Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Nghiên cứu sự cốt hóa của một số xương trên người tuổi từ 13 đến 18 bằng hình ảnh x quang kĩ thuật số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.38 MB, 70 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành y đã có những trang thiết bị và máy móc đã giúp khảo sát, đánh
giá về hình thái, cấu trúc và mức độ phát triển và tổn thương của các hệ cơ
quan, mô, tế bào. Đặc biệt là đối với chuyên ngành chẩn đoán hình ảnh nói
chung có nhứng đóng góp về mặt đánh giá nhân chắc và tốc độ phát triển của
mỗi con người như: Siêu âm đã giúp chúng ta có thể kiểm tra về tuổi thai, cân
nặng và tình trạng phát triển của thai. X quang đã có những đóng góp không
nhỏ từ khi được phát hiện và ứng dụng trong y học, X quang đã giúp chúng ta
có thể đo đạc các kích thước của hệ xương nói chung giúp cho các bác sỹ lâm
sàng. Trong lĩnh vực Pháp y X quang giúp rất nhiều trong lĩnh vưc giám định
thương tích, ngoài ra cũng giúp phát hiện được các hiện tượng cốt hóa của hệ
xương, đặc biêt các xương dài.
Con người thấy khác biệt đáng kể trong quá trình tăng trưởng, ở lứa
tuổi mà theo đó mỗi cá nhân đạt các sự kiện phát triển tương tự, điều này đã
dẫn đến các khái niệm về đánh giá sự trưởng thành về sinh học và sinh lý học.
Chúng bao gồm các đặc tính sinh dục trưởng thành, phát triển trên khuôn mặt
và vận tốc tăng trưởng cao, tuổi thời gian, phát triển răng, chiều cao cơ thể,
trọng lượng cơ thể và sự trưởng thành tay cổ tay [15-18, 21, 25]. Các nguyên
tắc của sự trưởng thành xương và ước tính của nó ngày trở lại vào năm 1908
khi Crampton [14] đầu tiên mô tả nó và sau đó phát triển bởi Todd [40] và
Greulich và Pyle [23] với việc sử dụng X quang tay cổ tay.
Tuổi vị thành niên là một giai đoạn trong đó tỷ lệ tăng tốc độ tăng
trưởng đạt đến một vận tốc cao điểm và sau đó giảm tốc cho đến tuổi trưởng
thành có thể đạt được. Mô hình này có thể được tìm thấy trong tất cả các cá
nhân, nhưng có được đánh dấu cá thể biến dị trong sự bắt đầu, thời gian, mức
giá và lượng tăng trưởng trong giai đoạn này của cuộc sống [9].
Đánh giá chính xác tuổi tự thời gian được cung cấp bởi các giai đoạn
phát triển như sự trưởng thành xương, đặc điểm giới tính và phát triển nha
khoa. Bộ xương đề cập đến mức độ phát triển của cốt hóa xương [33]. Trưởng




2

thành của xương là một thước đo của sự phát triển, đánh giá các kích thước,
hình dạng và mức độ khoáng xương để xác định vị trí gần để trưởng thành
đầy đủ. Trưởng thành xương đã được hiển thị để xảy ra trong giai đoạn giống
hệt nhau và xác định giữa các nhóm dân tộc. Tuy nhiên, sự khác biệt trong
thời gian trưởng thành xương giữa các nhóm dân tộc có thể là do các yếu tố
như sự khác biệt di truyền, điều kiện môi trường và các biến thể [38]. Sự
trưởng thành xương được đánh giá trên X quang tay cổ tay là cổ điển được
coi là chỉ số tốt nhất của sự trưởng thành và đã được tìm thấy là có liên quan
chặt chẽ đến sự phát triển mạnh mẽ [22, 13, 26]. Tuổi xương hoặc tuổi xương
là phép đo phổ biến nhất cho sự trưởng thành sinh học của con người ngày
càng tăng và có thể được bắt nguồn từ việc kiểm định các giai đoạn kế tiếp
của sự phát triển xương, như xem trên X quang cổ tay tay. Các kỹ thuật để
đánh giá tuổi xương bao gồm kiểm tra trực quan của xương, xuất hiện ban
đầu của họ và thay đổi cốt hóa tiếp theo của họ trong hình dạng và kích thước.
Hai mươi chín khu vực khác nhau của bộ xương đã được sử dụng: bàn chân,
mắt cá chân, hông, khuỷu tay, bàn tay, cổ tay và các đốt sống cổ cùng [25]. X
quang tay cổ tay sử dụng để đánh giá sự phát triển xương. Với những lý do
trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu sự cốt hóa của một số xương
trên người tuổi từ 13 đến 18 bằng hình ảnh X quang kĩ thuật số” nhằm các
mục tiêu sau:
1. Xác định được sự khác nhau có ý nghĩa về hiện tượng cốt hóa một
số xương người độ tuổi từ 13 đến 18 tuổi.
2. Ứng dụng kết quả nghiên cứu trên vào các vụ việc giám định pháp
y xác định độ tuổi cụ thể của đối tượng giám định.



3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. MỘT SỐ KHÍA CẠNH VỀ GIẢI PHẪU ĐẠI CƯƠNG HỆ XƯƠNG

1.1.1. Tổng quát về hệ xương [1]
Cơ thể con người có 206 xương. Xương trục: 80 xương (khối xương sọ,
xương cột sống, xường sườn, xương ức, xương móng). Xương phụ: 126
xương (xương chi trên và xương chi dưới). 1/2 số xương chủ yếu ở bàn tay và
bàn chân.


4

1.1.2.Xương chi trên[1]
Gồm 64 xương. Xương đai vai. Xương cánh tay. Xương cẳng tay. Xương
bàn tay.
1.1.2.1. Xương đòn [1]
Xương đòn là một xương dài, tạo nên phần trước của đai vai, nằm
ngang phía trước và trên của lồng ngực. Xương gồm có 1 thân và 2 đầu.

