Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Giáo trình tâm lý học lao động phần 2 đào thị oanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 125 trang )

Chương IV

S ự THÍCH ỨNG HỆ THỐNG VỚI CON NGƯỜI

1. T rình b à y th ô n g tin tro n g hệ th ô n g

Troiig hệ thông, con người phải hiôn luôn đôl diện với rất
nhiềii nguồn thông tin. Một phần lớn trong số các thông tin đó
con người không thể tiếp nhận một cách trực tiếp và phù hỢp

bằng các cơ quan thụ cảm của mình. Trong trường liỢp này, các
thông tin thường đưỢc tiếp nhận một cách gián tiếp, nhò một số
bộ phận chỉ báo nluí : các máy đo (các bảng chia độ), các bóng
đèn hiệu hoặc các bảng tín hiệu, các ký hiệxi, sơ đồ, các tín hiệu
thính giác v.v...
1.1. Các p h ư ơ n g thức sử d u n g th iế t bi tr ì n h bày th ô n g tin
(c á c c á i c h ỉ báo)

Thao tác viên sử dụng các thiếr bị chỉ báo nhằm mục đích
thực hiện các chức năng và nbiệm vụ lao động khác nhau ; kiểm
tra thao tác, giám sát - tức là phát hiện ra một sô tín hiệu đột

biến; chẩn đoán một số tình trạng bất thường của quá trình công
nghệ trong các chế độ thao tác hoặc duy trì bảo dưỡng (đọc, so
109


sánh đôi chiếu, xử lí giá trị của cac thông sô' hoặc xử lí một sô'

chi tiết bị hòng hóc); điều chỉnh và hoàn thiện rac thiết bị và
q\iá trình công nghệ.


Các phương thức sử dụng thiết bị chỉ báo rhỏng tin đưỢc
phân loại căn cứ vào các loại thông tin mà chúng cung cấp. Nhìn
rhung, chiưig đưỢc dùng để :
1.1.1. Ch í háo thông tin về sô lưỢng

Thao tác viên cần phải đọc giá trị thực của một đại lượng
mà giá trị này có thể thay đổi thường xuyên hoặc có thể đứng
yên để so sánh với những giá trị khác

V.V..

1.1.2. Chỉ báo thông tin về chất ỉ.ượng
Thao tác viên phải xác định giá trị tiíơng đối của một đại
lượng liên tục biến đổi, xác định độ lớn, phương hướng và nhịp
độ của sự biến đổi đó,
1.1.3. Chỉ báo những thông tin kiếm tra
Thao tác viên phải xác định xem giá trị của một thông sô'
đang dần thay đổi có bình thường hay không?
1.1.4. Chỉ báo thông tin về tinh huống đột biến, báo động
nguy ỉiiếm
Nhờ các tín hiệii bằng thính giác, các đèn hiệii. các bảng
hiệu ... thao tác viên sẽ đưỢc thông tin về một tình huông ỉiay

trạng thái nhất định của thiết bị.

110


1.1.5. Chỉ báo thòng tììì kiếm tra các thao tác ra lệnh - điều
c h ỉn h


Nhờ cac cái chỉ báo. rhao tác viên kiểm tra xem các thao
tác đóng - mớ, dừng lại - khởi động hoặc điều chỉnh có đưỢc thực

hiện phù hợp với trạng thái hoác giá trị mong muôn lia 3' không.
1.1.6. Chì báo tìiông tin về tinh trạng

Thao tác viêii kiểm tra thao tác xác lập một biếu sô theo
một giá trị nhất định hoặc kiểm tra tình trạng của một chu
trìn h v.v...
1.1.7. Chỉ báo theo dõi
Thao tác viên theo dõi một tiêu điểm mà nó đang di
chuyển độc lập hoặc phụ thuộc vào các phản ứng của anh ta (đặc
biệt có giá trị trong ngành quân sự).
1.1.8. Chỉ báo đồng nhất
Các thao tác đồng nhất một điều kiện, một tình huống hay
một đôl tượng.
Sự phán loại này có giá trị đôl với việc lựa chọn các kiểu
thiết bị chỉ báo khi thao tác viên cần phải thực hiện nhiều chức
náng và nhiệm vụ đòi hỏi phải đôl diện với nhiều yêu tố thông

tin khác nhau, thậm chí rất máu thu ẫn nhau.
Như vậy, cái cầỉ báo là phương tiện truyền đạt thông tin
đến con người. Nhiệm vụ của các nhà tâm lí học kỹ sư là phải
làm cho nó thích ứng với những đặc điểm tri giác của con ngiíòi.
Để giải quyết nhiệm vụ này. các nhà tâm lí học phải nghiên cứu
111


khả năng của các cơ quan cảm giác của con người. Kết qiiả cho

thấy, việc sử dụng inỗi loại giác quan đều có ưu điểm và nhiiỢc

điểm của mình. Chảng hạn. thính giác là cảm giác liên tục hơii
so với thị giác, thị giác lại có tính lựa chọii và gián đoạn hơn. Bời
vậy, thính giác thích hỢp hơn với việc tri giác các kích thích

