Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

tiểu luận môn kiểm toán 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.41 KB, 27 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HCM
KHOA: KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN



ĐỀ TÀI:
KHOA
GVHD

: Kế Toán – Kiểm Toán.
: Tăng Thị Thanh Thủy

TP.Hồ Chí Minh tháng 05 năm 2015
1


Tìm hiểu về định hướng xây dựng
hoạt động kiểm toán độc lập hiện
nay của Việt Nam và quốc tế

MỤC LỤC

2


DANH SÁCH NHÓM 5

1.
2.
3.


4.
5.
6.
7.
8.
9.

3


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập cạnh tranh gay gắt hiện nay, Kiểm toán
độc lập đã trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh hay đầu tư của
chủ doanh nghiệp, nhà cung cấp, chủ đầu tư… và giúp nhà quản lý nâng cao chất
lượng quản lý doanh nghiêp, tính cạnh tranh của thương hiệu công ty. Bên cạnh đó,
trong tình hình nước ta hiện nay, quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp trong
nước, việc tăng trưởng về số lượng và quy mô của các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài, việc phát hành cổ phiếu và tiến hành giao dịch chứng khoán của các công ty
đòi hỏi các báo cáo tài chính phải được kiểm toán. Việc này đã góp phần thúc đẩy
tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành kiểm toán độc lập.
Vì tầm quan trọng của ngành Kiểm toán độc lập đối với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường và thực trạng phát triển của nó nên việc xây dựng chiến lược phát
triển cho ngành Kiểm toán độc lập trên quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng là
nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình phát triển ngành Kiểm toán độc lập.

4


NỘI DUNG
ChươngI:TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP.

1. Kiểm toán độc lập trong hệ thống kiểm toán.
2. Bản chất của kiểm toán độc lập.
Kiểm toán độc lập trước hết là một loại hình kiểm toán, xuất hiện do nhu cầu
của xã hội. Chính vì vậy, khi chúng ta xem xét bản chất của hoạt động kiểm toán
độc lập, chúng ta cần xem xét đến bản chất của hoạt động kiểm toán dưới các cách
tiếp cận khác nhau.
Hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán độc lập nói chung trên
thế giới chỉ thực sự bùng phát trong thời gian khoảng gần một thế kỷ trở lại đây.
Tuy nhiên cũng đã tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau về kiểm toán.
Ta có thể rút ra một khái niệm nêu bật bản chất của kiểm toán độc lập như sau:
“Kiểm toán độc lập được hiểu là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng
hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán
chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên độc lập có trình độ
nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.”
3. Mục đích của Kiểm toán độc lập.
Trong nền kinh tế thị trường, các báo cáo tài chính hàng năm do các doanh
nghiệp lập ra là đối tượng quan tâm của chủ doanh nghiệp, các cổ đông, ngân hàng
và các chủ đầu tư…và họ có mong muốn, nguyện vọng chung là sử dụng các thông
tin có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực. Do vậy cần phải có một bên thứ ba
độc lập, khách quan, có kỹ năng nghề nghiệp, địa vị và trách nhiệm pháp lý là tổ
chức kiểm toán chuyên nghiệp kiểm tra và đưa ra kết luận là các báo cáo tài chính
của doanh nghiệp lập ra có hợp thức không, có trung thực và hợp lý hay không. Các
ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về mức độ tin cậy của báo cáo tài chính được
trình bày trong báo cáo kiểm toán.
Có thể thấy sự khác biệt về mục đích của Kiểm toán độc lập với Kiểm toán
Nhà nước và Kiểm toán nội bộ thông qua việc nói một cách khái quát mục đích của
hai loại hình kiểm toán này:
5



- Đối với Kiểm toán Nhà nước: nhằm mục đích thông qua hoạt động của mình
góp ý kiến với đơn vị để sửa chữa sai sót, vi phạm để chấn chỉnh công tác quản lý
tài chính; đồng thời kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm của đơn vị;
Đề xuất với Chính phủ để sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán khi cần
thiết.
- Đối với Kiểm toán nội bộ: Tiếp cận với mọi thông tin, sát thực tế, có quyền
từ chối trước khi hoạt động kinh tế xảy ra, hoặc có quyền báo cáo những phát giác
của mình cho người đứng đầu doanh nghiệp nhằm hạn chế, ngăn ngừa một cách
hữu hiệu những thiệt hại trước khi có thể xảy ra.
4. Phạm vi của Kiểm toán độc lập.
Phạm vi kiểm toán sẽ là những công việc, thủ tục kiểm toán cần thiết mà kiểm
toán viên xác định và thực hiện trong quá trình kiểm toán để thu thập đầy đủ các
bằng chứng thích hợp cho ý kiến kiểm toán hay nói như chuẩn mực kiểm toán là để
đạt được mục tiêu kiểm toán.
Những công việc, thủ tục kiểm toán sẽ phụ thuộc vào nội dung kiểm toán và
được xác định trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán, phù hợp với yêu cầu của tổ chức
nghề nghiệp, phù hợp với pháp luật và các thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán.
Các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, nguồn số liệu đáng tin cậy và thích hợp
được thu thập thông qua các thủ nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản và bằng
các phương pháp như: kiểm tra, quan sát, điều tra, xác nhận, tính toán và qui trình
phân tích. Việc thực hiện các phương pháp này một phần tuỳ thuộc vào thời gian
thu thập các bằng chứng kiểm toán.
5. Khách thể của kiểm toán độc lập.
Khách thể của kiểm toán độc lập có thể chia ra làm hai loại: Loại bắt buộc phải
có báo cáo tài chính được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán độc lập và loại thứ
hai là loại tự nguyện.
Ví dụ theo quy định của Việt Nam, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp sau
bắt buộc phải được doanh nghiệp kiểm toán kiểm toán
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
6