Hình 1.1. Xương đòn A. Mặt trên B. Mặt dưới
1. Đầu ức 2. Thân xương 3. Đầu cùng vai 4. Diện khớp ức 5. Rãnh
dưới đòn 6. Đầu cùng vai
Thân xương cong hình chữ S, cong lõm ra trước ở ngoài và cong lõm ra
sau ở phần trong, điểm yếu của thân xương nằm ở chỗ nối giữa 1/3 ngoài và
2/3 trong, nơi thường bị gãy khi chấn thương. Ðầu ức hướng vào trong, có
diện khớp ức khớp với cán ức. Hướng ra ngoài, dẹt và rộng, có diện khớp
cùng vai khớp với mỏm cùng vai.



5

1.1.2.2. Xương vai [1]
Xương vai là một xương dẹt hình tam giác, gồm hai mặt, nằm phía sau
bên của phần trên lồng ngực. Xương có hai mặt, ba bờ và ba góc.
Gồm các măt: Mặt sườn lõm là hố dưới vai. Mặt lưng có gai vai chia
mặt này thành hai phần không đều nhau: phần trên nhỏ gọi là hố trên gai,
phần dưới lớn gọi là hố dưới gai. Gai vai là một mảnh xương hình tam giác chạy
chếch lên trên và ra ngoài, sờ được dưới da. Ở phía ngoài gai vai dẹt lại tạo nên
mỏm cùng vai.
Có ba bờ là bờ trong, bờ ngoài và bờ trên. Ở phía ngoài bờ trên có mỏm
quạ là một mỏm xương có thể sờ thấy được trên người sống.
Các gồm góc: Góc trên hơi vuông, nối giữa bờ trên và bờ trong. Góc dưới
hơi tròn, nối giữa bờ trong và bờ ngoài. Trong tư thế giải phẫu, góc dưới nằm
ngang mức đốt sống ngực VII. Góc ngoài: có một diện khớp hình soan, hơi lõm
gọi là ổ chảo. Ổ chảo dính với thân xương bởi một chỗ thắt gọi là cổ xương vai.

Hình 1.2. Xương vai (mặt trước)
1. Mỏm quạ 2. Gai vai 3. Cổ xương vai 4. Hố dưới vai


6

1.1.2.3. Xương cánh tay [1]
Xương cánh tay là một xương dài, có một thân và hai đầu.
Thân xương: Hình lăng trụ tam giác có ba mặt và ba bờ. Mặt trước ngoài
ở 1/3 giữa có một vùng gồ ghề hình chữ V gọi là lồi củ delta. Mặt trước trong
phẳng và nhẵn. Mặt sau có rãnh chạy chếch từ trên xuống dưới ra ngoài được gọi

là rãnh thần kinh quay, đi trong rãnh có dây thần kinh quay và động mạch cánh
tay sâu. Do đó, khi gãy 1/3 giữa xương cánh tay, dây thần kinh quay dễ bị tổn
thương. Các bờ thân xương cánh tay có ba bờ là bờ trước, bờ trong và bờ ngoài.
Ðầu xương: Ðầu trên gồm chỏm xương cánh tay hình 1/3 khối cầu
hướng vào trong, lên trên và ra sau; cổ giải phẫu là chỗ hơi thắt lại, sát với
chỏm xương; cổ hợp với thân xương một góc khoảng 130 0; Củ lớn và củ bé;
giữa hai củ là rãnh gian củ; đầu trên xương cánh tay dính vào thân xương bởi
một chỗ thắt gọi là cổ phẫu thuật, vị trí hay xảy ra gãy xương.
Ðầu dưới dẹt bề ngang, gồm có: lồi cầu, mỏm trên lồi cầu trong và mỏm
trên lồi cầu ngoài. Lồi cầu gồm chỏm con tiếp khớp xương quay và ròng rọc
khớp xương trụ.

Hình 1.3. Xương cánh tay
1. Thân xương 2. Củ lớn 3. Chỏm cánh tay 4. Rãnh thần kinh quay 5.
Mỏm trên lồi cầu trong 6. Chỏm con 7. Ròng rọc


7

1.1.2.4. Xương cẳng tay [1]
Gồm hai xương là xương quay ở ngoài và xương trụ ở trong, hai xương
nối nhau bằng màng gian cốt và hai khớp quay trụ trên và khớp quay trụ dưới.
 Xương quay : là xương dài gồm một thân và hai đầu. Thân xương:
có 3 mặt và 3 bờ. Mặt trước bắt đầu từ lồi củ quay, xuống dưới thì rộng dần.
Mặt sau hơi lõm. Mặt ngoài lồi.
Các bờ: bờ trước, bờ sau, bờ trong. Bờ trong còn gọi là bờ gian cốt, sắc
cạnh có màng gian cốt bám.

Hình 1.4. Xương cẳng tay
1. Mỏm khuỷu 2. Mỏm vẹt 3. Chỏm xương quay 4. Cổ xương quay 5.

màng gian cốt 6.Mỏm trâm quay 7. Mỏm trâm trụ
Ðầu trên gồm chỏm xương quay, cổ xương quay và lồi củ quay. Chỏm
xương quay: có một mặt lõm hướng lên trên, khớp với chỏm con xương cánh tay,
một diện khớp vòng khớp với khuyết quay của xương trụ và dây chằng vòng quay.
Cổ xương quay là một chỗ thắt lại nằm phía dưới chỏm xương quay. Lồi củ
quay nằm ở phía dưới, giới hạn giữa đầu trên và thân xương.


