Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

LUYEN TAP ON THI HK1 2015 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.14 KB, 39 trang )

LUYỆN TẬP: TÌM Ý VÀ LẬP Ý
HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ- NGUYỄN TUÂN
HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA- VŨ TRỌNG PHỤNG
CHÍ PHÈO- NAM CAO
Đề 1: Phân tích đời sống của phố huyện qua sự cảm nhận của Liên trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” ( Cách
diễn đạt khác: Phân tích diễn biến tâm trạng của Liên qua truyện ngắn “ Hai đứa trẻ”).
I. ĐVĐ
- Thạch Lam là thành viên của TLVĐ nhưng đây là gương mặt khá đặc biệt, nếu các cây bút TLVĐ thường
hướng về những con người lá ngọc cành vàng thì TL hướng về những con người nhỏ bé, nghèo khổ. Văn
của TLVĐ đượm nỗi buồn lãng mạn với những câu chuyện tình yêu lứa đôi thì văn TL lại tha thiết giọng tâm
tình mà thổn thức chất chứa nỗi đau hiện thực.
TL xuất hiện trong văn học như để mang một xứ mệnh hoà giải giữa hiện thực và lãng mạn, thơ và
văn xuôi. Văn của TL là sự giao thoa giữa hiện thực và lãng mạn, nó như một thứ hương hoàng lan thanh
tao được chưng cất từ dư vị của những nỗi đời. Truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” in trong tập : Nắng trong vườn1938, tiêu biểu cho khuynh hướng nghệ thuật của Thạch Lam. Đó là truyện mà không có cốt truyện, truyện
trữ tình, giàu cảm xúc, giàu triết lí, đẹp như một bài thơ. Tất cả nội dung tư tưởng truyện đều xoay quanh
tâm trạng nhân vật chính là Liên. Qua tâm trạng Liên, tác giả đã dựng lên một bức trang đời sống phố
huyện nghèo. Từ đó thể hiện sâu sắc giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
II. GQVĐ
Diễn biến tâm trạng của Liên trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” thể hiện qua 3 cảnh như 3 nấc thang tâm lí:
cảnh chiều tàn, cảnh đêm về và cảnh chuyến tàu đêm qua phố huyện.
1. Cảnh chiều tàn nơi phố huyện:
Phố huyện hiện lên trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” là trong sự nghèo khổ, xơ xác, tiêu điều đem
đến cho Liên tâm trạng buồn man mác.
a. Dường như có một sự tương phản giữa khung cảnh thiên nhiên và đời sống xã hội nơi phố huyện
Xuất phát từ cảm hứng bút pháp lãng mạn, tác giả cảm nhận khung cảnh thiên nhiên với một vẻ
đẹp trữ tình thơ mộng.Một chiều em ả như ru báo hiệu và gọi về một đêm mùa hạ êm như nhung. Đom
đóm trên cánh đồng và vì sao trên trời đua nhau nhấp nháy để rồi hoà lẫn cùng một màn đêm trải dài
mênh mông từ mặt đất đến vũ trụ. Mùi đất cát âm ẩm bốc lên cũng được cảm nhận như hương vị của đất
quê. Tuy nhiên, chiếc áo ngoài thơ mộng của thiên nhiên cũng không che lấp được đời sống xã hội được
cảm nhận qua cái nhìn của nhà văn. Một phố huyện nghèo khổ và tiêu điều hiện lên với cảnh ngày tàn, chợ


tàn và những kiếp người tàn tạ.
b. Cảnh ngày tàn càng thê lương hơn khi chiều tàn rớt xuống chợ tàn.
Trong “Tràng Giang” của Huy Cận, ta bắt gặp không gian hiu quạnh, buồn vắng của ngày tàn và chợ
tàn : “ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Thời điểm vãn chợ chiều là thời điểm nỗi buồn nhân lên, cộng lại
khi nỗi buồn ngày tàn cộng hưởng cùng lúc chợ tàn. ở truyện ngắn “ Hai đứa trẻ”, tác giả có điều kiện miêu
tả một cách cụ thể, tỉ mỉ hơn sự khái quát bằng hình ảnh của thơ nên cảnh chợ tàn càng thê lương. “ Người
về hết và tiếng ồn ào cũng mất, trên đất cát chỉ còn vương lại rác rưởi, lá nhãn, vỏ thị, vỏ bưởi…Những đứa
trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt rác, chúng kiếm tìn sự sống từ những gì người bán hàng còn bỏ lại”. Mùi
đất cát, rác rưởi âm ẩm bốc lên mà chị em Liên có cảm giác như hương vị riêng của đất quê. Thực ra đó là
mùi vị của đói nghèo, lam lũ. Trong xã hội trước, phiên chợ là lúc người ta đánh giá chình xác nhất về mức
độ sống của một miền quê. Chỉ cần nhìn vào cảnh phiên chợ tàn cũng đủ thấy được sự xơ xác tiêu điều của
phố huyện nghèo.
c. Nổi bật lên trên cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn tạ.
Đó là mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước, lam lũ vất vả thế mà thu nhập nào
có ăn thua gì. Đó là gia đình bác xẩm cứ tối đến lại xuất hiện cùng manh chiều rách. Chiếc chậu thau sắt Tây
trắng, tiếng đàn bầu ế khách, những âm thanh run lên bần bật cứa vào không gian nỗi buồn ảo não. Đứa
con bò ra bên đường nghịch rác bẩn. Đó là bà cụ Thi điên nghiện rượu, người điên mà nghiện rượu là méo