ngán ngừa do những kích thích này có thể xuất hiện bất cứ lúc
nào. Trong khi đó, tliị giác có khả năng phản ánh và tập trung
hoàn toàn vào những kích tliích nhất định, sau khi đã loại trừ
tấ t cả các kích thích khác.
Nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng ; trong nhiểii
trường hỢp, việc sử dụng kêt hỢp các chỉ báo thị giác và thính

giác cùng một lúc là có ý nghĩa (ví dụ, khi tìm kiếm các tín hiệu
ra-đa yếu).
Thường thường, tín hiệu âm thanh dùng để thu hút sự chú
ý vào tín hiệu thị giác. Chẳng hạn, tiếng chuông của máy báo
cho thao tác viên biết về sự cần thiết phải chú ý dến thiết bị và
can thiệp vào quá trình hoạt động của nó.
Trong một số trường hỢp, việc hướng vào cơ quan phân tích
xúc giác lại có ý nghĩa nhất định. Nhà tâm lí học Xô Viết TrênNhilipôp tạo ra một hệ thông các hình hình học nổi, những hìnli
này dễ dàng được pầân biệt và nhận biết khi chạm vào chúng.
Người ta gắn chúng lên các phím của máy linô thay cho các chữ
cái. Sau khi hiyện tập một thời gian ngắn, công nhân sắp chữ có
thể thực hiện việc sắp chữ theo các tín hiệu xúc giác với sự tham
gia tôi thiểu của thị giác. Tôc độ và độ chính xác của các động
tác được nâng cao rõ rệt.
112



Người ta cùng sử dụng rả cảm giác đau để truyền tín hiệu
về sự Iigiiy hiêin.
Trên thực tể, mặc dù người ta đã cô' gắng phán phôi thông
tin giữa các cơ quan phán tích khác nhau, nhưng phần lớn các
dụng cụ chỉ báo là dựa vào tri giác thông tin bằng mắt.
1.2. N h ữ n g cái c h ỉ báo có k im c h ì
Trong sô’ các dụng cụ chỉ báo thị giác thì dụng cụ chỉ báo
có kim chỉ giữ vai trò đặc biệt. Chúng gồm 3 loại ; chỉ báo những
thông tiu kiểm tra; chỉ báo những thông tin chất lượng và chỉ
báo thông tin sô' lượng.
Việc chọn loại chỉ báo nào khi thiết kế các phương tiện kỹ
th u ật là do đặc điểm cùa thông tin cần cho ngitời thao tác quyết
định.
Các nhà tâm lí học chú ý nhiều đến việc nghiên cứu sự phụ
thiiộc của độ chính xác và tốc độ của việc đọc các chỉ báo vào

hình dạng của thang chia đệr. Người ta đã so sánh khả năng đọc
đưỢc của õ loại hình dạng thang chia độ (Hình 6). Kết quả thu đưỢc
được ghi ở bảng 1 :

B ả n g 1. Sự phụ thuộc của độ chính xác của việc đọc vào hình
dạng của thang chia độ
Hình dạng của thang chia độ
Đọc sai thang chia độ tính theo %

a

b

c


d

đ

0,5

10,9

16,6

27,5

35,5

113




LO

i

'■d)

Ó2T, 5%)

t


5
6
J _ j _____Ì___ L_L

<í*>

0.5%
4
3
^



6

f /



o

.

(16,6V>
(đ)

(c>

H/n/? 6; Các hình dạng của bảng chỉ độ được nghiên cứu
a. Hình cửa sổ mở; b. Hình tròn; c. Hình bán nguyệt

d. Hình chữ nhật ngang; đ. Hình chữ nhật dọc

Như vậy, theo độ chính xác của việc đọc, các hình dạng của
thang chia độ được xếp theo thứ tự sau đáy ; cửa sổ mở, hình
tròn, bán nguyệt, chữ nhật ngang, chữ nhật dọc.
Nhưng, việc quyết định lựa chọn kiểu thang chia độ nào
còn phụ thuộc vào những nhân tô' khác nữa. Chẳng hạn, loại
“cửa sổ mở” là loại giúp đọc chính xác nhất, song lại ít thuận lợi
đối với các trường hỢp cần phải theo dõi sự biến đổi cơ động của

các chỉ số.
Ngitời ta cũng lưu ý đến vâ'n đề đường kính tôl viu của
thang chia độ khi nghiên cứii về các cái chỉ báo có kim chỉ và
thấy rằng giữa đường kính của thang chia độ với tốc độ và độ
chính xác cúa việc đọc không có một sự phụ thiiộc theo đường
thẳng, úhg với mỗi loại dụng cụ có một điíờng kính tôi Ifii, và liiệu

114


q\iả của việc đọc đưỢc quyết định không phải ở bản th â n đường
kính, mà là ở qiian hệ của nó đò'i voi khoảng cách quan sát.

Các nhà tâm lí học kỹ sư còn nghiên cứu sự phụ thuộc của
tôc độ, độ chính xác của việc đọc thông tin vào sự cluiyên động
của kim cliỉ hay của bảng chia độ. Các công trìn h nghiên cứu cho
thấy, nhân tố rhời gian của hoạt động có ý nghĩa quyêt định. Với
những thời gian lộ sáng ngắn (dưới o.õ giáy) thì dụng cụ cliỉ báo
có bảng chia độ chuyển động còn kim đứug yên là tôt hơn. Khi
thời gian lộ sáng tăng lên, thì loại dụng cụ có kim chỉ chuyển

động, còn bảng chia độ đứng yên là tốt hơn.
Trong tâm lí học lao động, các thành phần của dụng cụ cầỉ
báo có thang chia độ như : kim chỉ. các chữ cố, các vạch kẻ ...
đều được nghiên cứu một cách chi tiết.
Cliẳng hạn đôi với các vạch kẻ, có I‘liể có các vạch kẻ có
kích thước lớn. vạch có kích thước trung bình và vạch có kích
thước nhỏ. Thường thường, trên bảng chia độ, những vạcl^ lớn
điíỢc đánh số.

Trong việc thiết kế cụ thể các bảng cliia độ, người ta nhận
thấy thường có khuynh hướng nôi các vạch kẻ bằng một đường
thẳng ngang (Hình 7). W.T.Singlet 0 ĩi cho rằng, vấn đê này cần
phải

đưỢc giải quyết dưới á n h sáng cùa lí thu yết tri giác về

quan liệ giữa liìỉili và Iiềii. Vằ dơ vảy. thang chia độ càn phai
đưỢc th iế t k ế theo các nguyên tắc của tín h đơn giản, tín h liên

rục và tính thống nhất. Điều này được tliể hiện ở Hình 7.
l lõ


(

a

7 b

i c


Hình 7. Các cách thiết kế vach kẻ trên thang chia đc

Đôi với kích thước của các c/iỉ?«ô'trên thang chia độ, người
ta thấy:
- Tỷ

lệ

giữa chiều rộng và chiều cao của thaug f lúa độ phụ

thuộc vào inàu sắc của nền và của chữ số. Nếii chữ sô' có niàu
đen còn nền là màu trắng, thì tỉ lệ đó là 1/6 hoậc 1/8. Nếii chữ sô'
màu trắng và nền màu đen thì tỷ lệ sẽ ở trong khoaag từ 1/10
đên 1/20. Kếii sự tương phản giữa chữ số và nền là Iihỏ, thì tỷ lệ
đó sẽ là 1/5. Còn trong trường hỢp các chữ số được chiếu sáng thì
tỷ lệ đó nằm trong khoảng từ 1/10 đến 1/40.
- Tỷ lệ giữa chiều rộng và chiểu cao của chú sô'
1,25/1 là dẻ thày nhất.

bằng

- ớ một mức độ chiếvi sáng bình thường, chiều ( 1 0 của chữ

sô dao động từ 0,9 đến l.õ mm/30õ mm khoảng cách iọc. ở một
mưc đọ cbiêii sáng thấp hơn. chiềxi cao của chữ sô sẽ là 4
mni/30õ m::i khoảng cách đọc,
116



-

H ình dáng của chữ sô phải điíỢc viết như th ế nào đó đẽ

kliôug thể có sự nhầm lẫn giĩia so Iiay với sô kliác (ví dụ như đôi
với trường hỢp các chữ sô 3, n, 6. 8. 9 xiiất hiện trong một
nhóm).

Đôi với các kim chí. người ta xác nhận rằng, kầi kim
cluiyển động cùng như khi đứng yên. phải làm sao để nó đứng
gần các vạch chia độ nliấĩ Iihưng vản không phủ lấp các chữ số
(do đó. kim chỉ cĩmg không đưỢc quá dày. Khoảng cách giữa
đầu của kim và các vạch độ bằng khoảng 0.8 mm (Hình 8).
Trên các thang chia độ, để tạo ra sự tương phản màu sắc,
người ta thường sử dụng niàii đen và màu trắng. Trong điều
kiện chiếu sáng bình thường, các vạch kẻ. chữ số và kim chỉ
thường có m à u đen trên nền rrắng. ở mức độ chiêu sáng thấp
hơn, các vạch kẻ. chữ số và kiin chỉ sẽ có m à u trắ n g hoặc mà\i
vàng t r ê n n ề n màii đen.

/

-

V
Tốt

/^ 0
ệ'



V

■rrnimm

z

Không tốt
Tốt

Không tốt

Hình 8. Sư phản bố qua lai giửa kim chỉ và các vach kẻ trên thang chia đô

Những dụng cụ chúng ta vừa nghiên cửii trên đây là cần
t h i ế t đôi với việc đọc các tlióug tin về sô liíỢng dựa vào sự dịch

117


chuyển của kim chỉ trên thang chia độ trong một giá trị. Chinh
những dụng cụ đó còn co thể được dùng để đọc các thôiig tin về
chất lượng và nhữĩiể thỏng tin kiếm rra như; nhận định về sự
duy trì của một đại lượng đo đưỢc trong phạm vi các giá trị bìiih
thường; kiểm tra độ an toàn hoặc sự đi lệch vể phía các giá trị
đột biên; nhặn định vế hưổng của các dao độiig. độ lớn cùiig nhu'
nhịp độ của chúng. Đế thoả mãu yêu cầu của những nhiệm vụ
đó, đôi khi người ta không cần thiết kế các vạch kẻ trên thang
chia độ mà chỉ cần sơn màu với mộT ý nghĩa chinh xác lêu các
vùng khác nhau của nó (Hình 9).

