Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của các doanh nghiệp nhà nước ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.15 KB, 12 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA: TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC XÃ HỘI
CHỦ ĐỀ: Phân tích nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của các doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam hiện nay?
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Tâm
Tên sinh viên: Phạm Huyền Trang
Lớp: TA17.04
Mã sinh viên: 12107646

Hà Nội, 12/2013

1


2

MỤC LỤC







Mở đầu
Nội dung
1. Quan điểm của Đảng về doanh nghiệp nhà nước
2. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước
- Khái niệm doanh nghiệp nhà nước


- Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước
- Tính chất của doanh nghiệp nhà nước
- Vai trò của doanh nghiệp nhà nước
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Lời cam kết

2


3

MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ 21, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt trong
quá trình chuyển đổi cơ cấu. Từ tập trung kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường –
nền kinh tế mở với nhiều loại hình doanh nghiệp hơn ra đời và song song cùng tồn
tại với Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Tuy nhiên cần khẳng định rằng DNNN
vẫn luôn là loại hình chủ chốt có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế - chính trị
của Việt Nam. Tại văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Việt Nam khẳng định vẫn phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa tức là DNNN là thành
phần chỉ đạo của nền kinh tế mở.
Đảng ta đã có những tư duy mới mẻ về nền kinh tế thị trường: xác định phát
triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X
khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân) hình thành
nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp

nhà nước, ngân hàng nhà nước, các quĩ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước
và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần
kinh tế khác cùng phát triển. kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng

3


4

(công hữu) về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Các DNNN là
bộ phận quan trọng nhất của kinh tế nhà nước.
Đường lối của Đảng về doanh nghiệp nhà nước
Những thành tựu đạt được sau hơn 25 năm đổi mới đất nước đã khẳng định
1.

đóng góp quan trọng của các DNNN đối với nền kinh tế quốc dân. Thông báo Hội
nghị TW 6 (khóa XI) khẳng định: "cần tiếp tục sắp xếp, đổi mới mạnh mẽ DNNN,
giữ vững vai trò nòng cốt, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết nền
kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô...". Về sự lãnh đạo của Đảng đối với DNNN, trong bài
phát biểu bế mạc Hội nghị TW 6, khóa XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ:
"Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng
lực quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt của doanh
nghiệp. Đổi mới quy trình, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các tổ chức và cá
nhân có liên quan việc xem xét, quyết định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của DNNN,
đặc biệt là nhân sự chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc...". Đây là mục tiêu,
yêu cầu, là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng. Tập trung thực hiện tốt ba vấn đề
cấp bách trong Nghị quyết TW 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Kết luận Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới

và nâng cao hiệu quả. Trước hết, cần làm tốt vai trò là lực lượng vật chất quan trọng
để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô; tạo điều
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Lãnh đạo, chỉ đạo sắp xếp, đổi
mới DNNN; tập trung tái cơ cấu DNNN, nâng cao chất lượng tăng trưởng theo chiều
sâu, tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ lệ nội địa trong từng sản phẩm, tăng
năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm; tăng tỷ lệ hàng hóa chế
biến tinh, tiết kiệm tài nguyên, khoáng sản của đất nước; đa dạng hàng hóa, sản
phẩm dịch vụ phù hợp với yêu cầu của thị trường. Trọng tâm là đổi mới mạnh mẽ
mô hình và cơ chế hoạt động, khai thác mọi tiềm lực, lợi thế để nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các cấp ủy lãnh đạo các hoạt động của doanh
4


5

nghiệp đúng pháp luật và có hiệu quả; trong đó, đề cao trách nhiệm của người đứng
đầu cấp ủy và doanh nghiệp. Tiếp tục quán triệt sâu sắc các nội dung của Nghị quyết
Trung ương 3, Trung ương 9 (khóa IX), Nghị quyết Đại hội X của Đảng và các kết
luận của Bộ Chính trị, tạo sự nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị và trong xã
hội về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, định hướng phát triển và các giải pháp nhằm
đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và vị trí của doanh nghiệp
nhà nước, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong giai đoạn tới; sớm hoàn thiện hệ thống
pháp luật, điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách đầy đủ và đồng bộ, tạo môi trường
pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động, đồng thời tạo sự cạnh tranh
bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; tiếp tục đổi mới
công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và đổi mới hoạt động của
bản thân doanh nghiệp nhà nước. doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào những
ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt mà Nhà nước cần nắm giữ, chi phối. Kiên
quyết sắp xếp các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động không hiệu quả, làm ăn
thua lỗ kéo dài, không có khả năng khôi phục; chấn chỉnh tình trạng tập đoàn, tổng