mó cả nhân hình, nhân tính. Bà cụ bước đi lảo đảo với tiếng cười khanh khách dẽ sợ khuất sau luỹ tre làng
như bị vùi lấp trong đêm tối. Đó là chị em Liên giữa phố huyện nghèo, hai đứa trẻ như hai mầm cây giữa
cuộc đời mời lớn đã còi cọc.
Quá khứ tươi đẹp của Liên và An thuộc về dĩ vãng. Hiện tại thầy liên mất việc, gia đình phải chuyển
về phố huyện nghèo, mẹ Liên lam lũ vất vả với gánh hàng xáo mà gia đình vẫn không khá giả hơn. Hai chị
em Liên có một gian hàng tạp hoá tồi tàn, ngày chợ phiên mà cũng vắng khách.
Mặc dù cuộc sống Liên và An không đến nỗi nghèo khổ vất vả như mẹ con chị Tí, gia đình bác xẩm
nhưng chúng lại là những người đáng thương nhất. Bởi Liên và An là hai đứa trẻ mới lớn, hai tâm hồn thơ
ngây vừa thoáng qua một thời khắc tuổi thơ đẹp như mơ giờ đã phải chứng kiến và chịu đựng những cảnh
đời cơ cực.
Để sống động và khắc sâu thêm ấn tượng về cuộc sống tàn tạ, tắt dần cuộc sống nơi phố huyện

chiều muộn cùng kiếp người tàn, còn ám ảnh người đọc là những đồ vật tàn: Một ngôi quán ọp ẹp, một cái
chõng sắp gãy. một manh chiếu rách, một cái bát sứt, một chiếc chậu dúm dó. Thế giới trong “ Hai đứa trẻ”
đúng là một thế giới đang tàn lụi, trong đói nghèo lam lũ.
2. Cảnh đêm càng buồn bã hơn khi phố huyện chìm trong bóng tối và cuộc sống lặp lại đến quẩn
quanh, bế tắc.
a. Khi đêm về, bóng tối mịt mù bủa vây nơi phố huyện.
Truyện ngắn bắt đầu và diễn ra trong sự giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng. Chiều muộn nhưng
ánh sáng vẫn còn rớt rơi yếu ớt. Bóng tối dần dần lấn át, lan tràn và ngự trị cả phố huyện. Điều đáng lưu ý
là cái tăm tối lại được diễn tả bằng ánh sáng, thứ ánh sáng nhỏ bé, tù mù, leo lét nơi phố huyện đối trọi
một cách yếu ớt với vũ trụ thăm thẳm bao la. Đó là ánh sáng ngọn đèn dầu nơi hàng nước chị Tí chỉ toả
sáng một vùng đất nhỏ. Đó là những khe sáng hắt ra từ kẽ cửa, là những hột sáng rọi qua tấm liếp. Những
khe sáng, những hột sáng ấy không hề làm phố huyện sáng hơn mà chỉ càng tạo nên cảm giác về một màn
đêm dày đặc.
Hình ảnh ngọn đèn dầu hàng nước chị Tí được nhắc lại nhiều lần là chi tiết nghệ thuật có ý nghĩa
gợi liên tưởng về những kiếp người nhỏ bé vô danh đang sống lay lắt trong đêm dài của xã hội cũ. Mỗi cư
dân nơi phố huyện kiếm sống ban đêm đều mang theo một ngọn đèn và mỗi người cũng là một ngọn đèn
tù mù leo lét. Người ta thường nói truyện TL giàu cảm xúc, giàu chất trữ tình như một bài thơ trong đó có
những chi tiết nghệ thuật giữ vai trò như nhãn tự gây ám ảnh lớn vời bạn đọc.
b. Day dứt và ám ảnh người đọc hơn cả là cuộc sống lặp lại đến buồn tẻ, bế tắc của phố huyện
nghèo. Ngày hôm sau là sự lặp lại y nguyên những gì xảy ra hôm trước.
Mẹ con chị Tí lại lễ mễ dọn hàng nước, gia đình bác xẩm lại xuất hiện với tiếng đàn bầu ế khách,
bác phở Siêu nhóm lửa lại đem đến cho phố huyện nghèo món hàng phở gọi là xa xỉ phẩm. Người nhà cụ
Thừa, cụ Lục lại gọi nhau đi đánh tổ tôm…Cuộc sống nơi phố huyện hàng bao đêm vẫn như sân khấu cuộc
đời chỉ độc diễn một màn kịch không hề thay đổi người, thay đổi cảnh, gợi cảm giác nhàm chán, bế tắc làm
ta liên tưởng đến hình ảnh “ chiếc ao đời” trong “Toả Nhị Kiều” của Xuân Diệu. Chiếc ao đời ấy là cuộc sống
của những người như Quỳnh, Dao, …họ sống mà như không có mặt trên đời, như hai con vật, như hai cái
cây chỉ tồn tại một cách vô hồn, vô vị. Chiếc ao đời ấy tuy bằng phẳng nhưng chật hẹp tù túng đã dìm chết
bao sinh lực. Cuộc sống nơi phố huyện là cuộc sống cứ mốc lên, rỉ ra và mòn đi như Nam Cao đã nói đến
trong “Sống mòn” . Cuộc sống nơi phố huyện còn đem đến cho ta cảm giác như hai câu thơ của Huy Cận
trước cách mạng tháng 8:

“ Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng từng ấy mặt người”
Sống giữa cảnh đời tăm tối, quanh quẩn, bế tắc chị em Liên cũng như con người nơi phố huyện vẫn mong
chờ một cái gì đó tốt đẹp hơn sẽ đến với cuộc sống của họ. