Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.31 KB, 18 trang )

Lời mở đầu

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 vừa qua đã để lại
những tổn thất nặng nề đối với nền kinh tế của toàn thế giới, trong
tiến trình hội nhập nền kinh tế phát triển toàn diện của thế giới Việt
Nam là một quốc gia đang phát triển với nhiều tiềm năng trong tương
lai, tuy vậy vì là một nước đang phát triển còn non yếu về mặt kinh tế
nên cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 vừa qua đã có tác
động không nhỏ đến tình hình kinh tế của nước ta.
Nội dung của bài viết:
1. Chương I: Lý thuyết của Mác về khủng hoảng kinh tế và cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu 2008 vừa qua
2. Chương II: Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008 đến Việt Nam
3. Chương III: Chống suy giảm kinh tế ở nước ta hiện nay

1


Chương I
Lý thuyết của Mác về khủng hoảng kinh tế và cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu 2008

I/ Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa
tư bản
Trong sản xuất hàng hóa giản đơn , với sự phát triển của chức năng
phương tiện thanh toán tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng bùng nổ
khủng hoảng kinh tế.
Theo quan điểm của Mác, đến chủ nghĩa tư bản, khi nền sản xuất đã
xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh khỏi.
Từ đầu thế kỉ XIX, sự ra đời của đại công nghiệp cơ khí đã làm cho


quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị gián đoạn bởi những cuộc
khủng hoảng có tính chu kỳ. hình thức đầu tiên và phổ biến trong nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất thừa. Khi khủng
hoảng nổ ra hàng hóa khôngtiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều
doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản,công nhân thất nghiệp, thị trường bị
rối loạn.tình trạng thừa hàng hóa không phải thừa so với nhu cầu của
xã hội mà là thừa so với sức mua có hạn của quần chúng lao động.
Trong lúc khủng hoảng thừa đang nổ ra, hàng háo đang bị phá hủy
thì hàng triệu người lao động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ
không có khả năng thanh toán.
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt
nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. đó là mâu
thuẫn giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ

2


tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội.mâu thuẫn này biểu hiện ra các mâu thuẫn sau:
- Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất
chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính chủ trong
toàn xã hội,
- Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy mở rộng không có giới hạn
của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần
cùng hóa.
- Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm
thuê.
Cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra đầu tiên tại anh năm 1825 và cuộc
khủng hoảng kinh tế đầu tiên diễn ra trên quy mô thế giới nổ ra vào
năm 1847.

II/ Tính chu kì của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản
Chu kì kinh tế gồm bốn giai đoạn:
- Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kì kinh tế mới. Ở giai
đoạn này, hàng hóa ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình
trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công
giảm. tư bản vỡ nợ, phá sản…
- Tiêu diều: sản xuất trì trệ,không đi xuống nhưng cũng không tăng
lên, thương nghiệp đình đốn, hàng hó bán hạ giá, tư bản rỗi nhiều, để
giảm bế tắc các nhà tư bản đã hạ thấp tiền công của công nhân nhưng
lại tăng cường độ và thời gian làm việc của công nhân. Đổi mới tư
bản cố định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá,
đổi mới tư bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu
tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.

3


- Phục hồi:các xí nghiệp khôi phục và phục hồi sản xuất, công nhân
có việc làm, mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi
nhuận của tư bản tăng lên.
- Hưng thịnh: sản xuất vượt quá điểm cao nhất mà chu kì trước đã đạt
được, nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, nhu cầu tín dụng
tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức
mua của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng
kinh tế mới.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay khủng hoảng kinh tế là điều không
thể tránh khỏi, nhưng có sự can thiệp của tích cực của nhà nước tư
bản vào quá trình kinh tế. Sự can thiệp này mặc dù không triệt tiêu
được khủng hoảng và chu kỳ trong nền kinh tế nhưng đã làm cho tác
động phá hoại của khủng hoảng giảm bớt.