8

Ðầu dưới lớn hơn đầu trên. Ở mặt ngoài đầu dưới xương quay có mỏm
xương nhô xuống dưới có thể sờ được dưới da là mỏm trâm quay.
 Xương trụ: là xương dài có một thân và 2 đầu. Thân xương có 3 mặt
và 3 bờ: Các mặt là mặt trước, mặt sau và mặt trong. Các bờ là bờ trước, bờ
sau sờ được dưới da và bờ ngoài là bờ gian cốt. Ðầu trên gồm mỏm khuỷu,
mỏm vẹt, khuyết ròng rọc và khuyết quay. Ðầu dưới lồi thành một chỏm gọi là
chỏm xương trụ. Phía trong của chỏm có mỏm trâm trụ.
1.1.2.5. Các xương cổ tay [1]

Hình 1.5. Xương của bàn tay
1. Xương cổ tay 2. Xương đốt bàn tay 3. Xương đốt ngón gần ngón trỏ
4. Xương đốt ngón giữa ngón trỏ 5. Xương đốt ngón xa ngón trỏ
Khối xương cổ tay gồm 8 xương, ở hàng trên từ ngoài vào trong có 4
xương là: xương thuyền, xương nguyệt, xương tháp và xương đậu; ở hàng đưới
từ ngoài vào trong có 4 xương là: xương thang, xương thê, xương cả và


9

xương móc. Các xương cổ tay sắp xếp lại thành một rãnh ở trước là rãnh cổ tay.

Rãnh cổ tay hợp với mạc giữ gân gấp thành ống cổ tay để các gân gấp, mạch
máu và thần kinh đi qua.
1.1.2.6. Các xương đốt bàn tay [1]
Khớp với các xương cổ tay ở phía trên và các xương ngón tay ở phía
dưới, có 5 xương được gọi theo số thứ tự từ ngoài vào trong là từ I đến V.
1.1.2.7. Các xương ngón tay
Mỗi ngón tay có 3 xương: xương đốt ngón gần, xương đốt ngón giữa
và xương đốt ngón xa theo thứ tự đi từ xương đốt bàn tay xuống, trừ ngón
cái chỉ có 2 xương.
1.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ XƯƠNG

1.2.1. Các giai đoạn hình thành và phát triển [5]
Trong phôi thai xương phát triển từ lớp trung bì và phát triển qua 3 giai
đoạn: màng, sụn và xương (trừ xương vòm sọ và một vài xương mặt không qua
giai đoạn sụn và một phần xương sườn cho đến già vẫn ở tình trạng sụn). Bộ
xương màng ở người hình thành vào tháng thứ nhất của bào thai. Màng biến
thành sụn vào đầu tháng thứ hai và được thay thế dần bằng xương ở cuối tháng
này của phôi.
Sau khi đẻ quá trình hoá xương còn tiếp tục cho đến khi hết lớn
(khoảng 25 tuần và phát triển thành 2 giai đoạn: giai đoạn đầu từ lúc đẻ đến
lúc dậy thì hệ xương phát triển mạnh hơn hệ cơ; giai đoạn 2 từ tuổi dậy thì về
sau hệ xương phát triển chậm hơn hệ cơ.
1.2.2. Quy luật phát triển của xương [5]
Quy luật tuổi dậy thì: trước tuổi dậy thì xương phát triển chiều dài, sau
tuổi dậy thì xương phát triển chiều dầy.
Quy luật dãn cách: có sự phát triển không đồng đều về chiều dài và
độ dầy hoặc 2 xương gần nhau một phát triển, một tạm dừng, chúng thay
đổi nhau.



10

Quy luật tỷ lệ: tuổi nhỏ đến 6 tuổi: 4 - 6 cm/năm; 6 - 15 tuổi: 7cm/năm;
15 - 25 tuổi: dài > dầy.
Quy luật bất đối xứng: hai xương như nhau (tay phải và trái) xương nào
hoạt động nhiều thì phát triển nhiều hơn.
1.2.3. Sự cốt hoá [5]
1.2.3.1. Nguyên tắc chung của sự cốt hoá
Có 2 cách hình thành xương:
+ Cốt hoá trực tiếp: chất căn bản của mô liên kết ngấm calci và biến thành
mô xương. Đây là xương màng như xương sọ và phần lớn xương đầu mặt.
+ Cốt hoá nhờ sụn: do chất căn bản của mô liên kết ngấm cartilagen
thành sụn. Sụn này tiêu đi để thay thế bằng mô liên kết non và dần biến thành
xương (xương havers, xương sụn).
- Quá trình cốt hoá có 2 hiện tượng đối ngược nhưng luôn xảy ra
song song: hiện tượng phá huỷ xương do huỷ cốt bào và hiện tượng tái tạo
xương do tao cốt bào.
- Quá trình cốt hoá có 2 giai đoạn liên tiếp nhau: cốt hoá nguyên phát
hay giai đoạn xây dựng xương và cốt hoá thứ phát hay giai đoạn sửa chữa
xương.
1.2.3.2. Cốt hoá trực tiếp
Cốt hoá nguyên phát: xảy ra trong thời kỳ bào thai. Vào khoảng tuần
thứ 9 của phôi, xương có dạng một màng liên kết, gồm tế bào trung mô và ít
sợi tạo keo và bắt đầu có các trung tâm cốt hoá. Tại trung tâm cốt hoá các sợi
nhiều lên đẩy trung mô ra xa. Tế bào trung mô dần hình thành tạo cốt bào.
Màng xương thành mô dạng xương gồm có chất căn bản, sợi và tạo cốt bào,
sau đó có hiện tượng ngấm vôi để tạo tế bào xương. Từ trung tâm cốt hoá, các
bè xương lan ra mọi hướng thành một mạng xương và mô dạng xương thành
mô xương. Mô xương tăng trưởng theo chiều rộng và chiều dầy, mặt ngoài