công ty mở quá rộng ngành nghề mới nhưng không liên quan đến ngành nghề chính,
không góp phần làm cho ngành nghề chính lớn mạnh mà còn làm cho nguồn lực tập
đoàn, tổng công ty bị phân tán, mang nhiều rủi ro trong kinh doanh. Tổ chức, sắp
xếp các tổng công ty nhà nước theo ngành, lĩnh vực trọng yếu để thành lập các tổng
công ty nhà nước đủ mạnh và tiếp tục thí điểm các tập đoàn đang có để các đơn vị
này thực sự là công cụ của Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đủ sức cạnh tranh
với doanh nghiệp trong khu vực và thế giới. Có cơ chế tạo điều kiện cho các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế trong nước nâng cao năng lực, sức cạnh tranh trong thực hiện các dự án đầu tư lớn
trong và ngoài nước. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo quản lý, kiểm
tra, giám sát đối với doanh nghiệp nhà nước. Kịp thời phát hiện những vấn đề nảy
sinh để xử lý có hiệu quả.
5


6

Tiểu kết: DNNN đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân.
Đảng cũng đã chỉ rõ những đường lối mà nhà nước ta cần chú trọng khi xây dựng
DNNN một cách vững mạnh hơn.
2. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước
• Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Theo Sắc lệnh số 104/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ban hành ngày
1/1/1948, doanh nghiệp nhà nước được gọi là doanh nghiệp quốc gia. Điều 2 Sắc
lệnh này ghi nhận: "Doanh nghiệp quốc gia là một doanh nghiệp thuộc quyền sở
hữu của quốc gia và do quốc gia điều khiển". Sau đó, những đơn vị kinh tế của Nhà
nước được gọi là xí nghiệp quốc doanh, lâm trường quốc doanh (trong nông
nghiệp), cửa hàng quốc doanh (trong thương nghiệp)…Thuật ngữ doanh nghiệp nhà
nước được sử dụng chính thức trong Nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 ban
hành Quy chế về thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước. Điều 1 Nghị định

này đã định nghĩa: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước
thành lập, đầu tư vốn và quản lí với tư cách chủ sở hữu. Doanh nghiệp nhà nước là
pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật. Hiện nay,
khái niệm doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa trong Điều 1 Luật doanh nghiệp
nhà nước như sau: "Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lí, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do Nhà nước giao".
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, pháp quyền và nghĩa vụ dân
sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do
doanh nghiệp quản lí.

Đặc điểm của DNNN
- DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư và thành lập
- DNNN do một tổ chức quản lí và hoạt động theo các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. DNNN không chỉ là đối tượng quản lí của Nhà
nước như các loại hình doanh nghiệp khác, mà nó còn là công cụ để Nhà
nước thực hiện điều tiết kinh tế theo định hướng vạch ra.
6


7



-

DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền quản lí vốn và tài sản do Nhà
nước giao.
Tính chất của DNNN
Thứ nhất, về tính chất tất yếu tồn tại và đóng vai trò then chốt của DNNN:
DNNN là loại hình doanh nghiệp dựa trên sở hữu Nhà nước về tư liệu sản