Theo Mác, các giải pháp để giải quyết khủng hoảng tài chính
hiện nay là:
- Một là thu lại lợi nhuận siêu ngạch trong các ngành phi sản xuất,
đưa về mức lợi nhuận bình quân của các ngành sản xuất và nộp lợi
nhuận siêu ngạch vào các quĩ của nhà nước và phục vụ an sinh xã hội
(điều 1 trong tuyên ngôn Đảng Cộng sản).
- Hai là áp dụng một hệ thống ngân hàng thống nhất, đảm bảo mức
cung ứng tiền tệ ổn định trong nền kinh tế, đảm bảo mức lãi suất
chênh lệch giữa các ngành có tỉ suất lợi nhuận khác nhau.
- Ba là kết hợp quá trình đào tạo với sự phát triển của lực lượng sản
xuất với khoa học kĩ thuật để đảm bảo cho cơ cấu lao động ở mức
hợp lí, phù hợp với điều kiện sản xuất của từng quốc gia nhưng
không bị chi phối bới thị trường.

III/ Khủng hoảng kinh tế ở Mỹ, nguyên nhân và tác động của nó
đến nền kinh tế toàn thế giới

4


Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ lâm vào tình trạng khủng
hoảng từ giữa năm 2007 và đỉnh điểm là tháng 9 /2008. Cuộc
khủng hoảng bắt nguồn từ cho vay nhà đất thứ cấp làm sụp đổ 3
trong 5 ngân hàng đầu tư lớn nhất nước Mỹ là Bear Stearns, Merill
Lynch, Lehman Brothers (chỉ còn lại Goldman Sachs và Morgan
Stanley) và 2 tập đoàn cung cấp tín dụng thế chấp thứ cấp bất động
sản lớn nhất nước Mỹ (chiếm gần một nửa bất động sản cầm cố
trong cả nước, khoảng 5.000 tỷ Đô la Mỹ) là Fannie Mae và
Freddie Mac được Chính phủ tiếp quản. Để cứu vãn thị trường tài
chính, tránh một cuộc sụp đổ hệ thống, Quốc Hội Mỹ đã buộc phải

phê chuẩn kế hoạch 700 tỷ USD để hỗ trợ thị trường tài chính.
Cuộc khủng hoảng tài chính cho vay thế chấp bất động sản tại Mỹ
cũng đã lan rộng và làm điêu đứng nhiều ngân hàng lớn tại các
quốc gia ở Châu âu như tập đoàn cho vay bất động sản Hypo Real
Estate, ngân hàng IKB, SachsenLB, DZ BanK, Deutsche Bank của
Đức; ngân hàng đứng thứ 2 Bradford & Bingley (B&B) và thứ 5
Northen Rock của Anh bị quốc hữu hóa; ngân hàng Dexia SA
Pháp; ngân hàng Fortis của Bỉ; ngân hàng Glitnir Bank của
Iceland; Ngân hàng Roskilde Bank của Đan Mạch; tập đoàn tài
chính Centro Properties của Úc.. Chính phủ các nước Châu Âu
cũng phải vào cuộc để cứu vãn tình thế, tránh một cuộc đổ vỡ hệ
thống tài chính, suy thoái kinh tế. Nhiều nước đã phải tuyên bố bảo
hiểm 100% tiền gửi ngân hàng của các cá nhân để bảo vệ người
gửi tiền, tránh tình trạng rút tiền ồ ạt.
Năm 2008 nước Mỹ đã rung chuyển trong cuộc đại suy thoái kinh tế
chưa có hồi kết khiến cho toàn thế giới phải một phen chao đảo.
Không ai có thể ngờ một tượng đài, một đầu tầu kinh tế thế giới lại
có thể suy sụp nhanh đến như vậy. Tuy nhiên theo đánh giá của các
chuyên gia kinh tế ngay trong nội bộ nước Mỹ thì cuộc khủng hoảng
này có nguyên nhân sâu xa từ chính cơ cấu và động lực tăng trưởng
bất hợp lý của nước Mỹ trong thời gian đó nhưng nó đã được bỏ qua
bởi các nhà hoạch định chính sách tự mãn và sự lạc quan thái quá của
người dân Mỹ.
Trong khi hầu hết các quốc gia trên thế giới thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thông qua đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu thì Mỹ đã chọn cho
mìnhmột con đường riêng để duy trì đà tăng trưởng kinh tế đó là
khuyến khích và đẩy mạnh tiêu dùng nội địa.Trong những năm này,

5



tiêu dùng của người dân luôn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ
cấu GDP của nước này và hiện đang tỷ trọng lớn đến 70% GDP.
Chiến lược này trong một thời gian đã tỏ ra rất hiệu quả khi lòng tin
của người tiêu dùng vào triển vọng của nền kinh tế đang ở mức cao
nhưng nó đã tạo nên một lỗ hổng to lớn trong nền kinh tế đó chính là
làm cho nền kinh tế trở nên mất cân bằng. Tiêu dùng của người dân
Mỹ đã dần dần trở nên quá mức bởi tư tưởng lạc quan thái và được
khuyến khích bởi sự dễ dãi của các tổ chức tín dụng trong cho vay
tiêu dùng. Chính điều đó đã tạo khoản thâm hụt thương mại cực lớn
và có dấu hiệu ngày càng tăng, đồng thời hệ thống kinh tế trở nên dễ
bị tổn thương hơn bao giờ hết bởi các mối quan hệ vay nợ dễ dãi và
chồng chéo.
Toàn cầu hoá bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong đó
có nguy cơ khủng hoảng toàn cầu. Sự thay đổi của các thị trường tài
chính với mức độ mở cửa thương mại và tài chính của các nước, mỗi
điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều dẫn tới khả năng khủng
hoảng.
Khủng hoảng kinh tế (wikipedia) là sự suy giảm của hoạt động kinh
tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Khủng
hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là nguyên nhân xảy ra khủng hoảng
tài chính vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng sản xuất
thừa sẽ làm gia tăng nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích tiêu dùng
hàng hóa. Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá
nguồn cung của xã hội, nhu cầu về tiền của nhân dân hay của các nhà
đầu tư trong và ngoài nước đã gây ra sức ép cho hệ thống ngân hàng
và tổ chức tài chính khiến cho ngân hàng và các tổ chức tài chính có
thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính chỉ là một phần của khủng hoảng
kinh tế nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt hại lớn nhất vì

các nước có tự do thương mại, nguồn vốn được di chuyển qua những
nước khác nhau nên khủng hoảng tài chính là yếu tố lây lan còn
khủng hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp lây lan.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính toàn cầu
nhưng khái quát lại có một số nguyên nhân chính: Theo chủ nghĩa
Mác – Lênin cho rằng: Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu chính là mâu thuẫn giữa khả năng sản xuất và nhu cầu
tiêu dùng của người dân; Sự mất cân bằng phát triển trong nền kinh

6


tế thế giới, sự nổi lên rất mạnh của một số nền kinh tế phát triển
khổng lồ như: Mỹ, Nhật, Nga, Anh, Đức, Pháp,… bên cạnh đó là các
nước đang phát triển với trình độ phát triển còn chưa cao; Do chủ
trương đẩy mạnh tư nhân hóa nền kinh tế, giảm bớt tối đa các thể chế
và sự can thiệp của nhà nước dẫn đến sự buông lỏng quản lý giám sát
đối với hoạt động của các tập đoàn tài chính ngân hàng và sự phát
triển quá nóng của nền kinh tế. Khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế
dẫn đến những vấn đề kinh tế, tài chính xã hội, môi trường… vượt
khỏi tầm kiểm soát của quốc gia.
Nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 –
2009 là do những tồn tại và bất ổn của kinh tế Mỹ như: Tỷ lệ tiết
kiệm cá nhân thấp, nợ nước ngoài khổng lồ; khủng hoảng nợ dưới
chuẩn; khủng hoảng bất động sản. Khủng hoảng tài chính Mỹ bắt
nguồn từ việc các ngân hàng nước này quá dễ dãi, tùy tiện khi cho
khách hàng vay tiền để mua bất động sản qua các hoạt động cho vay
không đạt tiêu chuẩn. Có thể nói một cách đơn giản là từ lâu nay, đa
số người dân vay tiền từ các ngân hàng để mua nhà với thời hạn hợp
đồng từ 10 – 30 năm. Nhưng trong khoảng 10 năm trở lại đây thị