cả n h giác
(màu vàng)

Bình íhườna
fmàu xanh)

Binh thường
(màu xanh)

Nguy hiểm
(rnàu đỏ)

Nguy hiểm
(màu đỏ) )

Hinh 9. Các dụng cụ có kim chỉ không có vạch kẻ trên thang chia độ (theo
E. J.Mc Cormichk)

Phân bô'các dụng cụ chỉ báo trên bảng hoặc giá điều kìuển
Có bôn nguyên tác phân bô'cơ bản tluròng được áp dụng là:
a)

Nguyên tắc tần sỏ'sử dụng: những thiết bị chỉ báo được sử

dụng thường xuyên nhất phải đưỢc sắp xếp ở vị trí thuận tiện nhất

(chẳng hạn ở vùng tôi líii : trung tám của giá điềii khiển - Hình 10).
118



b) N guyện tấc về tẩm quan trọìig: khi sắp xếp các dụng cụ

chỉ báo, cần ưu tiên nluìng dụng cụ mà sự sử dụng chúng đưỢc

gắn với độ nhanh và độ chính xác đặc biệt. Những dụng cụ dùng
để đo những đại híỢng vật lí quan trọng phải đưỢc đặt ở vị trí

tluiặn tiện nliất.
c) Nguyên

tắc

uề tính k ế

tục

của việc sử dụng: các dụng cụ

chỉ báo đitợc sử dụng theo một trìĩili tự nhất định thì cảu được
sắp đặt càng gần nhau càng tôt, và nên đặt thành một hàng
rhảng sao cho có thể được lần lượt sử dụng theo hiíớng từ trái
sang phải.
d) Nguyên tắc chức năng-, những dụng cụ chỉ báo thuộc
cùng một quá trình hay cùng một chức năng cần đưỢc xếp gần

nhau, theo một khối. Ngươi ta cho thấy có 4 phương án phân bô
rheo chức năng. Đó là:
- Phân bô' các dụng cụ chỉ báo theo một trật tự của quy
trình công ngliệ;
- Phân loại và bô' trí các dụng cụ cùng đo một đại lượng vật

lí vào một nhóm (ví dụ, cùng đo nhiệt độ đặt vào một chỗ, sau đó
đến nhóm những dụng cụ đo áp suất, sự bôc hơi
- Pliân loại và bố trí các dụng cụ chỉ báo theo các tổ liỢp
máy (ví dụ. tất cả các thông sô' kỹ thuật của một ĩổ hỢp đưỢc đặt

cùng vào niột nhóm ...).
- Phân bố theo các Iilióm chức năng. Nếu trong quá trình
công nghệ có thể tách ra những nhóm lớn các biên sô (đầu vào,
đầu ra. hoặc mang tính chất khác), thì các dụng cụ chỉ báo có
119


thể đưỢc phân bô theo các nhóm rương tự như vặy (chăng hạn.
trường hỢp nồi hơi ở rrung tám nhiệt lượng: các thông sô^ về
nhiên liệu, không khí, khí cháy, hơi nước ...)

Hinh 10 Vùng tối uli (a) và tối đa (b) trên bàn làm viêc

2- Các t h iế t bi điểu k h iê n

ở tại rất nhiều vị trí làm việc, kết quả hoạt động của con
người đưỢc thể hiện bằng một phản ứug cơ thể, một vặn động,

cho dù là mang' vác niột sô^ vật nặng, nhấn xiiông các phím cùa
một cliiếc mảy chữ, hay thao tac một thiết bị kiểm tra. Vi vặy.
cần nghiên cứu một cách kỹ lưỡng những khả náng' của con
người khi tiến hành các hoạt động vận động.

120



2.1. P h â n loại cá c vận đ ô n g

Nhíu cliimg. mọi vận động lao động cùa con người đều do
những kích thích của thế giới bên ngoài xác định và đềii thực
hiện một mục đích tự giác.
Trong mỗi vậii động lao động, có thể phân biệt ba mặt là :
mặt cơ học. mặt sinh lí học và mặr râm lí học. Muôn hiểii đưỢc

mặt tâm lí học, cần phải hiểu hai mặt kia.
Những đặc điểm cơ học của một vận động lao động được
xác định bằng 4 yếu tố sau :
-

Quỹ đạo vận động là con đường mà

tứ

chi phải thực

hiện trong không gian khi tiến hành việc vận động ấy. Trong
quỹ đạo vận động, Iigvtòi ra phân biệt ; liìnli thức, phương hướng
và khôi lượng của vận động (xét về khối lượng thì qiiỹ đạo vận
động của thợ sửa đồng hồ là tô'i thiểu và của thợ quai búa trong

xưởng rèn thủ công là tôi đa).
Về phương diện tâm lí học, Iigười ta phân tích qiiỹ đạo vận
động thành quỹ đạo tự do (thợ đồng hồ. thợ nguội đặt ông dâu,
thợ chỉnh niáy), quỹ đạo rập khuôn (thợ nề, thợ hái bông) và quỹ
đạo bắt buộc (thợ xẻ, thợ đứng máy).