11

mô xương thành màng xương. Các tạo cốt bào ở mặt trong màng xương tạo
thành các lá xương xếp chồng lên nhau. Lá sâu nhất là lá xuất hiện sớm nhất.
Cốt hoá thứ phát: xương vòm sọ khi mới sinh là một mô xương đặc đồng
nhất, sau đó lớp giữa của vòm sọ bị phá huỷ thành những hốc nhỏ chứa tuỷ tạo
huyết và hình thành xương havers xốp được bọc trong 2 bản xương ngoài và
trong.
1.2.3.3. Cốt hoá qua sụn
- Cốt hoá nguyên phát:
Ở thân xương: giai đoạn phôi thai xương chỉ là mô sụn được bọc bởi màng
sụn. Màng sụn thành màng xương bao bọc quanh sụn trừ 2 đầu. Các mạch máu
đến thân mang theo mô liên kết. Mô liên kết thành huỷ cất bào phá huỷ sụn thành
tuỷ xương. Mạch máu tiến về 2 đầu thân xương làm hẹp sụn, rộng dần tuỷ. Nơi
giữa đầu và thân xương sẽ có vùng cốt hoá, sụn vùng này nhiễm calci thành
xương. Trong khi đó màng xương tiếp tục đắp những lá xương làm thành xương
dày lên.
Ở đầu xương: sự cốt hoá xảy ra muộn hơn, thường ở giai đoạn sau sinh. Bắt
đầu từ việc mạch máu đến sụn mang theo huỷ cốt bào phá vỡ ổ sụn thành
tuỷ xương. Phần sụn bao quanh tuỷ nhiễm calci thành xương. Giữa đầu và
thân xương còn chừa lại một băng sụn gọi là sụn đầu xương hay sụn tiếp
hợp và sẽ biến mất khi trưởng thành. Chỉ khi nào sụn đầu xương mất thì
màng xương ở đầu xương mới bị cốt hoá.
- Cốt hoá thứ phát:
Sự cốt hoá ở thân xương nhằm tạo hệ xương havers. Trong khi màng
xương tạo thành những lá xương ở mặt ngoài, thì từ tuỷ các mạch máu mang
theo huỷ cốt bào đào nhiều đường hầm dọc theo thân xương và nối với nhau.
Đồng thời tạo cốt bào đến tạo những lá xương đồng tâm làm hẹp lòng đường
hầm lại thành các ống havers. Như vậy hệ thống havers được thành lập. Sau



12

một thời gian, thân xương được cấu tạo bởi xương havers đặc. Chen vào giữa
hệ thống toàn vẹn mới được thành lập là hệ thống havers được tạo ra từ trước
và bị huỷ một phần (hệ thống havers trung gian). Khi nào tuỷ không to nữa thì
tạo cốt bào của tuỷ mới tạo các lá xương của hệ thống cơ bản trong.
Ở đầu xương tuỷ tạo cốt trong ở các hốc xương trong sụn sẽ dần tạo ra
các vách xương thành xương havers xốp.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng xương [5]
Ngoài yếu tố di truyền do bộ gen, sự cốt hoá và tăng trưởng xương chịu
ảnh hưởng bởi:
Giai đoạn phát triển cơ thể: ở trẻ em hiện tương tái tạo mạnh hơn hiện
tượng phá huỷ nên thành phần cấu tạo xương trẻ em khác người lớn. Xương
trẻ em ít chất vô cơ, giầu chất hữu cơ hơn ở xương người lớn. Do vậy, gẫy
xương trẻ em là loại gẫy do chấn thương nên rất dễ lành; trong khi người lớn
tuổi xương giòn, dễ gẫy thường là gẫy bệnh, khó lành.
Tình trạng mẹ Thiếu dinh dưỡng khi mang thai; ở trẻ đang lớn đặc biệt
Thiếu calci, vitamin D sẽ ảnh hưởng đến sự cốt hoá và tăng trưởng. Các bệnh
nội tiết như bệnh tuyến cận giáp làm ảnh hưởng đến sự hấp thu các muối
khoáng cũng làm ảnh hưởng đến bộ xương.
Khi vận động xương thường phải chịu tác động của một trong ba lực:
lực kéo, lực ép và lực trượt do ma sát. Các lực này đều làm ảnh hưởng đến
cấu tạo của hệ xương. Vì vậy tập luyện thân thể đúng cách sẽ là một động lực
cho hệ xương phát triển.
1.2.5. Sự tái tạo xương [5]
Khi xương gãy, giữa nơi gãy sẽ hình thành khối tổ chức liên kết do
màng xương, cân cơ, mạch máu tuỷ xương và hệ thống havers. Tổ chức liên
kết này ngấm vôi theo kiểu cốt hoá trực tiếp (cốt hoá màng) và làm lành

xương. Do đó khi mổ kết hợp xương không được lấy đi màng xương và các tổ


13

chức xương vụn, vì đây là nguồn cung cấp calci để tạo sự cốt hoá. Ngược lại
khi cắt đoạn xương phải nạo màng xương để tránh hiện tượng tái tạo xương.
1.3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ SỰ CỐT HÓA XƯƠNG THEO TUỔI

1.3.1. Phương pháp nghiên cứu hình ảnh chụp X quang cổ tay
Công việc của Rotch, Flory, Todd và Greulich và Pyle cho thấy rằng
khu vực tay cổ tay cung cấp một chỉ số hợp lý của sự trưởng thành của toàn
bộ xương của con khỏe mạnh. Các phương pháp phổ biến nhất để đánh giá sự
trưởng thành đã để căn cứ so sánh trên một loạt các phim điển hình của các
nhóm tuổi khác nhau. Tiêu chuẩn ảnh đó đã được xuất bản bởi Wilms, Rotch,
Englebach và McMahon, Siegert, Flory, Todd, Vogt và Vickers, Greulich và
Pyle và Mackay. Tuy nhiên, phương pháp này liên quan đến lỗi chủ quan
đáng kể. Để loại bỏ sau này, những nỗ lực đã được thực hiện để đánh giá sự
trưởng thành bằng cách đo kích thước của bóng tối của xương khác nhau trên
X quang. Các kỹ thuật như vậy đã ít được sử dụng bên ngoài các trung tâm,
trong đó họ đã được nghĩ ra bởi vì họ đã chậm, rườm rà và không chính xác.
Một phương pháp thứ ba đã được phát triển mà đòi hỏi phải chụp
(radiographing) tất cả các khớp ở một bên của cơ thể và đếm số lượng các
trung tâm mà đã cứng nhắc, và sau này, số lượng những đầu xương
(epiphyses) đã hợp nhất. Hệ thống này liên quan đến nhiều bộ phim X quang
và do đó tốn kém; nó cũng bỏ qua những thay đổi về cấu trúc xảy ra trong
những đầu xương giữa sự xuất hiện đầu tiên của họ và phản ứng tổng hợp của
họ với các những thân xương (diaphyses) [7, 20, 37].
Fishman đã phát triển một hệ thống các tổ chức đánh giá sự trưởng
thành xương như (SMAthành xương (SMIs -


skeletal maturation as- sessment)

skeletal maturity indicators)

dựa trên các chỉ số trưởng

đã chứng minh trên X quang bàn

tay để đánh giá các giai đoạn dậy dậy thì. Chuỗi sự kiện cung cấp một cách
tiếp cận phương pháp luận cho việc xác định các giai đoạn maturational cụ


14

thể mà bao gồm toàn bộ giai đoạn vị thành niên. Các SMI là một cách có tổ
chức và tương đối đơn giản để quan sát sự trưởng thành xương: nó sử dụng 11
địa điểm giải phẫu trên các đốt ngón, khép sesamoid và bán kính, không bao
gồm các xương cổ tay [18].
Bảng 1.1. Các vị trí xác định cốt hóa
SMI 1

Đốt ngón gần của ngón tay thứ ba cho thấy chiều rộng
bằng nhau và những đầu - thân xương

SMI 2

Đốt ngón giữa ngón tay thứ ba cho thấy chiều rộng bằng
nhau và những đầu - thân xương.


SMI 3

Đốt ngón giữa ngón tay thứ năm cho thấy chiều rộng bằng
nhau và những đầu - thân xương

SMI 4

SMI 5

Xuất hiện của khép xương vừng của ngón cái.

Giới hạn của đầu xương của đốt ngón xa trên ngón tay thứ
ba


15

Harjeet K1, Synghal S, G Kaur, Aggarwal A, Wahee P. Nghiên cứu
trên người sống ở Tây Bắc Ấn Độ [42].
Nghiên cứu bao gồm thu thập được 330 đồ thị bàn cổ tay X quang kỹ
thuật số có độ tuổi từ 8 đến 18 tuổi, được chia với một phân phối bình đẳng
của nam giới (165) và nữ (165). Sự đồng ý thành lập được lấy từ tất cả các cá
nhân những người tình nguyện và nghiên cứu đã được phê duyệt của Ủy ban
đạo đức của GITAM Cao đẳng răng và các bệnh viện, Visakhapatnam, AP,
Ấn Độ. Tất cả những đứa trẻ dường như bình thường và thuộc giai cấp trung
bình giữa tình trạng kinh tế-xã hội của họ. Bệnh nhân bị bệnh y khoa nghiêm
trọng và lịch sử của chấn thương vùng mặt và cổ tay bị loại khỏi nghiên cứu.
Đến tránh định hướng khi quan sát, mỗi X quang bàn tay kỹ thuật số của một
cá nhân đã được mã hóa và chỉ có một số nhận dạng số (1-330) để đảm bảo
rằng các giám khảo bị mù để quan hệ tình dục, tên và tuổi của các đối tượng. Hai

giám khảo (hai dây kẹp niềng răng hàm mặt - two maxillofacial orthodontists) đã
được đưa ra CD của hình ảnh và hướng dẫn để hoàn thành các trung gian cho tất
cả các hình ảnh. Để kiểm tra độ tin cậy của intraexaminer, mỗi giám khảo vô tình
tái đánh giá 30 hình ảnh của họ sau 1 tháng.


16

Bảng 1.2. Các vị trí xác định cốt hóa
SMI 6
Giới hạn của những đầu xương trên đốt ngón
giữa trên ngón tay thứ ba

SMI 7

SMI 8

SMI 9

SMI 10

Giới hạn của những đầu xương của đốt ngón
trung vào ngón tay thứ năm.

Sự gắn liền giữa những đầu - thân xương của
đốt ngón xa trên ngón tay thứ ba

Sự gắn liền giữa những đầu - thân xương của
đốt ngón gần của ngón tay thứ ba


Sự gắn liền giữa những đầu - thân xương của
đốt ngón gần của ngón tay thứ ba

Sự gắn liền giữa những đầu - thân xương
thấy Xương quay.
SMI 11

(Descriptive statistics of age of both sexes of skeletal maturation indicator)


17

Đánh giá của Staging của xương Cây trưởng thành Sử dụng chỉ số
trưởng thành từ xương tay Wrist X quang với Phương Fishman.Để đánh giá
các mô hình maturational của các chỉ số trong tay cổ tay, hệ thống 11-lớp
Fishman của (1982) [18] đã được sử dụng (Bảng 3).
Phân tích thống kê
Các dữ liệu được phân tích bằng cách sử dụng trọn gói thống kê Khoa
học Xã hội (SPSS) phần mềm, phiên bản 20.0 (SPSS Inc., Chicago, IL, USA).
Các phương pháp thống kê sau đây đã được sử dụng trong nghiên cứu này:
Độ lệch trung bình và tiêu chuẩn. Hệ số tương quan Pearson. Thứ hạng
hệ số tương quan Spearman. Kiểm tra t của học sinh (độc lập kiểm tra lấy
mẫu). Phân tích phương sai test (ANOVA). Phân tích hồi quy
Bảng 1.3. Thống kê mô tả 2 tuổi của cả hai giới của chỉ số trưởng thành xương
SMI

Males

No. of cases
SD

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
TOTAL

24
25
19
6
18
10
12
3
5
17
26
165

Females

Mean


10.17
12.00*
12.91
11.22
13.33
15.35*
15.56*
16.71*
16.26*
17.11*
18.11*
14.12

SD

Total

No. of cases

1.59 16
9.98
1.67 14
10.24*
1.93 7
11.62
1.34 12
11.12
2.25 12
12.13
1.84 4

11.54*
1.75 2
11.10*
1.15 13
13.97*
1.64 9
14.15*
1.30 25
15.45*
1.13 51
17.34*
3.17 165
14.01
* p<0.05 is considered as significant