- Tổ chức có hoạt động tín dụng, ngân hàng và Quỹ hỗ trợ phát triển.
- Tổ chức tài chính và doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.
- Riêng đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có tham gia niêm
yết và kinh doanh trên thị trường chứng khoán thì việc bắt buộc thực hiện kiểm toán
tùy theo quy định của pháp luật về kinh doanh chứng khoán; nếu vay vốn ngân
hàng thì thực hiện kiểm toán theo quy định của pháp luật về tín dụng.
- Doanh nghiệp nhà nước.
- Báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng của các dự án thuộc nhóm A.
- Các đối tượng khác mà Luật, Pháp lệnh, Nghị định và Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ có quy định.
Còn đối với trường hợp tự nguyện, Nhà nước khuyến khích tất cả các doanh
nghiệp và tổ chức thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán báo cáo tài
chính hàng năm hoặc báo cáo quyết toán dự án đầu tư trước khi nộp cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền hoặc trước khi công khai tài chính. Tuy nhiên các doanh
nghiệp thường tự nguyện kiểm toán khi:
- Doanh nghiệp muốn làm ăn chính đáng, luôn đòi hỏi sự chính xác, trung
thực, khách quan của số liệu.
- Khi sát nhập hoặc chia tách doanh nghiệp.
- Khi xảy ra sự cố, rủi ro lớn về kinh tế; …
6. Chủ thể kiểm toán.
Công việc kiểm toán độc lập do kiểm toán viên độc lập thực hiện.
Trách nhiệm và quyền hạn của kiểm toán viên.
Thứ nhất, trách nhiệm của kiểm toán viên.




Kiểm toán viên có trách nhiệm:

Chấp hành các nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập.
Trong quá trình thực hiện dịch vụ, kiểm toán viên không được can thiệp
vào công việc của đơn vị đang được kiểm toán.
7








Ký báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về hoạt động nghề nghiệp của
mình.
Từ chối làm kiểm toán cho khách hàng nếu xét thấy không đủ năng lực
chuyên môn, không đủ điều kiện hoặc khách hàng vi phạm quy định của
pháp luật có liên quan.
Thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm nghề
nghiệp.
Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, quyền của kiểm toán viên.





Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ.
Được thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và các dịch vụ đảm bảo
khác mà doanh nghiệp kiểm toán được phép cung cấp.

Yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu kế toán
và các tài liệu, thông tin khác có liên quan đến hợp đồng dịch vụ.
Kiểm tra, xác nhận các thông tin kinh tế, tài chính có liên quan đến đơn
vị được kiểm toán ở trong và ngoài đơn vị. Đề nghị các đơn vị, cá nhân
có thẩm quyền giám định về mặt chuyên môn hoặc làm tư vấn khi cần
thiết.

7. Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập
Bộ máy kiểm toán độc lập là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên nghiệp
kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Để thực hiện các
loại dịch vụ này, các tổ chức kiểm toán độc lập có quan hệ với khách hàng tự
nguyện hoặc bắt buộc theo quy định của pháp luật.
Bộ máy kiểm toán độc lập có hai mô hình cơ bản là văn phòng kiểm toán tư và
công ty kiểm toán.
1.6.1. Văn phòng kiểm toán tư
Văn phòng kiểm toán tư được hình thành bởi một hoặc nhiều kiểm toán viên
độc lập để kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Các văn
phòng này được thành lập theo các quy định chung cho các văn phòng tư.
Chúng được tổ chức theo phương thức trực tuyến và loại hình tập trung. Ưu
điểm có bản của loại hình này là phát huy tính năng động cao của bộ máy kiểm
8


toán, rất thích ứng với nhu cầu cảu kiểm toán và tư vấn của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ cũng như nhu cầu đại lý thuế cho nhà nước.Tuy vậy, nó cũng có nhược điểm
đó là các văn phòng chỉ giới hạn các dịch vụ và sức cạnh tranh của mỗi tổ chức, sự
hợp tác, bồi dưỡng kinh nghiệm nghiệp vụ giữa các kiểm toán viên cũng hạn chế..
1.6.2. Công ty kiểm toán.
Công ty kiểm toán (quy mô lớn) là tổ chức kiểm toán độc lập với số lượng lớn
các kiểm toán viên độc lập.Đây là những công ty quốc gia hoặc quốc tế.Các công ty

kiểm toán thực hiện nhiều loại dịch vụ trên địa bàn rộng lớn được tổ chức theo loại
hình phân tán và điều hành theo phương thức chức năng hoặc kết hợp .
Công tác kiểm toán độc lập do các kiểm toán viên độc lập thực hiện. Theo
thông lệ quốc tế cũng như quy định hiện hành của nước ta, các kiểm toán viên
muốn hành nghề thì phải đăng ký và được chấp nhận vào làm việc tại một tổ chức
kiểm toán được thành lập hợp pháp.Đó là các hãng, công ty hoặc văn phòng kiểm
toán.
Thông thường, các hãng kiểm toán chuyên nghiệp trên được tổ chức theo ba
hình thức:
Hãng thuộc quyền sở hữu của một người: Hình thức này thường là các hãng
nhỏ hoạt động ở các địa phương. Hiện nay, ít hãng tổ chức theo hình thức này.
Hãng tổ chức theo hình thức hợp danh: Hiện nay hình thức này được áp dụng
phổ biến. Hãng tổ chức theo hình thức công ty cổ phần: Hình thức này thường là
các tổ chức thuộc hãng lớn có quy mô quốc gia hoặc xuyên quốc gia.

Chương II:KHÁI QUÁT KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TRÊN THẾ GIỚI
VÀ THỰC NGÀNH KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TẠI VIỆT NAM VÀ
QUỐC TẾ HIỆN NAY
9


2.KHÁI QUÁT KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TRÊN THẾ GIỚI.
Hoạt động kiểm toán độc lập trên thế giới đã xuất hiện trên 100 năm và ngày
càng phát triển mạnh mẽ. Hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán ở các nước
không hoàn toàn giống nhau. Số lượng nhân viên và các tổ chức kiểm toán phụ
thuộc vào mức độ phát triển của hoạt động kiểm toán và nền kinh tế. Ở Hoa kỳ,
hiện nay có hơn 45.000 tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp.
Ở Cộng hoà Pháp hiện có 24 văn phòng kiểm toán khu vực và 2.500 văn
phòng con cơ sở trực tiếp là dịch vụ và hơn 10.000 người là kiểm toán. Ở các nước
nói trên và các nước khác, luật pháp qui định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các tổ

chức kiểm toán, thừa nhận sự khách quan và độc lập của kiểm toán, chấp nhận giá
trị pháp lý của các tài liệu có chữ ký của kiểm toán.
2.1 Cơ cấu tổ chức.
Về hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán, có thể là các công ty kiểm
toán, là cá nhân hành nghề kiểm toán, công ty hợp danh hoặc cổ phần. Trong công
ty hoặc cả những cá nhân hành nghề kiểm toán, trong quá trình hoạt động của mình
thường tuyển dụng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp để giúp họ thực hiện công việc
kiểm toán.
Cơ cấu tổ chức trong các công ty kiểm toán ở các nước phát triển thường theo
hệ thống cấp bậc về chuyên môn bao gồm các chủ phần hùn (Partner) (gồm chủ
phần hùn có cổ phần trong công ty và chủ phần hùn không có cổ phần), là những
người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhất, tiếp đến là cấp điều hành viên
cao cấp (Senior Manager, hoặc Principal) tiếp đó là các cấp quản lý, kiểm toán viên
và trợ lý kiểm toán viên. Mức độ chi tiết trong các cấp bậc trong công ty phụ thuộc
vào qui mô và cách thức tổ chức quản lý của từng công ty. Trong công ty kiểm toán
thường có nhiều các hoạt động dịch vụ và ở mỗi loại dịch vụ đều phân theo các cấp
bậc tương ứng.
2.2 Quy mô và cách thức tổ chức.
Các công ty đa quốc gia (các công ty kiểm toán quốc tế), trong đó văn phòng
chính đặt ở một thành phố lớn trên thế giới (thường ở Mỹ và ở Anh) tiếp đó là các
văn phòng chính cho các khu vực và các văn phòng ở các nước. Văn phòng ở các
nước được thành lập theo luật của nước sở tại. Các văn phòng này sẽ trực thuộc sự
quản lý của văn phòng chính của khu vực.
10


Các công ty thuộc phạm vi trong một quốc gia: Các công ty này có thể có
một hoặc nhiều các văn phòng, chi nhánh trực thuộc và tổ chức hoạt động trong
phạm vi một quốc gia. Có những công ty qui mô nhỏ hơn ở cấp địa phương với số
lượng nhân viên là một vài chục người.

Để quản lý và thống nhất sự hoạt động của các công ty kiểm toán, ở mỗi
nước hoặc các khu vực đều có Hiệp hội kế toán, là tổ chức độc lập của những người
làm công tác kế toán, kiểm toán hoặc quan tâm đến lĩnh vực này như : “Viện kế
toán viên công chứng Hoa kỳ – AICPA’, Hiệp hội kế toán chuyên nghiệp Anh và
xứ Wales – ICAEW ; Hiệp hội kế toán Hồng Kông – HKSA”
2.3 Sự phát triển của BIG4
Ban đầu, Big4 gồm 8 công ty kiểm toán hàng đầu thế giới và được gọi là
“Big8”, và sau đó đã được giảm xuống “Big Five” bằng hàng loạt các cuộc sáp
nhập. Hiện nay Big4 gồm 4 công ty kiểm toán KPMG, PWC,Deloitte, Ernst &
Young.
Sau một thời gian tăng trưởng doanh thu vượt bậc liên tục từ những năm
2000 đến năm 2008, tổng doanh thu quy đổi ra USD của Các hãng Big 4 năm 2009
giảm 7% so với năm 2008. Doanh thu quy đổi ra USD của Deloitte giảm -5%, của
Ernst & Young và PricewaterhouseCoopers giảm -7%, và của KPMG giảm tới
-11%
Trong năm 2010, tình hình được cải thiện đáng kể, tổng doanh thu quy đổi ra
USD của Các hãng Big 4 đạt 95 tỷ USD, tăng 1,4% so với 94 tỷ USD đạt được năm
2009. Doanh thu quy đổi ra USD giảm -0,9% đối với Ernst & Young, tăng 1,5% đối
với PwC, tăng 1,8% đối với Deloitte và 2,6% đối với KPMG - hãng có tốc độ tăng
trưởng doanh thu cao nhất.
- Năm 2010 đánh dấu sự trở lại của tốc độ tăng trưởng vừa phải đi đôi với sự
phục hồi của nền kinh tế toàn cầu.
- Sau khi giảm 7% trong năm 2009, tổng doanh thu của Các hãng Big 4 tăng
1,4% trong năm 2010, nhờ sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu.
- Các hãng kiểm toán lớn này đã công bố một vài con số lớn trong năm 2010,
tổng doanh thu của họ là 95 tỷ USD, một con số gây choáng ngợp.
11


