tác dụng phụ lên sự co thắt
của cơ tim in vivo hơn so với levobupivacain và bupivacaine. Tác dụng trên
tim đo được ở nhiều nghiên cứu in vivo trên động vật cho thấy ropivacaine
có độc tính trên tim thấp hơn, cả về số lượng và chất lượng so với
bupivacaine. Ropivacaine ít kéo giãn phức hợp QRS hơn so với bupivacaine
và sự thay đổi xảy ra ở liều ropivacaine và levobupivacaine cao hơn so với
bupivacaine. Các tác dụng trực tiếp lên tim mạch của thuốc gây tê tại chỗ
bao gồm chậm dẫn truyền, ức chế co bóp cơ tim và cuối cùng là loạn nhịp
tim và ngừng tim. Ở chó sau khi được tiêm tĩnh mạch ropivacaine cho đến
trụy tim mạch dễ hồi tỉnh hơn so với sau khi sử dụng levobupivacaine và

bupivacaine, mặc dù nồng độ thuốc tự do trong huyết thanh cao hơn. Điều
này cho thấyropivacaine có giới hạn an toàn rộng hơn so với hai thuốc kia
trong trường hợp vô tình tiêm nhầm vào mạch hoặc quá liều.
1.1.1.Chỉ định và liều lượng:
Chỉ định: - Gây tê NMC trong PT, bao gồm cả mổ đẻ
-Gây tê tủy sống
- Phong bế thần kinh lớn
- Phong bế thần kinh ngoại biên, gây tê vùng có chọn lọc, gây tê thấm
- Giảm đau cấp: Truyền liên tục NMC hoặc tiêm liều cao gián đoạn để
giảm đau sau PT hoặc giảm đau sau đẻ…
Liều lượng và cách dùng:


21

Gây tê phẫu thuật thường cần dùng liều cao và nồng độ cao hơn so với
nồng độ 2mg/ml được chỉ định chung cho giảm đau cấp.
1.2.

Dược lý của Morphine
Ống tiêm 10 mg/1 ml, dưới dạng muối hydroclorid hoặc muối sulfat.

1.2.1. Dược động học
-

Hấp thu: Morphin dễ hấp thu qua đường tiêu hóa, chủ yếu ở tá tràng, hấp
thu qua niêm mạc trực tràng song vì phải qua chuyển hóa ban đầu ở gan
nên sinh khả dụng của morphin dùng đường uống thấp hơn đường tiêm
(chỉ khoảng 25%). Morphin hấp thu nhanh sau khi tiêm dưới da hoặc tiêm
bắp và có thể thâm nhập tốt vào tuỷ sống sau khi tiêm ngoài màng cứng


-

hoặc trong màng cứng (trong ống sống).
Phân phối: Trong huyết tương, khoảng 1/3 morphin gắn với protein.
Morphin không ở lâu trong các mô. Mặc dù vị trí tác dụng chủ yếu của
morphin là ở hệ thần kinh tr ung ương, nhưng chỉ có một lượng nhỏ qua
được hàng rào máu- não vì morphin ít tan trong mỡ hơn các opioid khác,

-

như codein, heroin và methadon.
Chuyển hóa: Con đường chính chuyển hóa morphin là liên hợp với acid
glucuronic ở vị trí gắn OH (3 và 6), cho morphin - 3- glucuronid không có
tác dụng dược lý và morphin - 6- glucuronid (chất chuyển hóa chính của
morphin) có tác dụng giảm đau mạnh hơn morphin. Khi dùng lâu, morphin
- 6-glucuronid cũng được tích luỹ. Thời gian bán thải của morphin khoảng

-

2 - 3 giờ; morphin - 6- glucuronic có thời gian bán thải dài hơn.
Thải trừ: Morphin thải trừ dưới dạng nguyên chất rất ít. Trên 90% liều
dùng được thải trừ qua thận trong 24 giờ đầu dưới dạng morphin - 3glucuronid. Morphin có chu kỳ gan- ruột, vì thế nhiều ngày sau vẫn còn

1.3.4.