Mean
1.40
0.99
1.63
1.18
1.32
1.28
1.40
1.86
1.53
1.58
1.67
3.18

40

39
26
18
30
14
14
16
14
42
77
330

SD
10.09
11.37
12.56
11.15
12.85
14.26
14.92
14.48
14.91
16.12
17.60
14.06

No. of cases Mean
1.50
1.68
1.91

1.20
1.99
2.43
2.31
2.04
1.84
1.67
1.54
3.17

Kết quả
Digital X quang bàn tay trong đó bao gồm các hình ảnh từ 165 nam và
165 nữ giới có độ tuổi dao động 8-18 năm được đánh giá bằng cách sử dụng
phương pháp của Fishman. Các giai đoạn SMI đã được ghi lại và phân tích
với tài liệu tham khảo để có nghĩa là CA. Độ lệch trung bình và tiêu chuẩn
cho các giai đoạn SMI được mô tả trong Bảng 2. Một sự khác biệt đáng kể
tuổi theo thứ tự thời gian (chronologic) đã được quan sát thấy trong thống kê
mô tả tuổi của cả hai giới cho giai đoạn SMI. Sự khác biệt có ý nghĩa trong


18

tuổi xương của cả nam và nữ tại SMI lớp 2, 6, 7, 8, 9, 10, và 11 đã được tìm
thấy là có ý nghĩa thống kê với p <0,05 tương ứng. Một tính năng đáng chú ý
quan sát là sự trưởng thành triển phát của nữ là sớm hơn so với nam giới.
Tuổi trung bình cho việc bắt đầu trưởng thành xương là 10,17 ±1,59 năm đối
với nam và 9,98 ± 1,4 năm đối với nữ (SMI 1). Con cái trưởng thành hoàn
thành xương ở tuổi trung bình 17,34 ±năm và nam giới hoàn thành 18,1 ±
1,13 năm (SMI 11). Các giá trị của F 44,60 đối với nam và 55,76 đối với nữ
được tìm thấy có ý nghĩa ở mức p <0,0001 (bảng 3 và 4). Một sự tương quan

đáng kể đã được tìm thấy giữa các độ tuổi theo thời gian và mức độ trưởng
thành xương (r = 0,82). Sự phân bố độ tuổi hợp lý chrono- tương đối cho các
chỉ số trưởng thành xương nam và nữ được vẽ trong hình. 1 và 2. chương
trình này rằng lứa tuổi của sự xuất hiện của SMI theo một tiến triển về niên
dần dần thông qua các thanh thiếu niên ven tăng trưởng.
Bảng 1.4. Phân tích phương sai độ tuổi của nam trưởng thành chỉ tiêu xương
(Analysis of variance
Source of variationSum of squares
df
1,225.823 10
122.582 44.596
Within SMI groups
423.309
Total
1,649.132
Table 4 Analysis of variance
of age of females of SMI

of age of males of skeletal matura- tion indicator)
Mean square
F
Significance Between SMI groups
.000
154
2.749
164

Source of variation

Sum of squares


df

Mean square

F

Significance

Between groups

1,299.489

10

129.949

55.758

.000

Within groups

358.911

154

2.331

Total


1,658.401

164

Công thức hồi quy đối với nam giới, phụ nữ và toàn bộ mẫu được lấy
để tính toán tuổi xương. Việc xây dựng phương trình hồi quy như sau:
Nam: tuổi = 9,956 + 0,628 (quan sát A1) 0,116 (quan sát viên B1)
Nữ: tuổi = 8,765 + 0,795 (quan sát A1) -0,072 (quan sát máy chủ B1)
Tổng số các mẫu: tuổi = 9,687 + 0,730 (quan sát A1) -0,046 (quan sát
viên B1)
Đáng kể và liên intraobserver tương quan hệ số của 91 và 98% đã được
quan sát. Cấp bậc tương quan Spearman cho thấy liên hệ giữa tuổi theo thứ tự


19

thời gian (chronologic) và mức độ trưởng thành xương ở phụ nữ (r = 0,86) và
nam (r = 0,84) (Bảng 5). Độ tin cậy của giải X quang trong và interexaminer
là chỉ ra mối tương quan cao giữa bài đọc ghi bởi hai giám khảo khác nhau.
1.3.2. Phương pháp CT Scanner xương
1.3.2.1. Hình ảnh Scanner xương chậu và xương mu
Chiara Villa, Maria Normand Hansen, Jo Buckberry, Cristina Cattaneo,
els Lynnerup [77]. Phân tích những thay đổi xương chậu (trabecular bone) và
xương mu (PB- pubic bone) và bề mặt (AS)của xương hông sử dụng 319 ảnh
CT scan của các tử thi để ước tính tuổi. Mặc dù độ sắc nét của các cấu trúc
xương chậu giảm trong hình ảnh CT khi các mô mềm, có mặt, chúng tôi đồng
nhất hóa bốn giai đoạn cho những thay đổi trong PB và bền mặt; một đặc điểm
chưa thành niên trong PB và một đặc điểm tuổi già trong bề mặt xương mu
giúp thu hẹp khoảng tuổi. cao tương quan với tuổi là đồng nhất hóa cho cả hai

giới trong PB (F 0,89; 0,75 M) và AS (F 0,85; 0,71 M) được sử dụng độc lập
hoặc kết hợp (F 0,91; 0,78 M). Những người lớn tuổi (> 60 tuổi) có thể được
đánh giá với độ chính xác tốt hơn và phân biệt đối xử trong nhiều giai đoạn.
Chúng tôi tìm thấy lỗi liên quan sát thấp và thiếu chính xác thấp.
CT scan cho phép điều tra các tính năng bên dưới bề mặt của xương,
bao gồm cả tính năng của xương chậu. Cấu trúc của những thay đổi xương
chậu với tuổi tác ngày càng tăng do sự mất cân bằng của các quá trình tu sửa
xương: do đó, mật độ xương giảm, chậu mất kết nối cho đến khi chúng biến
mất, và do đó làm tăng không gian bè xương. Các vị trí đầu tiên khảo sát X
quang xương chậu là biểu diễn bởi Todd, người đã phân tích xương mu. Chụp
cắt lớp vi tính (CT) được sử dụng để đánh giá sự thay đổi cấu trúc xương
chậu trên xương mu, các bề mặt nhĩ và đầu gần của xương cánh tay và xương
đùi. Micro-CT scan, CT và X-ray được so sánh trong một nghiên cứu định
lượng của những thay đổi xương chậu ở xương mu. Tuy nhiên, tất cả những