-Năm 2010: Deloitte vượt qua PwC để giành vị trí dẫn đầu và trở thành công

ty kiểm toán lớn nhất thế giới. Mức chênh lệch doanh thu - chỉ là 9 triệu USD.
- Tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) của tổng doanh thu của Các hãng
Big 4 tăng 14% từ 2004 đến 2008 và 8% từ 2004 đến 2010. Kết quả hoạt động năm
2010 Nhìn chung, kết quả của Các hãng Big 4 đã đạt được mức kỳ vọng. KPMG đã
có tốc độ tăng trưởng cao nhất.

3. THỰC TRẠNG NGÀNH KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TẠI VIỆT NAM
VÀ QUỐC TẾ HIỆN NAY

3.1 Thành tựu đạt được
Ở Việt nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước, các hoạt động đa dạng và của nền kinh tế đòi hỏi phải có dịch vụ kiểm toán.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, ngày 13/5/1991 Bộ Tài chính
thành lập hai công ty kiểm toán đầu tiên là Công ty kiểm toán Việt nam (VACO) và
Công ty dịch vụ tư vấn Tài chính-Kế toán và kiểm toán (AASC). Sự ra đời của hai
công ty nói trên đã tạo tiền đề cho sự ra đời của các công ty tiếp theo bởi sự hoạt
động tích cực và có hiệu quả cũng như yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế
nước ta trong những năm đổi mới.
Có thể khẳng định những thành tựu chủ yếu về phát triển của hệ thống kiểm
toán VN như sau:
- Pháp luật về kiểm toán sớm hình thành (văn bản quy phạm pháp luật về
KTNN và về kiểm toán độc lập được ban hành vào năm 1994, về kiểm toán nội bộ
năm 1997), đã tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các tổ chức kiểm toán. Đến
nay, Nhà nước đã ban hành Luật KTNN, Nghị định về kiểm toán độc lập, quy định
của Bộ Tài chính về quy chế kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp nhà nước. Đây là
cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho sự phát triển hệ thống kiểm toán ở VN.
-Mối quan hệ giữa ba phân hệ kiểm toán đã bước đầu hình thành, trong đó
kiểm toán nhà nước và các doanh nghiệp kiểm toán độc lập đã phối hợp trong việc
thực hiện kiểm toán đối với một số các doanh nghiệp nhà nước, chương trình mục
12



tiêu quốc gia; kiểm toán nhà nước đã có những đóng góp nhất định trong hướng dẫn
nghiệp vụ và sử dụng kết quả của kiểm toán nội bộ. Mặt khác, Hội Kế toán và Kiểm
toán Việt Nam (VAA), Hội Kiểm toán viên hành nghề (VACPA) bước đầu đã thể
hiện vai trò trong việc định hướng các hoạt động nghề nghiệp và thiết lập mối quan
hệ giữa các phân hệ kiểm toán.
-Số lượng công ty kiểm toán tăng, giảm nhẹ, hiện tại được cơ cấu lại theo
hướng tăng quy mô doanh nghiệp, tăng số lượng KTV hành nghề, trở thành thành
viên Hãng quốc tế, được vào danh sách đủ điều kiện kiểm toán niêm yết. Năm 2010
là năm đỉnh cao Việt Nam có 170 công ty kiểm toán, trong đó có 152 công ty đủ
điều kiện hành nghề kiểm toán với số lượng nhân viên bình quân là 57 người/1
công ty. Số lượng KTV hành nghề năm 2010 tăng 12% so với năm 2009, năm 2011
tăng 14%, 2012 giảm 5% so với năm trước tương ứng. Tuy nhiên, KTV năm 2013
lại tăng 12% so với năm 2012. Về công ty kiểm toán được công nhận là thành viên
Hãng quốc tế cũng tăng nhẹ, năm 2010 và 2011 có 27 công ty, năm 2012 tăng 4%,
năm 2013 tăng 11% so với năm trước tương ứng. Các Hãng quốc tế lớn (là các
Hãng phải có văn phòng ở các nước khác) đã vào Việt Nam, các hãng còn lại hầu
như là nhỏ hoặc không đủ lớn, không đủ uy tín hấp dẫn công ty kiểm toán Việt
Nam gia nhập.
-Trong hoàn cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, ngành kiểm toán độc lập
vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng về doanh thu và tăng nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng về khách hàng, giá phí khách hàng có tăng, có giảm nhưng bình quân chung
vẫn là tăng. Nếu tổng doanh thu toàn ngành KTĐL năm 2010 là 2.744 tỷ, tăng 25%
so với năm 2009, năm 2011 tăng 11%, 2012 tăng 23% và năm 2013 tăng 11% so
với năm trước tương ứng.