thấy chất chuyển hóa trong phân và nước tiểu.
Dược lực học



22

Morphin tác dụng chủ yếu trên hệ thần kinh trung ương và trên ruột
qua thụ thể muy (m) ở sừng sau tủy sống. Tác dụng rất đa dạng, bao gồm
giảm đau, buồn ngủ, thay đổi tâm trạng, ức chế hô hấp, giảm nhu động dạ
dày ruột, buồn nôn, nôn, thay đổi về nội tiết và hệ thần kinh tự động.
Tác dụng giảm đau do thay đổi nhận cảm đau và một phần do tăng
ngưỡng đau.
Morphin ức chế hô hấp là do ức chế tác dụng kích thích của CO2 trên
trung tâm hô hấp ở hành não.
1.3.5.
-

Chỉ định, chống chỉ định
Chỉ định
Ðau nhiều hoặc đau không đáp ứng với các thuốc giảm đau khác:
Ðau sau chấn thương.
Ðau sau phẫu thuật.
Ðau ở thời kỳ cuối của bệnh, đau do ung thư.
Cơn đau gan, đau thận (nhưng morphin có thể làm tăng co thắt).
Ðau trong sản khoa.
Phối hợp khi gây mê và tiền mê.

-

Chống chỉ định
Suy hô hấp.
Triệu chứng đau bụng cấp không rõ nguyên nhân.
Suy gan nặng.
Chấn thương não hoặc tăng áp lực nội sọ.

Trạng thái co giật.
Nhiễm độc rượu cấp hoặc mê sảng rượu cấp.
Trẻ em dưới 30 tháng tuổi.
Ðang dùng các chất ức chế monoaminoxidase (IMAO).

1.3.6.

Liều lượng và cách dùng


23

Liều tiêm dưới da hoặc bắp thường dùng cho người lớn là 10 mg, cứ 4
giờ 1 lần, nhưng có thể thay đổi từ 5 - 20 mg.
Tiêm tĩnh mạch: Liều khởi đầu 10 - 15 mg, tiêm tĩnh mạch chậm.
Truyền tĩnh mạch liên tục tùy theo trạng thái người bệnh, thông
thường 60 - 80 mg/24 giờ.
Tiêm ngoài màng cứng (loại dung dịch không có chất bảo quản) để
giảm đau vùng rễ lưng và đám rối thần kinh ngoài màng cứng. Ðặc biệt
hay dùng trong phẫu thuật và trong sản khoa (đau sau phẫu thuật và đau
sau chấn thương).
Ðau cấp tính và đau mạn tính: 0,05 - 0,10 mg/kg (2 - 4 mg cho đến 5
mg). Nếu cần, có thể dùng lặp lại liều 2 - 4 mg khi tác dụng giảm đau của
liều đầu tiên không còn. Thường sau 6 - 24 giờ.
Morphin tiêm ngoài màng cứng 10 mg/ml chỉ dùng cho người ung thư
đã điều trị kéo dài nên quen thuốc.
Tiêm trong màng cứng (loại dung dịch không có chất bảo quản) chỉ để
giảm đau trực tiếp trên trung ương (tác dụng trực tiếp trên não và tủy).
Ðau cấp tính: 0,02 - 0,03 mg/kg/ngày.
Ðau mạn tính: 0,015 - 0,15 mg/kg/ngày. Liều có thể gấp 10 lần tùy

theo tình trạng người bệnh.
1.4.

Giải phẫu tử cung và phần phụ

1.4.1. Giải phẫu tử cung

Tử cung có dạng hình nón cụt, đáy rộng ở trên và hẹp ở dưới, chia
làm ba phần : Thân tử cung, eo tử cung, cổ tử cung.
+ Thân tử cung : Có dạng hình thang phần rộng ở trên (gọi là phần
đáy), có sừng ở hai bên, sừng tử cung là nơi vòi trứng thông với tử cung và
là nơi bám của dây chằng tròn và dây chằng tử cung- buồng trứng. Thân
tử cung dài 4 cm, rộng 4-5 cm, trọng lượng thân tử cung khoảng 50g.