20

nghiên cứu đã phân tích xương chậu khô. Sự xuất hiện của xương xương chậu
là khác nhau trong khám nghiệm tử thi CT khi các mô mềm vẫn còn tại chỗ:
độ sắc nét của hình ảnh càng giảm và cơ cấu xương chậu có thể được nhìn
thấy với ít chi tiết hơn nhiều. Mục đích của nghiên cứu này là để phát triển
một phương pháp được áp dụng trực tiếp vào tử thi CT, tiến hành trước khi
khám nghiệm tử thi. Chúng tôi đánh giá những thay đổi xương chậu ở xương
mu (PB) và tiếp giáp với bề mặt (AS) sử dụng quét CT của các tử thi mà
không loại bỏ bất kỳ mô. Chúng tôi thay đổi tương quan với tuổi tác tăng lên
và phát triển một hệ thống tính điểm để ước tính tuổi người chết bằng cách sử
dụng cả hai lĩnh vực độc lập và kết hợp.
CT quét số mẫu số 319 CT scan của các tử thi (145 nữ và 174 nam
giới) với một độ tuổi từ 17-95 năm (phân bố tuổi Bảng. 1). Các thi thể được

quét trong vòng 3 ngày kể từ thời điểm chết và họ cho thấy không có hoặc rất
ít dấu hiệu phân hủy. CT quét được thực hiện như một phần của cuộc điều tra
thường xuyên của Forensic Viện Đại học Copenhagen [63] trong giai đoạn
2010- 2013. Một Siemens Somatom Sensation 4 Multislice máy quét xoắn ốc
được sử dụng với các thiết lập sau đây: 120 kV, 112 mAs ( giá trị trung bình,
Chăm sóc liều đã được sử dụng). Những người khác cài đặt (độ dày lát, lát
increment và hạt nhân) khác nhau giữa một số quét như sau: (1) 3mm lát cắt
dày 2 mm increment lát, hạt nhân mịn B31f (N = 151); (2) 1 mm lát cắt dày 1
mm increment lát, sắc nét B60f hạt nhân (N = 115); (3) 1 mm lát cắt dày 1
mm increment lát, B30f kernel mịn (N = 53).


21

C. Villa et al. / Forensic Science International 233 (2013) 393–

Biểu đồ 1.1. Sample age distribution by decades.
Chúng tôi cố ý bao gồm quét với các thiết lập khác nhau để kiểm tra sự
thay đổi giữa chúng kể từ khi không có giao thức chuẩn được sử dụng rộng rãi.
Một nhóm gồm 50 nam giới để đại diện cho độ tuổi 20-70 tuổi đã được
lựa chọn ngẫu nhiên để các hệ thống tính điểm mới. Thiết lập tương tự CTscan (3 mm lát cắt dày 2 mm increment lát, hạt nhân mịn B31f) và hiển thị
chúng với một cửa sổ hiển thị [-150, 1000] Houns fi Units (HU). Cửa sổ hiển
thị này đã được chọn vì nó nêu bật xương chậu một cách trực quan đầy đủ.
Đối với tất cả các đối tượng, một hoặc hai lát đã được lựa chọn và phân loại
trong nhiều giai đoạn khác biệt dựa vào mật độ của xương chậu. Sự hiện diện
của các tính năng hữu ích hơn nữa cho đoán tuổi tác đã được ghi nhận. Các
cation fi classi được thực hiện mà không biết tuổi của các đối tượng. Chúng ta
có thể nhận ra bốn giai đoạn cho những thay đổi của xương chậu ở vị trí
xương mu (PB) và trong bề mặt nhĩ (AS). Hơn nữa, một đặc điểm vị thành
niên ở xương mu và một đặc điểm tuổi già cho bề mặt nhĩ giúp trong việc thu



22

hẹp phạm vi tuổi trong giới trẻ và các cá nhân tuổi tương ứng. Trái và bên
phải không thể đánh giá một cách riêng biệt, kể từ khi người quan sát không
thể loại trừ một trong những đánh giá của người khác. Các giai đoạn tiên tiến
hơn cho phía bên trái hoặc bên phải đã được chọn trong trường hợp không
đồng ý. Có mối quan hệ giữa các giai đoạn và độ tuổi người chết, người ta áp
dụng hệ thống tính điểm mới cho một mẫu lớn hơn, thử nghiệm các ứng dụng
của các ghi bàn khi thiết lập giao thức khác nhau (độ dày lát, hạt nhân).
Một tập hợp các mô tả cả nam cả nữ được lập cho từng giai đoạn cho
cả xương (PB và AS) và một loạt các hình ảnh (Bảng. 3-6) đã được chọn là
đại diện tốt nhất của từng giai đoạn. Hình ảnh khác với lời giải thích chi tiết
của giai đoạn lựa chọn có thể được tìm thấy trong Phụ lục A. Tất cả các
những con số hiển thị hình ảnh CT của các đối tượng được quét với 3 mm độ
dày lát, hạt nhân mịn và hiển thị với một cửa sổ của [-150, 1000] HU.
Xương mu khu vực quan tâm: tất cả slide trong chế độ xem dọc trục của
xương mu, nơi cả hai mặt khớp mu trái và phải có mặt; (Hình 2). các ngành
ngồi mu không được xem xét. Không có điểm tham chiếu tiêu chuẩn phù hợp
có thể là đồng nhất cho mọi đối tượng, do đó, một số biến giữa 10 và 20 lát
(tùy thuộc vào độ dày lát, độ nghiêng và kích thước của xương mu) đã được
đánh giá. Mỗi slice là do giai đoạn một và một thường xuyên hơn được đưa
đến là giai đoạn của đối tượng.
Tỷ số chung: hai yếu tố cần phải được ghi để xác định số điểm: các giai
đoạn và sự hiện diện của tính trạng vị thành niên. Như vậy, số điểm là tổng
của các giai đoạn của mật độ xương chậu (1-4) và một '-1' 'điểm' nếu các tính
trạng vị thành niên đã có mặt.
Giai đoạn 1: xương chậu là rất dày đặc và đồng nhất; bên trong của
xương có vẻ homogenously fi lled với xương chậu. Có một bóng thống trị của