xuất, do đó khác các loại hình doanh nghiệp khác trên ba điểm sau
đây: Một là, vì vốn của doanh nghiệp hầu hết của nhà nước nên DNNN,
dù là doanh nghiệp có chức năng kinh doanh, hay doanh nghiệp công ích,
thì trong bất kỳ hoàn cảnh nào, vẫn luôn chú trọng hiệu quả kinh tế-xã
hội. Do đó, sự có mặt của DNNN là lực lượng vật chất quan trọng đảm
bảo tính ổn định của nền kinh tế, chống lại mọi hành vi cơ hội, chạy theo
lợi nhuận bằng bất cứ giá nào của các loại doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tư nhân. Hai là, do DNNN là của nhà nước nên lợi nhuận sẽ do
nhà nước sử dụng. Do đó, nhiều nước còn giao cho DNNN những lĩnh
vực có lợi nhuận cao với ý đồ giữ cho nhà nước những khoản lợi nhuận
lớn này để giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị
trường. Ba là, trong thực tế, còn có nhiều lĩnh vực đòi hỏi đầu tư lớn, hiệu
quả kinh tế không cao nhưng lại cần thiết cho sự ổn định kinh tế-xã hội,
các doanh nghiệp tư nhân không muốn và không thể đầu tư, chỉ có
DNNN, vì lợi ích chung, không lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối hậu, mới
đảm nhiệm. Những lý do trên dẫn đến kết luận: Trong những lĩnh vực
quan trọng, huyết mạch của nền kinh tế, DNNN phải có mặt và đóng vai
trò then chốt như Nghị quyết TW3 (Khóa IX) đã khẳng định. Đây cũng là
lý do mà ở hầu hết các nước trên thế giới, ít hay nhiều, đều tồn tại DNNN.
- Thứ hai, về tính khó minh bạch của DNNN: DNNN là loại hình dựa trên
sở hữu nhà nước. Vì vậy, cùng một lúc phải giải quyết nhiều mối quan
hệ phức tạp: quan hệ giữa chủ thể sở hữu (ở đây là nhà nước, mà đại
diện là cơ quan chủ quản và hội đồng quản trị) với chủ thể sử dụng (ở
đây là doanh nghiệp mà đại diện cũng rất phức tạp: hội đồng quản trị,
giám đốc, đại hội công nhân viên chức, BCH đảng bộ, công đoàn, đoàn
thanh niên…) và người lao động (cùng một lúc đóng hai vai trò: chủ thể
sở hữu lao động và là chủ tập thể xí nghiệp) trên các mặt trách nhiệm và
lợi ích kinh tế, trong đó quan trọng nhất là lợi ích kinh tế. Xử lý mối
quan hệ này rất khó khăn và phức tạp. Tình trạng bộ phận quản lý doanh
nghiệp (mà trực tiếp là giám đốc) bỏ qua quyền lợi của bản thân doanh

nghiệp và nhà nước vì lợi ích của cá nhân trong các DNNN thường
xuyên diễn ra. Trong trường hợp giám đốc có tâm, có tài , muốn làm cho
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì lại bị những ràng buộc của cơ chế
7


8

chung cản trở. Kết quả là DNNN thường không có hiệu quả kinh tế cao.
Hạn chế này xuất phát từ tính chất của sở hữu mà ngay các doanh nghiệp
quốc doanh của các nước tư bản cũng thường gặp phải. Rõ ràng là, việc
minh bạch hóa hoạt động của DNNN thường là vấn đề đau đầu các nhà
hoạch định chiến lược.
- Thứ ba, tính kém hiệu quả trong các DNNN: Nhìn chung, hoạt động của
DNNN thường không có hiệu quả cao (ví dụ năm 2002 có 20% DNNN
thu lỗ, 40% hòa vốn, hoạt động cầm chừng, 40% có lãi nhờ chính sách
ưu đãi về thuế, xóa thuế nợ đọng, trợ cấp xuất khẩu – theo CIEM). Có
nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng đó: Một là DNNN thường phải
đảm nhận kinh doanh trên những khu vực ít lãi, phải đáp ứng những nhu
cầu xã hội mà các doanh nghiệp tư nhân không chịu đảm nhận; hai là, sở
hữu nhà nước thuần túy làm cho cơ chế quản lý DNNN trở thành vấn đề
phức tạp, rất khó để có thể thu lợi nhuận cao xuất phát từ khó khăn trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng.
- Thứ tư, tính bao trùm quá rộng của hệ thống các DNNN do lịch sử để lại:
Hệ thống DNNN ở nước ta được xây dựng lâu dài và theo quan niệm cũ,
là một hệ thống rộng khắp từ Trung ương xuống địa phương, quản lý một
lượng lao động rất lớn, một nguồn vốn lớn và những điều kiện thuận lợi
nhưng hiệu quả được coi là thấp (theo TS Nguyễn Văn Ân, Viện trưởng
CIEM thì đến 31-12-2002 có 4722 DNNN 100% vốn của nhà nước, nếu
tính cả số DN mà Nhà nước có cổ phần khống chế thì số DNNN là 5175).