-

Tốc độ vận dộng. Đó là độ lớii của con điíờng Iiià Iiìột vận

độiiẹ thực hiện đưỢc trong một đơn vị thời gian. Tuỳ thuộc vào
sự thay đổi tốc độ và gia tô'c. người ta có thể chia vận động
121


thành : vận động đều. vặn động nhanh dần đều và vận động
chậm dần đều. Tôc độ cua những vặn động lao động thường dao
động trong nhilng giới hạn khá lớn.
Về phương diện tâm lí học, người ta phán biệt: rôc độ tỗì
ưu (tôc độ thuận lợi Iihàt) và tôc độ tôi đa. Người fa. còn co tôc
độ tự do và tôc độ bắt buộc (đôi với thợ xe : tò'c độ vận động về

phía mình là tôc độ tự do. còn tô'c độ vặn động ra xa mình là tôc
độ bắt buộc)
- Nhịp độ vận động. Đó là tần sô lặp lại nhữưg chu trình

vận động như nhau. Số lượng những vận động có thể rất lớn (ví
dụ trong công nghiệp đóng giày, người thợ đóng đế phải dậm vào
đòn cùa máy ép 6000 lần trong một ca sản xuất. Người hái bông
phải thực hiện tới 600.000 vận động của các ngón tay trong inột
ngày làm việc. Còn nêii tính đên các vận động thì con sô”đó lên đến
ba triện).
- Cường độ vận động. Đó là sức nén, sức kéo, sức náiig
phải dùng tới khi thực hiện một vận động lao động. Mỗi loại
hình lao động có những yêu cầu riêng về ciíờng độ lao động. Nếu

so sánh người công nhân kliiián vác với người chỉ hviy dàn nhạc,
ta sẽ th ấ y cường độ v ậ n động của liọ rấ t khác nhau.

Tám lí học lao động rất clui ý tới những vấn đề sinh lí học
của các vận động, đặc biệt là sự điềii chỉnh cảm giác đôi với vận
động. Sự điều chỉnh này sẽ xác định được độ chính xác và độ
122


phối hỢp của các vận động đang thực hiện. Sự phôi hỢp vận động

íhông phải là sự chính xác hoặc sự tinh tê cùa nlũíng xung động'
thần kinh thụ cảm mà là niợt uhóni những cơ chê siuh lí đặc
biệt, tạo ra sự tác động qua lại liên tục và liữii cơ giữa quá trình
rhụ cảm và quá trình nhận cảm.
Đôl với tâm lí học lao động, điều quan trọng là, klii phân
tích các vận động lao động cần phải hiểu được mục đích đạt rới
nhờ vào những vận động cụ thể. Đồng thời cần phải nhớ rằng, có
thể đạt tới những mục đích khác nhau bằng cùng một vận động,
và, một mục đích lao động lại có thể đạt được nhờ vào những vận
động khác nhau.
Người ta cho thấy, có một sô' vận động cơ bản của tứ chi.
Đó là ;
- Co người xuống : làm giảm góc độ giữa hai phần của cơ thể
- Duỗi người ra : làm tàng góc độ giữa hai phần cùa cơ thể
- Kéo vào : vận động hướng

vể

phía




thể

- Đẩy ra : vận động hướng ra xa cơ thể
- Ấn tay xuống : quay cánh tay như t h ế nào để bàn tay úp

xiiống
- N â n g tay lên : quay cánh tay n h ư t h ế nào đó để b à n tay

ngửa lên trên
Sự pliân loại này do A.Damon, H.W.Stoudt và R.A.Mc
P arland tiến hành, đã mô tả vặn động của tứ chi dựa vào các
123


tính chất của các cơ (co, diiỗi) và của hướng vặn động đỏi vối cờ
thể (kéo vào. đáy ra).
Sự phán loại này còn rất chiing, vì vậy khi phán tích
phương thức tiên hàiih một hoạt động lao đọng thể chất Iiào đó
cần phải mô fả các vận động của cơ thể một cách thao tác hơn,
Về phương diện này, có thể tham khảo một phân loại sau đáy ;
a) Vận động đứng: là những vận động trong đó tay hoặc
chân dịch cluiyển từ một vị trí này sang một vị trí khác (chẳng
hạn để nhấn vào một cái nút điều khiển);
b) Các vận động hên tục: là những vận động nhờ đó ngiíời
ta tiến hành điểu chỉnh liên tục dựa trên n h ững thay đổi của
một sô kích thích kết hỢp với nhiệm vụ (ví dụ. điều khiển tay lái


một cliiếc ô tô).
c) Các vận động điều khiên (cầm, nắm) : bao gồm việc sử
dụng và điều khiển một số phần, phương tiện hay cơ chế kiểm tra.
d) Các vận động lặp lại là những vận động ngắn hạn và
được lặp lại một cách liên tiếp (ví dụ, quai búa).
e) Các vận động cách quãng là những vận động tương đối

tach rơi nhau, độc lập với nhau trong từng quãng thời gian.
Những vận động này có thê có cùng tính chất (đánh đàn pianô,
thao tác trên một máy tính, đánh máy chữ) hoặc khác nhau
(chẳng hạn. những vận động thực hiện để khởi động cho một
chiếc ô tô chạy trong một đêm trời miía).
124