3.2 Những mặt hạn chế.
- Hiện nay do Kiểm toán độc lập đối với các nhà quản lý, chủ doanh nghiệp ở
Việt Nam là một khái niệm khá mới mẻ trong nhận thức, sự nhầm lẫn giữa công tác

thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng của Nhà nước với dịch vụ Kiểm toán
độc lập đã gây tâm lý áu ngại khi họ tiếp cận với kiểm toán.
- Kiểm toán chưa trở thành nhu cầu tự thân của doanh nghiệp mà chủ yếu
thực hiện theo yêu cầu của Nhà nước mà không quan tâm đến chất lượng kiểm toán.
- Các doanh nghiệp kiểm toán độc lập của Việt Nam còn hạn chế về kinh
nghiệm hành nghề, năng lực và sức cạnh tranh, chất lượng kiểm toán chưa đáp ứng
13


được yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin.Nhiều Công ty kiểm toán đã cố
gắng tăng sức cạnh tranh bằng cách hạ giá phí kiểm toán và việc này sẽ rút ngắn
thời gian, giảm số lượng các thủ tục và chất lượng kiểm toán.
- Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kiểm toán
độc lập nhưng hoạt động quản lý nhà nước còn hạn chế, chủ yếu tập trung ở khâu
ban hành chuẩn mực kiểm toán độc lập, thủ tục thành lập doanh nghiệp, thi và cấp
chứng chỉ Kiểm toán viên độc lập. Việc kiểm soát, đánh giá chất lượng kiểm toán
của các doanh nghiệp kiểm toán còn hạn chế

14


Chương III:ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH
KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TẠI VIỆT NAM VÀ QUỐC TẾ HIỆN
NAY.
4. Định hướng chiến lược phát triển ngành kiểm toán độc lập của Big4
hiện nay
4.1 Chiến lược đa quốc gia:
Với chiến lược đa quốc gia, doanh nghiệp sẽ phải chịu áp lực giảm chi phí
thấp và áp lực về tính thích nghi với địa phương cao. Vì vậy chiến lược mà doanh
nghiệp lựa chọn thường là dựa vào các công ty con ở nước ngoài hoạt động trên cơ

sở độc lập nhằm địa phương hóa sản phẩm. Những công ty thực hiện chiến lược đa
quốc gia thường phân cấp nhiều cho các công ty con ở mỗi nước, trụ sở chính của
công ty cho phép các công ty con được quyền đưa ra những quyết định quản trị sao
cho đạt được mục tiêu của công ty. Các công ty theo mô hình này coi trọng các
nhân sự quản trị có kinh nghiệm, gần gũi với thị trường cả về mặt triết lý, văn hóa
và vật chất.
Trong một môi trường toàn cầu hóa, các hoạt động tài chính, thuế của các
doanh nghiệp, tổ chức tại các quốc gia khác nhau vừa hướng đến các tiêu chuẩn,
quy định quốc tế, lại vừa phải tuân theo những chính sách, luật lệ, quy định của
chính phủ, bộ, ban ngành tại các quốc gia đó. Do đó đối với các công ty kiểm toán,
thuế, tư vấn hoạt động trong môi trường quốc tế, chiến lược đa quốc gia sẽ là sự lựa
chọn phù hợp nhất.
Trên cơ sở đó, các công ty kiểm toán của Big4 đã xây dựng một mạng lưới
các công ty hoạt động độc lập tại từng quốc gia, được thiết kế để phù hợp với môi
trường luật pháp, tài chính tại quốc gia đó. Các công ty này mang chung thương
hiệu của công ty kiểm toán.
4.2 Chiến lược phát triển nguồn nhân lực:
Tận dụng nguồn nhân lực có sức trẻ và chi phí thấp, tăng cường công tác đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực kiểm toán mới đảm bảo khách hàng luôn nhận được
các dịch vụ có chuyên môn cao.

15


Tạo dựng một không gian kinh tế, một môi trường nghề nghiệp phù hợp với
yêu cầu công khai, minh bạch, dân chủ, trong các mối quan hệ lợi ích, trong môi
trường đó, chỉ có chỗ cho những người thạo việc và giữ vững đạo đức nghề nghiệp.
Trong không gian đó, người kế toán và kiểm toán giỏi được vinh danh, tôn trọng và
có thu nhập xứng với lao động của họ.
8. 4.3 Chiến lược phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Tận dụng điểm mạnh về năng lực tài chính, kiểm soát chất lượng, đội ngũ
nhân viên, kỹ thuật và công nghệ của mình kết hợp với xu thế về minh bạch hóa
tình hình tài chính và nhu cầu tư vấn của khách hàng, sự bảo hộ và khuyến khích
của pháp luật…để phát triển đa dạng các sản phẩm của mình trong quá trình kinh
doanh.
Không ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán, rút ngắn thời gian kiểm toán,
sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực trong tổ chức và hoạt động kiểm
toán độc lập nhưng vẫn đảm bảo tính minh bạch và tính chính xác của công tác
kiểm toán.

5. Định hướng chiến lược phát triển ngành kiểm toán độc lập tại Việt
Nam hiện nay
5.1 Mục tiêu phát triển ngành KTĐL Việt Nam
Mục tiêu phát triển hệ thống kiểm toán VN đến năm 2020 cần xác định như
sau: “Phát triển đồng bộ hệ thống kiểm toán VN trở thành công cụ mạnh để thiết
lập, củng cố và duy trì các quan hệ tài chính – tiền tệ lành mạnh trong nền kinh tế,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành mạng lưới kiểm tra, kiểm
soát tài chính – tiền tệ từ nội bộ các cơ quan, đơn vị, các tổ chức kinh tế thuộc mọi
thành phần kinh tế”.
Để đạt được mục tiêu đã đề ra, cần định hướng cho sự phát triển hệ thống
kiểm toán theo những quan điểm chủ yếu sau:


Phát triển KTĐL là điều kiện tiên quyết để làm minh bạch hóa thông tin tài
chính, nhằm cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam.
16