trường nhà đất phát triển mạnh do các ngân hàng và các tổ chức tài
chính cho vay ào ạt tiếp thị tạo ra những hợp đồng cho vay không đạt
tiêu chuẩn và khuyến khích cả những người không có đủ khả năng
vay tiền để mua nhà. Ngoài ra, các tổ chức cho vay còn sáng chế ra
những hợp đồng bắt đầu với lãi suất thấp trong những năm đầu và
sau đó thực hiện với lãi suất thị trường. Hậu quả một số hợp đồng
cho vay khó đòi được nợ. Việc mua bán các loại chứng khoán phái
sinh được đảm bảo bằng những hợp đồng cho vay bất động sản có
thế chấp này chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế
của một số nước, từ những nước phát triển đến các nước đang phát
triển. Sản xuất bị đình trệ, tiêu dùng giảm sút do người dân “thắt lưng
buộc bụng” đã làm phá sản hàng loạt tập đoàn lớn cũng như những
công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhiều tổ chức tài chính của các nước
phát triển, nhất là các nước ở châu Âu đã tham gia vào thị trường tín
dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy, “bong bóng” nhà ở của

7


Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm cho các tổ chức tài chính này gặp nguy cơ
như các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ.
Hầu hết các khu vực trên thế giới đều bị tác động mạnh và rơi vào
tình trạng suy thoái toàn cầu trong năm 2009. Mỹ rơi vào tình trạng
suy thoái, Nhật Bản, Tây Âu tăng trưởng âm, các nước công nghiệp
rơi vào tình trạng của Nhật Bản những năm 90 đó là lãi suất 0% và
giá cả giảm xuống không có tăng trưởng. Các nền kinh tế có mức
tăng trưởng âm đứng đầu là Anh (-1,3%), Đức (-0,8%), Mỹ và Tây
Ban Nha (-0,7%), một số nước như Nga cũng chỉ tăng trưởng khoảng

3,5%, Trung Quốc khoảng 8,5%. Thị trường tiền tệ, chứng khoán của
làng đại gia thế giới cũng lâm vào tình trạng chao đảo, sụt giảm
nghiêm trọng. Nhiều đồng tiền lớn trên thế giới bị mất giá nghiêm
trọng, đời sống nhân dân khổ cực, tình trạng thất nghiệp tràn lan.

Chương II
Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 đến Việt Nam

8


Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã có tác động mạnh mẽ đến
hầu hết các nền kinh tế trên thế giới trong đó có Việt Nam. Qua quá
trình nghiên cứu, cuộc khủng hoảng đã có tác động nhất định đến thị
trường tài chính tiền tệ của Việt Nam, vì kinh tế Mỹ là một nền kinh
tế lớn chiếm 30% tổng sản lượng chu chuyển vốn của thị trường thế
giới. Trong điều kiện tất cả các quốc gia đều đã hội nhập nên bất cứ
hoạt động nào của nền kinh tế đều có ảnh hưởng nhất định tới nền
kinh tế thế giới. Ngoài ra, trong giai đoạn này Việt Nam còn chịu tác
động của lạm phát (trên 20%/năm) dẫn đến Việt Nam vừa phải kiềm
chế lạm phát vừa phải chống đỡ để thoát khỏi khủng hoảng. Cuộc
khủng hoảng này tác động đến kinh tế Việt Nam trên một số mảng cơ
bản:
- Đối với thị trường tài chính
Mặc dù Việt Nam không chịu tác động trực tiếp, nhưng tác động gián
tiếp cũng khá lớn. Tác động này được thể hiện thông qua việc các
khoản nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn khi
lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng. Lãi suất cho vay liên
ngân hàng quốc tế tăng dẫn đến nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các
ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp tăng, làm cho người dân