D Vận động tĩnh thực chất là một sự không vận động hơn
là một vặii động tự tháu, bô'1 vì đó là sự duy trì của một tư thê
riêng trong một khoảng thời gian n h ấ t định.
Các loại vận động lao động khác nhau này có thể kêt hỢp
với nhau, và như vậv. chúng có ĩhể lồng vào nhaii. Chảng hạn.
dịch clmyển bàn chán trên một chân phanh là một vận động
đứng, nhưng IIÓ có thể đưỢc đi kèm với một vận động tĩnh của áp
lực phanh tuỳ theo các điề\i kiện của tình huống; tương tự, một vận
động liên tục củng có thể đi kèm với một vận động tĩnh (khi phải
giữ ở một tư thế nhất định) trong một khoảng thời gian ngắn.
Những loại vận động thao tác này đưỢc gọi là những vận
động vĩ mô. Đôl với một số mục đích nhất định, đặc biệt trong
nghiên cứu các biện piiáp lao động, trong đó người ta tìm cách
đồng nhất các vận động cơ bản, thì các loại vận động vi mô
thưồng được sử dụng hơn. Chẳng hạn, lựa chọn, cầm nắm, giữ,

đặt xuông, vặn vào v.v... Cơ sở của các loại vận động này là khái
niệm “Therbỉig” có từ những năm đầu của thế kỷ, trong các tài
liệu của 2 vỢ chồng nhà kỹ sư và tám lí học Lilian Gilbreth và
Frank Gilbreth.
Các loại v ận động lao động còn đưỢc p h â n th à n h những
nhóm sau:
a)

Những vận động cơ hảir. là n h ữ n g vận tôi tliiểu, cần

thiết để đạt đưỢc mục đích của hoạt động lao động,

về

phiíơng

diện lí thuyết, những vận động này đưỢc thực hiện trong những
điều kiên thuận tiện nhất.
125


b) N hững vận động hiệu cìiỉnh: là nhĩỉng vận động làm
chính xác những vận động cơ bản cho phù hỢp với độ lệch cua
những điều kiện lao động so với những điều kiện thuận lợi nhất.

c) Những vận động bô sung: những vận độiig này không
tluiộc về nhiệm vụ cơ bản nhưng lại cần thiết vì có những vếii tố
bổ trỢ đòi với quá trình lao động chủ yếu.

d) Những ưận động sửa chữa: Những vận động này cĩing là

những vận động bổ sung, nhưng lại cần thiết cho việc khắc phục
những tình huông hỏng hóc. Do vậy, chúng được pliáii thành
một nhóm riêng (vì tính chất quan trọng của chúng),
e) Những vận động thừa: Những vận động này không cần
thiết và thường cản trở những vận động thuộc các nhóm kể trên.
g) Những vận động sai: là những vận động không đạt được
mục đích đặt ra.
Người ta còn có thể căn cứ vào những đặc điểm khác nhau
của vận động lao động, mà chia chúng thành các loại như : vận
động đúng và vận động sai; vận động tiết kiệm và vận động
không tiết kiệm; vận động nlianh và vận động chậm. Chẳng hạn
những vận động do tay thực hiện hướng về phía thân mình thì
chính xác hơn nhưng chậm hơn so với những vận động theo
hướng đi ra. Trong mặt phảng thảng đứng, sự chuyển dịch tay
sẽ nhanh •hơn nhưng kém chính xác hơn so với sự chuyển dịch
tay trong mặt phẳng nằm ngang.
126


2.2. Chức n ă n g c ủ a cá c bô p h ậ n điều k h iên

Bộ phận điền khiển là những con đường hay những
phương tiện nhờ đó thao tác viên điều chỉnh và tối líu hoá sự
vận hành của một chiếc máy hay một qiiá trình. Các bộ phận
điều khiển là những rliiết bị truyền thông tin của hệ thông và có
thể được đặc trưng ở ỉoại thông tin curig cấp. E.J.McCormick đã
hệ thống hoá các chức năng của dụng cụ điều khiển và loại
thông tin tương ứng theo cách sau đây ;
Loại kiểm tra chức năng


Loại thông tin

a) Vận hànli (xuất phát - dừng lại)

Thông tin về tình trạng
Thông tin về tình trạng

b) Điều khiển không liên tục (ở
từng vị trí riêng rẽ)

Thông tin số lượng
Thông tin kiểm tra

c) Kiểm tra sô' lượng

Thông tin vê' sô' lượng
Thông tin về sô' lượng

d) Kiểm tra liên tục

Thông tin tính toán
Ghi lại thông tin

e) Nhập dữ liệu (vi tính, đánh
máy ...)
2.2.1.