Chất lượng dịch vụ kiểm toán chỉ có được khi lợi ích của xã hội và lợi ích
khách hàng được thỏa mãn, trong đó lợi ích của xã hội phải được đặt lên cao
hơn.
Đa dạng hóa các dịch vụ tư vấn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng
của khách hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho khách hàng.
Ngành KTĐL Việt Nam sẽ hoạt động theo hướng chuyên nghiệp, có đội ngũ
chuyên gia kiểm toán, chuyên gia tư vấn có trình độ chuyên môn cao
Hoạt động KTĐL gắn liền với quản lý về mặt nghề nghiệp của Hội kiểm toán
viên hành nghề Việt Nam, BTC chỉ quản lý về mặt nhà nước
Phát triển ngành KTĐL trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của quốc tế, tiếp thu
có chọn lọc sao cho phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội của Việt Nam.
5.2Định hướng chiến lược phát triển

a.

Chiến

lược

phát

triển

nguồn


nhân

lực

Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là chúng ta phải hết sức tận dụng cơ
hội nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà tăng trưởng ổn định, nguồn nhân lực
có sức trẻ và chi phí thấp, bối cảnh mở cửa làm xuất hiện thêm nhiều khách hàng
tiềm năng mới cho dịch vụ kiểm toán để tăng cường công tác đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực kiểm toán mới.
Ra sức củng cố, tăng cường công tác kiểm soát, nâng cao chất lượng
nghề

nghiệp,

đạo

đức

hành

nghề

của

nguồn

nhân

lực


cũ.

Đây là chiến lược đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
của ngành kiểm toán độc lập của nước ta trong những năm tới bởi lẽ yếu tố
con người luôn luôn là yếu tố mang tính quyết định. Mục tiêu cuối cùng của
chiến lược này đó là nhằm tạo ra một đội ngũ nhân viên, quản lý đủ về số
lượng, đảm bảo về chất lượng chuyên môn.
b.

Chiến

lược

phát

triển



mở

rộng

thị

trường

Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là chúng ta phải hết sức tận dụng sự
17



năng động và hiểu biết về chuyên môn của đội ngũ nhân viên với các cơ hội từ
sự ổn định của thể chế chính trị, sự khuyến khích đầu tư, sự thuận lợi trong các
chính sách và quy định của luật pháp về kiểm toán.Kết hợp với xu thế đòi hỏi
công khai hóa, minh bạch hóa tình hình tài chính cũng như phát triển các dịch vụ
tư vấn trong xã hội để khai thác các khách hàng tại các “thị trường mới”.
+ Đối với các khách hàng trong nước : các công ty kiểm toán độc lập cần khai
thác thêm các đối tượng khách hàng thuộc diện “khách thể tự nguyện” theo quy
định hiện nay của pháp luật như loại hình các doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn…Đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ tư vấn, đặc biệt là tư
vấn

về

kế

toán,

thuế,

kiểm

soát

cho

các

đối


tượng

này.

+ Đối với khách hàng nước ngoài : các công ty kiểm toán cần khai thác nhu cầu
sử dụng các dịch vụ của từng đối tượng khách hàng nước ngoài theo vị trí lãnh
thổ, theo ngành nghề kinh doanh, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc cung cấp
các dịch vụ tư vấn đầu tư, dịch vụ tư vấn nguồn nhân lực, tư vấn pháp luật…
trong các giai đoạn trước, trong và sau khi đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
Đối với các công ty kiểm toán đủ năng lực cần mạnh dạn triển khai việc mở
rộng thị trường kinh doanh, cung cấp dịch vụ sang các nước trong khối ASEAN
như Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar ….Chiến lược này sẽ phát huy được
hiệu quả khi bản thân các công ty kiểm toán tận dụng triệt để và khai thác được
các thế mạnh của mình về năng lực tài chính, hoạt động marketing và đầu tư
công nghệ, kỹ thuật kết hợp với nguồn nhân lực đủ về số lượng và đảm bảo về
chất lượng chuyên môn.

18


c. Chiến lược liên doanh, sáp nhập và trở thành thành viên của các hãng kiểm
toán

quốc

tế




uy

tín

Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là các công ty kiểm toán cần đánh
giá lại đúng năng lực hoạt động của công ty mình, xem xét sự tác động của nhiều
yếu tố, trong đó đặc biệt xem trọng yếu tố về sự cạnh tranh của các đối thủ và các
mối đe dọa khác từ bên trong và bên ngoài để có định hướng liên kết, liên doanh,
sáp nhập lại với nhau thành các công ty kiểm toán lớn.Qua đó các điểm yếu của các
công ty kiểm toán nhỏ có thể được khắc phục và triệt tiêu, nâng cao năng lực cạnh
tranh



uy

tín

của

ngành

kiểm

toán.

Thực tế cho thấy trên thị trưởng kiểm toán thế giới, Big Four ra đời, tồn tại
và phát triển bền vững như hiện nay là kết quả của việc thực thi chiến lược sáp
nhập, liên kết. Tại Việt Nam chúng ta cũng vậy, trong năm 2010 đã có 8 công ty
kiểm toán sáp nhập lại thành 4 công ty kiểm toán mới. Diễn biến này cho thấy,

ngành kiểm toán độc lập chúng ta trong giai đoạn hiện nay cần phải có những định
hướng và quy định chặt chẽ về điều kiện được liên doanh, liên kết, sáp nhập và điều
kiện đăng ký trở thành thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế.
d. Chiến lược đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, quy trình kiểm toán
Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là các công ty kiểm toán cần tận
dụng ưu thế phát triển của công nghệ thông tin, kỹ thuật trong những năm gần đây
kết hợp với thế mạnh về năng lực tài chính, nhân sự, hoạt động nghiên cứu để thực
hiện việc đổi mới, hiện đại hóa công nghệ và quy trình kiểm toán. Các công ty cần
trang bị phương tiện làm việc hiện đại cho nhân viên, ứng dụng công nghệ mới để
xây dựng các cơ sở dữ liệu khách hàng, ứng dụng các phần mềm kiểm toán trong
chọn mẫu, đánh giá rủi ro, thu thập bằng chứng từ dữ liệu mềm của khách hàng.