24

+ Eo tử cung: Là chỗ thắt nhất, nơi tiếp giáp giữa thân tử cung và cổ
tử cung dài 0,5cm. Khi có thai vào những tháng cuối phát triển thành đoạn
dưới tử cung.
+ Cổ tử cung: Là một khối mô hình nón cụt, đáy là phần tiếp giáp với
eo tử cung còn đầu chúc vào âm đạo, phía trước phần trên âm đạo là phần
dưới sau bàng quang, hai bên là đáy dây chằng rộng có niệu quản và bó
mạch thần kinh đi qua, phía sau là phúc mạc vén lên phủ trực tràng tạo
thành túi cùng Douglas. Ống cổ tử cung là một đoạn ảo hình trụ dài 2-3cm,
rộng 2,5 cm, khi chưa đẻ cổ tử cung trơn láng, mật độ chắc, sau đẻ cổ tử
cung rộng ra theo chiều ngang mật độ mềm.
1.4.2. Buồng trứng:
Là cơ quan vừa ngoại tiết (phóng noãn) vừa là cơ quan nội tiết (tiết
Progestẻvà Etrogen). Buồng trứng nằm áp 2 bên hố chậu tương ứng điểm

niệu quản giữa có hình hạt, dẹt có 2 mặt trong và ngoài và hai đầu trên và
dưới dài chừng 3,5cm rộng 2cm dầy 1cm.
1.4.3.Vòi trứng
Là ống dẫn noãn từ buồng trứng đến tử cung có một đầu thông với ổ
bụng để đón noãn còn đầu kia thông với tử cung. Vòi trứng dài 10-12 cm,
đừờng kính 3mm. Còn lỗ thông với ổ bung rộng hơn 8mm chia làm 4 đoạn Đoạn kẽ nằm trong thành tử cung dài 1cm. - Đoạn eo chạy ra ngoài 3-4cm,
là chỗ cao nhất và thắt nhất của vòi trứng. - Đoạn bóng dài 7cm chạy dọc
theo bờ trước của buông trứng - Đoạn loa có dạng hình phễu có 10-12 tua
Richard dính vào dây chằng vòi buồng trứng để hứng noãn vào vòi trứng.


25

1.5.

Các phương pháp đánh giá đau sau mổ

1.5.1. Phương pháp khách quan


Đo sự thay đổi các chỉ số sinh hóa máu: nồng độ hormone (catecholamin,
cortisol). Đây là phương pháp tốn kém, kết quả không chính xác vì có nhiều
yếu tố ảnh hưởng tới kết quả [64].



Đo sự thay đổi các chỉ số hô hấp: khí máu, thể tích thở ra gắng sức trong
giây đầu tiên (FEV1), cung lượng đỉnh thở ra (PEFR), thể tích khí lưu thông
(Vt).




Tính lượng thuốc giảm đau (morphine) mà bệnh nhân đã dùng qua hệ
thống giảm đau PCA.
1.5.2. Phương pháp chủ quan

a.

Đánh giá đau theo thang điểm đau bằng nhìn hình đồng dạng (Visual
Analog Scale- VAS) [35, 62]
Thước đo độ đau VAS là một thước có 2 mặt dài 20 cm. Mặt quay về
phía bệnh nhân có các hình tượng biểu thị mức độ đau để bệnh nhân dễ
dàng so sánh. Mặt đối diện về phía thầy thuốc có chia thành 10 vạch. Bệnh
nhân được yêu cầu và định vị con chỏ trên thước tương ứng với mức độ
đau của mình. Khoảng cách từ chỗ bệnh nhân chỉ đến điểm 0 chính là điểm
VAS (ở mặt sau thước).
Hình tượng E (tương ứng 0 điểm): không đau,
Hình tượng D (tương ứng 1-3 điểm): đau ít,
Hình tượng C (tương ứng 4-6 điểm): đau vừa,
Hình tượng B (tương ứng 7-8 điểm): đau nhiều,
Hình tượng A (tương ứng 9-10 điểm): đau dữ dội.


×