Thông tin mã hoá

Phân loại các bộ phận điều khiển


Cán cứ vào các chức năng trên, có thể phân loại các kiểu
bộ p h ậ n điều khiển sau đây :

127


B ả n g 2, Các kiểu bộ phận điều khiển và chức náng của chúng
Chức năng
Bộ phận điếu khiển

Hoạt

Điều khiển

Kiểm tra

Kiểm tra

Đầu

hóa

không liẽn tục

số lượng

liên tục

vào


X

X

6. Tay quay (m a-ni-ven

X

X

7, Vỗ lãng

X

X

8. Tay gạt (cần gạt)

X

X

9. Bàn đạp

X

X

1, N út bấm bằng tay


X

2. N út

X

bấm bằng chân

3. Khóa ngắt

X

X

4. C ông tắc xoay có chọn lọc

X

5. Núm xoay

X

10. Bàn phím

2.2.2.

X

Hiệu quả cùa các bộ phận điều khiển phụ thuộc vào


việc tín h đến n h ữ n g đặc điểm n h á n trác và những đặc điểm tám

lí của người thao tác. Các nhà nghiên cứu tâm lí học lao động đă
đưa ra những yêu cầu đốì với việc thiết kế các bộ phận điều
khiển. Nliững yêu cầu này dựa trên việc nghiên cứii các vùng
làni việc tôi ưu và đặc điểm vận động của con ngưòi (cường độ,
độ chính xác, quỹ đạo, tòc độ). Việc nghiên cứu các động tác lao
động đã đưa ra những chĩ dẫn cụ thể về sự tác động qua lại của
chức năng và sự bô^ t r í các đôi tượng điíỢc điều khiển (các cái chỉ
báo thông tin) và các bộ phận điều khiển các đôi tưỢng đó.

128


Nhiều công trình nghiên cửu đã chỉ ra sự p h ụ thuộc cua
độ chính xác của các vật) động vào hướng đi của tín kiệu.
Những cóng rrình nghiên cửu khác lại tìm ra những môi
tương quan khúc nhau giữa các quỹ đạo chuyến động của tín
hiệu và bộ pìiậìi điều hhièiì trong hoạt động theo dõi. Người ta
thấy rằng, trong nhvíng' điều kiện ngang bằiig vững chắc, thì độ
ch ính xác cao n h ấ t của động rác sẽ đạt được khi có sự trù ng hỢp

giữa hướng clmyểii động của nó với hướng của tín hiệii. Kết luận
này cũng đúng cả với những đối tưỢng đưỢc điểu khiển (các cái

chỉ báo).
2.3. Các n g u y ê n t ắ c th iế t hê hô p h â n đ iê u k h iể n

Các nghiên cứu của tâm lí học kỹ sư đã đưa ra hàng loạt

yếu tố nhằm giiip cho việc thiết kê tô't nhất các bộ phận điềii
khiển.
2.3.1. N ú t bấm bằng tay. Bề mặt của nút bấm phải lớn hơn
đầii ngón tay dùng để thao tác; không nên nhỏ hơn 9,õ mm^ . Để
dễ dàng thao tác, trên bề mặt của nút bấm nên làm hới ráp. Cliu
vi của nút bấm có thể là 3 đến 25 mni trong điều kiện thao tác
không cần găng tay và tíí 6 đến 50 mm trong trường hợp thao
tác có g ă n g tay. Để t r á n h x ả 3' ra trường hỢp n ú t bấm có thể bị

ấn bất ngờ (ngẫu nhiêu), nên đật nó hơi sâii xuông ở trên giá
điều khiển hoặc được bảo vệ bàng một khung nhỏ.
2.3.2. N ú t bấm bằng chần. Thướng thường nút bấm đưỢc
thao tác bằng mũi chán, là điều làm cho nó có những đạc điểm
rấ t giông với một bàn đạp. Bộ phận điều khiển loại nầy thường
129


đưỢc ử dụng khi cả hai tay đểu bận. Đường kính của nút bấm.
trong trường liỢp này. không phải là điểu rất quan trọng nhưng
nếu quá nhỏ thì sẽ dẫn đến chỗ là, một lực quá lớn sẽ được áp

dụng lên một diện tích quá ahô của bàn chán (gáy đau). Vì vậy,
đường kính tôt nhất có thể nằm trong khoảng

12,7 - õOmm.

Chxi vi của nút bấm sẽ khác nhavi, tiiỳ theo điềii kiện cụ thể :
nếu thao tác viên đi giày thì sẽ ở trong khoảng 12,7 - ÕO mm
(nhỏ) còn nếii tliao tác viên đi ủng thì sẽ ở trong khoảng 25 - 100
mm (lớn hơn).

2.3.3. Khoá ngắt.

Đó là một tay gạt nhỏ điíỢc sử dụng

nhiều nhất là 3 vị trí, và phải ở 30*^- 40° so với vị trí trung tâm.
Có thể tác động

nhanh và đồng thời

nhiểu khoá ngắt nếu

chúng được đặt trên cùng một hàng thảng.
2.3.4. Công tắc xoay có chọn lọc. Loại công tắc này rất có
lợi khi cần một số lượng lớn các vận động. Nó còn có tác dụng là
chiếm ít chỗ do thay thế được cho một loạt nút bấm hoặc klioá
ngắt ở hai vị trí. Số lượng các vị trí có thể nằm trong khoảng từ
3 đến 24, với khoảng cách tôi thiểu giữa hai vị trí kế tiếp nhavi
là 6,5 mm.
2.3.5. N ú m xoay . Là một dụng cụ kiểm tra có thể thao tác
th u ậ n tiện bằng cách dùng các ngón tay xoay (vặn) về hai bên.
Dụng cụ này có thể được sử dụng cho những vận động nhẹ
n h à n g trong trưòng hỢp c ủ a một số chức n ă n g liên tục khi độ

chịu tải riêng của thiết bị và của các hệ thống được tác dụng là
qiiá nhỏ. Tuỳ theo độ chịu tải khi quay mà-có thể đưa ra một
đường kính tôl ưu. Nhìn chung, nằm trong khoảng 50 min.
130


Thường thường, khi có nhiều núm xoay cần đưỢc thao tốc đúng

thì cần phải phân biệt chúng chủ yếu bàng hình dạng và độ lớn.