màu xám, nhẹ hơn so với các mô mềm xung quanh (Hình. 3).


23

Giai đoạn 2: xương chậu vẫn chủ yếu là dày đặc và đồng nhất, nhưng
có một số khu vực (dưới 20%) cho thấy một cấu trúc ít dày đặc. Có hai sắc
thái của màu xám, nhưng một trong những nhẹ hơn là chi phối.
Giai đoạn 3: xương chậu tục giảm nồng độ cao; xương chậu ít đậm đặc
hơn giai đoạn 2; Hơn nữa, có một số khu vực có rất lớn
C. Villa et al. / Forensic Science International 233 (2013) 393-402 395
C. Villa et al. / Forensic Science International 233 (2013) 393–402

395

Hình. 1. Region of interest in the pubic bone: (a) axial view; (b) 3D visualization of the bone. The rectangle indicates the area to evaluate.

Ảnh 1.1. Xương mu.
Tất cả lát được hiển thị với một cửa sổ của [-150, 1000] HU. Không có sự
thay đổi về độ sáng hay độ tương phản đã được áp dụng. Những hình ảnh bên
phải là một bản sao chính xác của một trái với các chú thích.
Giai đoạn 1: 17 tuổi nam. Các xương trabecular là rất dày đặc và fi lled
tất cả các bên trong của xương; có một bóng chiếm ưu thế và nó là nhẹ hơn so
với các mô xung quanh. Các xương nhỏ (được đánh dấu bằng một vòng tròn)
không hoàn toàn hợp nhất. Một số vị trí 0 được giao: 1 (cho giai đoạn) -1 (đối
với sự hiện diện của các xương nhỏ).
Giai đoạn 2: 34 tuổi nam. Các xương chậu hoàn toàn hình thành những
vùng giữa của xương, nhưng có một số khu vực có mật độ thấp (vạch ra với
dòng trắng mỏng).
Giai đoạn 3: 46 năm- nữ cũ. Các xương chậu ít đậm đặc hơn, và nó có

thể nhìn thấy cấu trúc xương chậu lớn (được đánh dấu bằng các vạch trắng);


24

cũng có những khu vực nơi xương chậu đã hoàn toàn biến mất (vạch ra với
dòng trắng mỏng).
Giai đoạn 4: 71-năm-tuổi nữ. Các '' khu vực 'rỗng' chiếm hơn 50%
(phác thảo với các đường màu trắng mỏng).

C. Villa et al. / Forensic Science International 233 (2013) 393–402

Ảnh 1.2. Juvenile tính trạng xương mu: (trái) vượt trội Ossi fi c nốt là được
nhìn thấy trong một nam 18 tuổi; (Bên phải) của Ossi fi cao c nốt phần hợp
nhất và trong một nam 21 tuổi.


25

Cấu trúc xương chậu hoặc khu vực nơi xương chậu là hoàn toàn biến
mất. Những khu vực bao gồm ít hơn 50% bề mặt. Không có bóng chiếm ưu
thế duy nhất của màu xám.
Giai đoạn 4: ấn tượng là phần lớn (hơn> 50%) diện tích là '' Rỗng ''. Chỉ có
vài khu vực có hài cốt của xương trabecular. Các bóng chiếm ưu thế là tối.
Đặc điểm vị thành niên (-1 điểm hiện tại nếu): các Ossi cao fi c nốt là
nhìn thấy được, và là hoặc chưa ngưng tụ hoặc một phần hợp nhất (Hình. 4).
An chưa ngưng tụ hoặc một phần hợp nhất cao nốt đã có mặt tại 6 nữ (4.14%
của mẫu; trung bình: 21 năm; SD 3 năm; phạm vi 17-26 năm) và 9 nam
(5.17%, có nghĩa là 19,8 tuổi, SD 2,2 năm , nằm trong khoảng 17-24 năm).
Bề mặt lỗ bịt của xương hông khu vực quan tâm: Xem hướng trục của

bề mặt bịt của xương hông ở mức độ 1 và đốt sống xương cùng thứ 2 (. Hình
5); một lát duy nhất được phân tích, kể từ một điểm tham chiếu thích hợp có
thể được đồng nhất trong tất cả các cá nhân.
Tỷ số chung: hai yếu tố cần phải được ghi để xác định số điểm: giai
đoạn và sự hiện diện của tính trạng loãng xương. Như vậy, số điểm là tổng
của các giai đoạn của mật độ xương chậu (1-5) và một '1' 'điểm' nếu các đặc
điểm tuổi già đã có mặt.
Giai đoạn 1: xương chậu là rất dày đặc và đồng nhất; bên trong xương có vẻ
mầu xám với xương chậu. Có một bóng thống trị của màu xám, nhẹ hơn so với các
mô mềm xung quanh. Không có sự khác biệt về mật độ hiện diện (Hình. 6).
Giai đoạn 2: xương chậu vẫn chủ yếu là dày đặc và đồng nhất như
trong
Giai đoạn 1, nhưng có một số khu vực (dưới 20%) cho thấy một cấu
trúc ít dày đặc. Có hai sắc thái của màu xám, nhưng một trong những nhẹ hơn
là chi phối.


×