19


e.

Chiến

lược

đa

dạng

hóa

các

“sản


phẩm”

Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là các công ty kiểm toán cần tận
dụng điểm mạnh về năng lực tài chính, kiểm soát chất lượng, đội ngũ nhân viên, kỹ
thuật và công nghệ của mình kết hợp với xu thế về minh bạch hóa tình hình tài
chính và nhu cầu tư vấn của khách hàng, sự bảo hộ và khuyến khích của pháp
luật…để phát triển đa dạng các sản phẩm của mình trong quá trình kinh doanh. Qua
đó vừa nâng cao năng lực cạnh tranh vừa góp phần làm tăng doanh thu cho công ty.
Cụ thể hiện nay đối với dịch vụ kiểm toán, đại bộ phận các công ty kiểm toán
chủ yếu mới chỉ cung cấp dịch vụ kiểm toán tài chính, trong khi đó các dịch vụ về
kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động còn chưa được chú trọng đúng mức mặc
dù nhu cầu của các doanh nghiệp và tổ chức về các vấn đề này lại ngày càng tăng
cao.
Đối với dịch vụ tư vấn, các công ty kiểm toán cần phát triển các “sản phẩm”
mới, đó là các dịch vụ tái cơ cấu doanh nghiệp; dịch vụ tư vấn marketing, PR; dịch
vụ tư vấn lập phương án kinh doanh….bên cạnh các dịch vụ đã có như tư vấn thuế,
nhân lực, thẩm định giá…
f. Chiến lược phát triển sản phẩm:
Tận dụng nhân viên rất am hiểu về các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, giá phí
dịch vụ thấp để đưa ra các sản phẩm mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Đối với dịch vụ kiểm toán: triển khai các loại sản phẩm mới về kiểm toán
tuân thủ, kiểm toán hoạt động.
- Đối với dịch vụ tư vấn: các dịch vụ tư vấn cần triển khai như dịch vụ chuyển
đổi BCTC theo chuẩn mực kế toán quốc tế hay theo chuẩn mực kế toán của một
nước cụ thể; tư vấn quản lý về tái cấu trúc DN, tư vấn về lập kế hoạch kinh doanh,
marketing, bán hàng v.v.
Chiến lược phát triển sản phẩm cần được sự hỗ trợ giải pháp về nghiên cứu và
phát triển, giải pháp marketing.


20


5.3 Một số giải pháp thực thi.
* Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán.
Kiểm toán chỉ hoạt động có hiệu quả và phát triển mạnh mẽ trong điều kiện môi
trường pháp luật hoàn chỉnh và ổn định. Bởi vậy, điều kiện có tính tiên quyết cho sự
phát triển của hệ thống kiểm toán là tạo lập môi trường pháp lý ổn định, phù hợp
với yêu cầu quản lý kinh tế – tài chính phù hợp với năng lực trình độ quản lý và các
thông lệ quốc tế.
+ Đối với KTNN: Tập trung tổ chức thực hiện Luật KTNN; xây dựng, sửa đổi
pháp luật đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất các quy định về tổ chức, hoạt động
KTNN; nghiên cứu đề xuất bổ sung Hiến pháp ở thời điểm thích hợp các quy định
về địa vị pháp lý, tính độc lập của cơ quan KTNN và của Tổng KTNN; thủ tục,
thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng KTNN nhằm đảm bảo một nền
tảng vững chắc cho KTNN phát triển bền vững.
+ Đối với kiểm toán độc lập, sớm nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật kiểm
toán độc lập nhằm tạo lập môi trường pháp lý ổn định, phù hợp cho sự phát triển
của kiểm toán độc lập; cần bổ sung quy định về kiểm toán bắt buộc đối với một số
loại hình doanh nghiệp. Bổ sung quy định về chế độ chịu trách nhiệm khi cung cấp
thông tin kiểm toán và bồi thường vật chất nếu thông tin bị sai lệch nhằm bảo vệ
người sử dụng thông tin kiểm toán, đồng thời là điều kiện để nâng cao chất lượng
dịch vụ kế toán, kiểm toán.
+ Đối với kiểm toán nội bộ, Nhà nước cần ban hành các quy định về thành lập,
tổ chức và hoạt động đối với phân hệ kiểm toán này. Khuyến khích các nhà quản lý
sử dụng kiểm toán nội bộ phục vụ cho hoạt động quản lý. Cần bổ sung quy định về
việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại các bộ, cơ quan trung ương, địa phương để kiểm
soát ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
* Thứ hai, đầu tư phát triển nguồn nhân lực kiểm toán
+ Bộ Tài chính và Hiệp hội nên xây dựng một quy trình đánh giá và cấp