Từ các tính chất trên của DNNN có thể kết luận: trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, phải có mặt DNNN với vai trò then chốt.
• Vai trò của DNNN
Sự hình thành và phát triển DNNN của mỗi quốc gia tuy có những đặc
điểm riêng nhất định, song có đặc điểm chung là thường tập trung vào
những ngành, những lĩnh vực then chốt, giữ vị trí vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân.
Trải qua nhiều năm xây dựng và phát triển, DNNN ở nước ta đã trở
thành một lực lượng kinh tế hùng hậu, nhất là trong các ngành san xuất
và dịch vụ quan trọng. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của
nước ta, DNNN giữ vị trí hàng đầu và có vai trò chủ đạo được thể hiện ở
các mặt như sau:

DNNN là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ quản lí để Nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Nhà nước điều
tiết phát triển của các thành phần kinh tế thông qua các hệ thống pháp
luật, kế hoạch và chính sách, đồng thời sử dụng DNNN như là một thực

8


9

lực kinh tế, làm cơ sở đảm bảo cho những cân đối chủ yếu trong quá trình
phát triển nền kinh tế quốc dân.
 DNNN là một trong số các nguồn chủ yếu cung cấp tài chính cho ngân
sách Nhà nước. Nhờ có đóng góp to lớn về tài chính của các DNNN vào
ngân sách, Nhà nước có thêm vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng kĩ thuật
nhằm đảm bảo cung cấp các loại hàng hoá và dịch vụ công cộng cho xã
hội, góp phần tích cực vào nâng cao tốc độ và hiệu quả phát triển nền

kinh tế quốc dân.

DNNN là nơi đặc biệt quan trọng thu hút viện trợ vốn đầu tư nước
ngoài cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để đáp ứng nhu cầu to
lớn về vốn cho CNH, HĐH, cần tận lực khai thác các nguồn tài chính bên
trong nước kết hợp thu hút nguồn nhân lực bên ngoài. Thu hút các nguồn
tài trợ vốn bên ngoài vào các lĩnh vực khai thác than, dầu khí, chế tạo
hàng điện tử, ô tô, xe máy…
 DNNN gánh vác trách nhiệm nặng nề trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Tiểu kết: Vậy DNNN là trung tâm tiêu biểu của khoa học, công nghệ, là
tấm gương sang về quản lí, các doanh nghiệp không chỉ chịu phục vụ cho
riêng mình mà còn góp phần phô biến trang thiết bị khoa học công nghệ
mới…DNNN còn tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện
cuộc sống, nâng cao văn hoá giáo dục, giảm sự chênh lệch thành thị và
nông thôn.

KẾT LUẬN
9


10

DNNN đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, DNNN là doanh
nghiệp luôn đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả để các doanh nghiệp khác noi
theo, DNNN còn là công cụ để Nhà nước thực hiện có hiệu quả chức năng và nhiệm
vụ của mình.
Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào những ngành, lĩnh vực quan trọng, then
chốt mà Nhà nước cần nắm giữ, chi phối. Tổ chức, sắp xếp các DNNN theo ngành,
lĩnh vực trọng yếu để thành lập các DNNN này đủ mạnh và tiếp tục thí điểm các tập
đoàn đang có để các đơn vị này thực sự là công cụ của Nhà nước điều tiết vĩ mô nền

kinh tế, đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp trong khu vực và thế giới. DNNN giữ
vai trò chủ đạo trong việc điều tiết kinh tế vĩ mô, định hướng cho nền kinh tế phát
triển trong công cuộc xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

10


11

1.

Giáo trình môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
(Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, khoa Triết học và

2.
3.

khoa học xã hội).
tailieu.vn
Thongtinphapluatdansu.edu.vn

LỜI CAM KẾT

11


12


Đây là tiểu luận do chính em sưu tầm viết, không sao chép hay mua bán của bất cứ
một ai. Nếu như em làm sai điều trên, em sẵn sàng nhận điểm 0.

Phạm Huyền Trang

12



×