Đối vớiìcác núm xoay, có thể phán biệt cả bằng cấu trúc của bề
mặt. Thông dụng nhất là có ba loại sau :
- Bề mặt phẵng, trơn;
- Bề mặt có những điíờng rãnh;
- Bề m ặt có các mấu;
Khi người ta lắp đặt nhiều núm xoay có kích thước khác
n h a u trên cùng một trục thì đòi hỏi một sự phân biệt bằng xúc
giác đúng (Hình 11)

e

Hình 11. Các kích thước cho phép để giúp dễ phân biêt bằng xúc giác đối với
các núm xoay được lẳp trên cùng một trục,(E. J.Mc Cõrmick)

131


- Chiều dày của núm xoay (a) có thế là 1/4 inch nế\i đitòng
kính là 3 inch.
- Đường kính của núm xoay (b) không nèn lớn hơn 3 iiich.
1
1
- (c) Núm xoay ở giữa : đường kíiih trong khoảng ^2 ^ 2

inch. Tô't nhất là khoảng 2 inch.
- (d) không nên nhỏ hơn

5/8


incli hoặc lớn hơn 3/4 iiich.

- (e) không nên nhỏ hơn

1/2 incli.

- Khoảng cách giữa bề mặt của hai núm xoay không nên
nhỏ hơn 3/4 inch (í). [1 inch - 2,õ4cm]
2.3.6.

Tay quay là một thiết bị điíỢc sử dụng khi góc quay

lớn hơn 90'', yêu cầii phải thực hiện những vòng quay đầy đủ và
n h anh trong trường hợp cần tác động những lực lớn để vận hàuh
những cấu kiện của tnáy. Giá trị tôi thiểu của đường kính tay
quay thay đổi tuỳ theo lực tác động, theo những vị trí khác
nhaii, theo chiềii cao so với mặt đất. Vị trí thuận tiện nliất là ở
trước mặt người thao tác theo đường thẳng ngang và gần với
trọng tâm của cơ thể. Đối với hai tay. người ta tạo ra một vùng
làm việc tối líu có hình dạng của chữ “U”. tức bao hàm cả chiêu
cao của hai vai. Những tay quay được đặt theo mặt phẳng ngang
đôl với thân ngiíời có thể đưỢc sử dụng tương đối thiiặn tiện,
nhiíng. do đòi hỏi một vòng quay rộng của tay và của vai. cho
nên tô'c độ quay thường nhỏ

hơn so với tốc độ của những tay

qu ay đưỢc đặt theo chiền dọc vối t h â n người.


132


2.3.7. Cần gạt là một loại thiết bị được thao tác bằng tay.
có hình dạng của một cái gậy. vặn hành xung quanh một điểm
tựa. Cần gạt được sử dụng khi quãng đitờng đi là Iigắn, đòi hỏi
một vận động nhanh nhưng phải rấ t chính xác và khi cung vận
động lớn hơn 90".
Khi tiến hành những vận động nhẹ nhàng, cần thiết kế
các giá đỡ (điểm tựa) cho một số phần của cơ thể : cho khuỷu tay
trong những vận động rộng của tay, cho cánh tay và những vận
động nhỏ (vi động tác) và cho cổ tay khi việc thao tác sử dụng
các ngón tay.
2.3.8. Vô lăng ; là một thiết bị tròn, thao tác thuận tiện
bằng hai tay. Được sử dụng trong những trường hợp sau: Vận
động đòi hỏi 1 vặn tốc quay nhỏ (một vòng trên một phút), đối
với những động tác nhẹ nhàng khi cung dịch chuyển không vượt
quá 90*^* - 120'^; yêu cầu vòng quay phải rất chính xác; khi đòi hỏi
những lực tác động lớn hơn so với các thiết bị khác. Khi ữhao tác
viên ngồi trước vô lăng, đường kính tối thiểu thay đổi tuỳ thuộc
vào lực điíỢc y ê u cầii và chiều cao tín h từ sàn.

Để vận động tiến hành được chính xác, cung dịch chuyển
của vô lăng không nên vượt qua ± 60“ so với vị trí bình thường,
nếu ciing dịch chuyển lớn hơn. thì cần thay đổi vị trí của tay
trên vô lăng.
Khi thao tác viên đứng để thao tác vô láng trung tâm của
vô lăng đặt theo mặt phẳng đứng, thì vô láng phải được đặt cao
ng^ng với chiều cao của kluiỷii tay (khoảng 102 - 112 cm tính từ
sàn).

133


×