dự đoán đồng USD giảm nên họ đã rút đồng USD ra khỏi ngân hàng
hoặc bán USD mua tiền Việt Nam gửi vào,… làm cho cấu trúc tài
sản ngân hàng gặp khó khăn. Tuy nhiên, vì mức độ và khả năng liên
kết của các ngân hàng thương mại Việt Nam đối với hệ thống tài
chính quốc tế còn hạn chế nên các ngân hàng Việt Nam ít chịu tác
động trực tiếp.
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nhưng cũng
không đáng kể do sự liên kết giữa thị trường Việt Nam với thế giới là
không cao. Việc phát hành và huy động vốn trên thị trường quốc tế là
khó khăn và chi phí tăng cao. Việc huy động vốn gián tiếp vào thị
trường chứng khoán cũng khó khăn do các nhà đầu tư hướng tới các
kênh đầu tư an toàn.

9


- Đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Nền kinh tế Mỹ bị suy thoái ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của
Việt Nam, vì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Điều này
được thể hiện thông qua hai tác động sau: Thứ nhất, nhu cầu nhập
khẩu hàng hoá của Mỹ đối với Việt Nam (Việt Nam là một trong 37
nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường Mỹ, trong đó có một số mặt
hàng đứng thứ hạng cao như: Dệt may, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, đồ
gỗ, thuỷ sản...) giảm sút nghiêm trọng.
- Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Hầu hết các doanh nghiệp Mỹ và Châu Âu giảm đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài, nên việc thu hút FDI ở hai thị trường này của Việt Nam
đều bị tác động đáng kể. Hơn thế nữa, chi phí huy động vốn toàn cầu
tăng do biên độ tín dụng gia tăng dẫn tới khả năng thu hút đầu tư bị
hạn chế; tiêu dùng giảm sút dẫn tới việc giải ngân FDI giảm.

Hầu hết các nước trên thế giới đều phải đối mặt với tốc độ tăng
trưởng kinh tế chậm hoặc âm. Việt Nam cũng không thoát khỏi yếu
tố này. Trong khi lạm phátlà một vấn đề tiềm ẩn ảnh hưởng tới sự
phát triển kinh tế Việt Nam năm 2009. Ngoài ra, tiền gửi ngân hàng
nước ngoài và các ngân hàng trong nước bị giảm lợi tức do nhiều
nước nới lỏng tiền tệ để tránh lâm vào suy thoái sâu rộng; dòng ngoại
hối suy giảm; nhiều hoạt động kinh tế ở nước ta cũng gặp khó khăn,
đặc biệt các hợp đồng đã ký kết với đối tác nước ngoài bị ngưng trệ.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng dẫn tới giá nhiều loại
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh giảm, đặc biệt là
dầu thô. Giá dầu thế giới giảm đã ảnh hưởng đến nguồn thu ngân
sách do xuất khẩu dầu thô bị giảm sút. Ngoài ra, nhiều loại nguyên
liệu khác phục vụ cho hoạt động của nền kinh tế như sắt, thép, phân
đạm, giấy, xi măng cũng gặp khó khăn và thị trường tiêu thụ của các
ngành này bị thu hẹp....

10


Chương III
Chống suy giảm kinh tế ở nước ta hiện nay

Các Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chu kỳ của khủng hoảng
kinh tế gồm 4 giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi, và hưng
thịnh.Và khẳng định KHKT là người bạn đồng hành của nền kinh tế
TBCN. Giải pháp, theo ông, là các doanh nghiệp phải tự mình thoát
ra khỏi khủng hoảng bằng cách giảm tiền công, tăng cường độ lao
động và nhất là đổi mới tư bản cố định (máy móc, thiết bị,…). Đổi
mới tư bản cố định dẫn đến tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất, tăng
năng suất lao động, dẫn đến giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng

lợi nhuận, tạo ra sự phục hồi của nền kinh tế.
I/ Suy giảm kinh tế ở việt nam
1. Nguyên nhân của suy giảm kinh tế Việt Nam
Có hai nhóm nguyên nhân gây ra căn bệnh cho nền kinh tế: nguyên
nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
1.1.Nguyên nhân bên ngoài: ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
toàn cầu: các nền kinh tế lớn nhất thế giới như: Mỹ, Nhật, Tây Âu
đang bị khủng hoảng nặng nề chưa từng có sau đại chiến thứ 2.
Sản xuất đình đốn, hàng loạt DN phá sản, thất nghiệp tăng, thu nhập
giảm, sức mua trên thị trường thế giới thu hẹp.
Các nước phải điều chỉnh lại chính sách xuất nhập khẩu, chính sách
tỷ giá để bảo hộ hàng trong nước nên gặp nhiều rào cản cho hàng
Việt Nam xuất khẩu
Các dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam, nhất là FDI suy giảm.
Nhiều DN FDI đã đăng ký vốn nhưng đình hoãn hoặc chấm trễ khi
thực hiện. Năm 2008: FDI đăng ký 60 tỷ USD; tháng 1 năm 2009:
200 triệu USD.

11


1.2.Nguyên nhân bên trong







1.2.1. Cơ cấu nội tại của nền kinh tế có nhiều bất cập

thâm hụt cán cân thương mại.
Ba trụ cột chính của nền kinh tế Vn là: doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), xuất khẩu và FDI.
Nhưng DNNN thì đang kém hiệu quả (ICOR) quá cao, ICOR của các
doanh nghiệp tư nhân là 3-4, các tập đoàn kinh tế nhà nước là 6-7,
của cả nền kinh tế là 4,5.
Trong thời buổi suy giảm kinh tế hiện nay, có tính toán cho rằng
ICOR của nền kinh tế là 7-8, của DNNN là 10.
Xuất khẩu thì thị trường thế giới thu hẹp,
FDI giảm sút do khủng hoảng kinh tế nên các DN nước ngoài không
tiêu thụ được sản phẩm sản xuất ở VN nên giảm bớt đầu tư.
Các lĩnh vực khác phụ thuộc vào bên ngoài cũng bị ảnh hưởng: hàng
không, du lịch,.. đều suy giảm.
1.2.2.Ta đang đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong
bối cảnh lạm phát cuối 2007 ở Vn vào loại cao nhất trong khu vực,
các tác động trễ của cách chính sách thắt chặt tài khoá và tiền tệ
được thực hiện năm 2008 có thể vẫn còn đang phát huy tác dụng.
Mức thâm hụt thương mại của Việt nam là khá lớn, năm 2007: 17 tỷ
USD, chiếm 20% GDP (so với Trung Quốc thặng dư thương mại là
11% GDP).

Tỷ giá VND/USD chưa linh hoạt. NHNNVN công bố tỷ giá và dùng
các biện pháp để duy trì tỷgiá đó. Hiện tại, VND đuợc định giá quá
cao so với USD và các đồng tiền của nhiều nước đối tác thương mại
khác làm giảm khả năng xuất khẩu (giảm X), tăng nhu cầu nhập khẩu
(tăng M).
· Việt Nam chỉ có một lượng dự trữ ngoại hối nhỏ (Mức dự trữ ngoại
hối bình quân đầu người của Trung Quốc là 1500 USD, của Việt
Nam là 250 USD).


12


· Thâm hụt ngân sách: Quy mô chi ngân sách của Việt nam đã lên tới
30%, gấp đôi so với Thái Lan, Singapore, và Philippines, cao hơn
mức tối ưu cho tăng trưởng kinh tế 15-25% GDP. Do chi ngân sách
quá cao dẫn đến thâm hụt ngân sách liên tục những năm qua. Thâm
hụt ngân sách (kể cả chi trả nợ gốc) khoảng 5% GDP hàng năm,
được tài trợ thông qua vay nợ trong nước và nước ngoài.
Ngày 11/12/2008, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về
những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì
tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.
Trong năm 2009, phải tập trung hoàn thành và triển khai thực hiện
các chương trình, đề án đã được giao để thực hiện Chương trình hành
động của Chính phủ về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Thực
hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ sản xuất nông, lâm,
thủy sản, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, ưu tiên hỗ trợ
ngành hàng sản xuất, có lợi thế thay thế hàng nhập khẩu, sử dụng
nguồn liệu trong nước, sử dụng nhiều lao động.Thực hiện chính sách
tài chính, tiền tệ linh hoạt, giảm, giãn thuế cho doanh nghiệp. Cụ thể,
giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp. Giãn thời gian ân hạn nộp
thuế đối với một số ngành hàng. Thực hiện tốt chính sách về ân hạn
thời hạn nộp thuế nhập khẩu (275 ngày) đối với vật tư, nguyên liệu
nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu…
Chính phủ đã ban hành 2 gói kích cầu 9 tỷ USD để kích cầu đầu tư
và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội.
2. Các kiến nghị về giải pháp cho Việt Nam
2.1.Chính phủ cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới
công nghệ. Hỗ trợ lãi suất là một chính sách tốt nếu dành cho các
doanh nghiệp đổi mới công nghệ nhằm thúc đẩy đầu tư với công