chứng chỉ hành nghề mới cho phù hợp với thực trạng của thị trường lao động hiện

21


nay. Bởi lẽ theo quy định hiện tại như một số tác giả khác đã nghiên cứu vẫn còn
nhiều điểm bất cập về điều kiện dự thi, quy trình thực hiện…
+ Đa dạng hóa các hình thức đào tạo nguồn nhân lực kiểm toán trong xu thế
hiện nay. Cụ thể Bộ Tài chính và Hiệp hội cần khuyến khích các công ty kiểm toán
mạnh dạn mở các trung tâm và cơ sở đào tạo để tạo ra nguồn cung lớn về nhân lực
cho ngành kiểm toán.Đồng thời có kế hoạch liên kết với các trường đại học có uy
tín để thực hiện quá trình đầu tư, ươm mầm cho các sinh viên có năng khiếu và sở
thích về kiểm toán.
+ Nên xem xét việc yêu cầu các công ty kiểm toán bắt buộc trích lập quỹ
khoa học công nghệ phục vụ cho mục đích đào tạo, nghiên cứu, trang bị kỹ thuật và
công nghệ mới cho nhân viên của mình trong quá trình cung cấp dịch vụ. Tăng
cường công tác học tập, trao đổi kinh nghiệm về quản lý, về thực hiện dịch vụ kiểm
toán và tư vấn với các tổ chức, đối tác ở trong và ngoài nước.
+ Cần xây dựng và ban hành một lộ trình cải cách về chính sách tiền lương, thu
nhập thỏa đáng đối với những người làm việc trong lĩnh vực kiểm toán. Qua đó
giảm thiểu tình trạng chảy máu chất xám đang diễn ra ồ ạt như hiện nay.
* Thứ ba, tăng cường năng lực tài chính, hoạt động nghiên cứu cải tiến kỹ
thuật công nghệ, hoạt động marketing
+ Các công ty kiểm toán có quy mô nhỏ nên thực hiện việc liên kết và sáp
nhập lại với nhau để nâng cao năng lực cạnh tranh, cải tiến kỹ thuật công nghệ, phát
triển đội ngũ nhân sự kiểm toán
+ Bộ Tài chính, Hiệp hội cũng cần có quy định và hướng dẫn chi tiết, bắt
buộc về việc trích lập lợi nhuận sau thuế để cải thiện vốn, gia tăng quy mô kinh
doanh và năng lực tài chính của công ty.Có định hướng phát triển mạnh hình thức
22



hợp danh để huy động các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào công ty kiểm toán
+ Đẩy mạnh hoạt động PR, marketing giới thiệu về thương hiệu, sản phẩm của công
ty kiểm toán thông qua các cuộc hội thảo, chuyên đề, các khóa đào tạo ngắn hạn về
kiểm toán. Thành lập các văn phòng đại diện, chi nhánh để tăng cường công tác
quảng bá, tiếp thị hình ảnh và thu hút khách hàng cho công ty.
+ Rà soát, đánh giá và thực hiện việc điều chỉnh, cải tiến quy trình cung cấp dịch vụ
cho khách hàng của công ty, đặc biệt là từng bước, từng kỹ thuật trong các giai
đoạn và quy trình kiểm toán, tư vấn.
+ Tăng cường tham quan, học tập, tiếp thu kinh nghiệm và kỹ thuật công
nghệ ở các công ty kiểm toán uy tín ở nước ngoài. Thành lập phòng nghiên cứu và
phát triển (R&D) để phát triển các loại hình dịch vụ, các sản phẩm mới của công ty
đáp ứng nhu cầu thị trường.
* Thứ tư, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp
Nâng cao chất lượng dịch vụ là một trong những giải pháp hàng đầu nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh cho các công ty kiểm toán.
- Cần ban hành qui chế đánh giá chất lượng hoạt động KTĐL. Hiện nay, chất lượng
dịch vụ của ngành KTĐL Việt Nam còn thấp và chưa khắc phục được vì chưa có
qui chế để kiểm tra và đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán.
- Tăng cường công tác giám sát nhân viên trong quá trình cung cấp dịch vụ để phát
hiện, ngăn chặn kịp thời những sai sót có thể xảy ra, đồng thời cần có qui trình
tuyển dụng nhân viên hợp lý nhằm tuyển chọn nhân viên có năng lực và trình độ.
- Các công ty kiểm toán cần phải hoàn thiện qui trình cung cấp dịch vụ. Trong đó,
bao gồm việc lập kế hoạch cung cấp dịch vụ, phân công nhân viên thực hiện, công
tác kiểm tra, giám sát và xét duyệt báo cáo.
23


24



5.4 Kiến Nghị
Bổ sung quy định về chế độ chịu trách nhiệm khi cung cấp thông tin kiểm
toán và bồi thường vật chất nếu thông tin bị sai lệch nhằm bảo vệ người sử dụng
thông tin kiểm toán, đồng thời là điều kiện để nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán,
kiểm toán.
Tăng cường quản lý và kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Kết quả
kiểm toán có ảnh hưởng rất rộng, đến nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân trong nền
kinh tế, vì vậy cần tăng cường quản lý đối với hệ thống kiểm toán, có định hướng rõ
ràng cho sự phát triển của các tổ chức kiểm toán.
Cần có những biện pháp hữu hiệu kiểm soát chất lượng kiểm toán và hạn chế
cạnh tranh tiêu cực trong việc cung cấp dịch vụ kiểm toán. Hội nghề nghiệp cần
tăng cường các hoạt động hướng dẫn nghiệp vụ kiểm toán, chủ động xây dựng
chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho KTV, tổ chức thi và cấp chứng chỉ
KTV độc lập.

25


×