nghệ mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho công
nhân. Cần thận trọng các công nghệ lạc hậu có thể bán thanh lý nếu
vào Việt Nam sẽ không thể tạo ra NSLĐ cao và thường gắn với tổn
hại môi trường.

13


2.2. Chính phủ cần điều chỉnh đầu tư công: tăng cường đầu tư vào
các dự án tạo ra nhiều công ăn việc làm, và thu nhập cho người dân,
nhất là người nghèo để tăng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Tăng
cường đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn và người
nghèo. Nông dân chiếm 73% dân số, 75% lực lượng lao động của
Việt Nam, là những người nghèo nên xu hướng tiêu dùng biên
(MPC) của họ là cao hơn của người giàu. Vì thể đầu tư cho nông dân
nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo có hiệu quả cao
hơn trong việc kích cầu.
Đầu tư cho nông dân và người nghèo trong lúc khó khăn còn thể hiện
sự quan tâm của Đảng và Chính phủ tới họ trong lúc khó khăn, đảm
bảo an sinh xã hội, duy trì ổn định chính trị. Chúng ta phải giảm bớt
đầu tư, đình hoãn các dự án công nghiệp nặng quá tốn kém, tạo ra ít
việc làm để đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn là những
ngành tạo nhiều công ăn việc làm cho người nghèo và đầu tư cho các
ngành tạo ra nhiều hàng hoá cho xuất khẩu. Trong thời khủng hoảng,
cầu về sản phẩm công nghiệp nặng, dịch vụ giảm nhanh hơn cầu về
nông sản. Sản xuất nông nghiệp, do vậy, vẫn là chỗ dựa cho nền kinh
tế tiếp tục ổn định trong lúc khó khăn. Khi kinh tế phục hồi thì cần
chuyển đầu tư công sang tăng cường đầu tư tư nhân để tăng cường
tính hiệu quả. Bên cạnh đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nông
dân, cũng cần ưu tiên đầu tư cho cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế để

vừa tạo việc làm, tăng thu nhập và tăng sức mua nhằm kích cầu trước
mắt nhưng cũng là để tạo ra sức bật mới cho nền kinh tế phát triển
bền vững sau thời kỳ suy giảm.
2.3.Chú trọng tìm thị trường cho xuất khẩu, hướng ngay vào thị
trường nội địa.
Xuất khẩu là một nguồn thu quan trọng cho đất nước, hàng năm
chiếm tới 60% GDP. Khủng hoảng kinh tê làm sức mua của thế giới
giảm. Xuất khẩu giảm ảnh hưởng nghiêm trọng tới các doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu. Một mặt, Nhà nước cần hỗ
trợ các doanh nghiệp tìm kiếm các thị trường mới. Mặt khác, thị
trường nội địa 86 triệu dân là một thị trường lớn, trên nhiều lĩnh vực

14


đang bị bỏ ngỏ, mặc cho hàng ngoại, nhất là hàng Trung quốc xâm
chiếm. Phải hướng ngay vào thị trường nội địa. Thị trường trong
nước phải là chỗ dựa cho các sản phẩm Việt Nam giữ vững sản
lượng trong khi mai phục chờ đợi sức mua của thị trường bên ngoài
hồi phục. Khủng hoảng kinh tế là cơ hội vì hàng loạt nhà sản xuất và
cung cấp bị phá sản. Nếu ai giữ vũng được sản lượng và chờ đợi thì
sẽ có thời cơ lớn để chiếm lĩnh và làm chủ thị trường thế giới khi nền
kinh tế thế giới phục hồi và hưng thịnh
2.4.Cần có sự nhất quán trong chính sách kích cầu.
2.5.Trong khi nhà nước đang cố gắng hỗ trợ doanh nghiệp lãi suất
cho vay để giảm chi phí thì Chính phủ lại đồng ý tăng giá điện làm
tăng chi phí sản xuất của DN, làm giảm nỗ lực kích cầu của nhà nước
khoảng 5000 tỷ đồng.
2.6.Thực hiện chính sách tỷ giá từng bước hạ giá đồng VND so với
USD để kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Nhưng sẽ phải

chấp nhận lạm phát ở một mức nào đó.
2.7.Thay đổi thể chế công khai, minh bạch, để các dự án kích cầu
được triển khai đúng mục tiêu, rút ngắn thời gian triển khai để sớm
phát huy hiệu quả, quan tâm chống tiêu cực trong triển khai các dự
án để giữ vững lòng tin của xã hội.
2.8.Cung cấp thông tin và tuyên truyền để quần chúng hiểu về
nguyên nhân của suy giảm kinh tế, hiểu , ủng hộ và tích cực, chủ
động tham gia thực hiện và giảm sát thực hiện các giải pháp của
Chính phủ. Phát động phong trào yêu nước người Việt Nam dùng
hàng Việt Nam.
3. Nguồn vốn nào có thể tài trợ cho các giải pháp?
 Phát hành trái phiếu để vay trong nước (nguồn quan trọng).
 Miễn giảm thuế để duy trì hoặc mở rộng DN: có thể sẽ làm thâm hụt
ngân sách vì phần thuế thu nhập DN tăng thêm do mở rộng DN
không đủ bù đặp phần thuế được miễn giảm.

15


 Sử dụng Quỹ Dự phòng.
 In và phát hành tiền: Cần thận trọng khi sử dụng chính sách tài chính
nới lỏng: phát hành nhiều tiền quá mức sẽ lại dẫn đến lạm phát.
 Vay nước ngoài.(nguồn quan trọng).
 Hoãn trả nợ. IMF thường ưu tiên các nền kinh tế chuyển đổi trong
việc cho hoãn trả nợ.

16


Kết Luận

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 vừa qua đã có ảnh hưởng
to lớn tới toàn bộ nền kinh tế của toàn thế giời trong đó có Việt Nam.
Trong thời dại hiện nay, thời đại của công nghiệp hóa hiện đại hóa,
thời đại của hội nhập kinh tế thế giới, chính phủ cần phải có thêm
nhiều chính sách hỗ trợ và phát triển nền kinh tế của đất nước, tích
cực phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đi
đôi với việc ngăn chặn và chống suy giảm kinh tế.Việt Nam là một
nước đang phát triển, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới
năm 2008 vừa mang đến những cơ hội thách thức đồng thời cũng
mang lại cơ hội cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế của
các nước nói chung và Việt Nam nói riêng. Đất nước chúng ta đã
chiến đấu vươn lên sau khủng hoảng kinh tế tài chính, chúng ta cũng
đã biết đón nhận cơ hội phục hồi và phát triển mà cuộc khủng hoảng
mang lại.Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính đất nước chúng
ta đã đứng dậy và phát triển ngày càng mạnh mẽ, mặc dù vẫn còn
những khuyết điểm, những thiếu sót và sai lầm trong các chính sách
phát triển kinh tế của nhà nước, nhưng điều đó cũng không thể cản
được bước đường vươn lên của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam sẽ
và đang ngày càng phát triển mạnh mẽ vươn lên sánh vai với các
cường quốc năm châu.
Do điều kiện thời gian nghiên cứu và viết bài không nhiều, kinh
nghiệm còn non kém nên bài viết sẽ không thể tránh được các sai lầm
và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp và nhận
xét của cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn.

17


Mục Lục
Chương 1………………………………………………trang 2

Chương 2………………………………………............trang 6
Chương 3………………………………………………trang 7

18



×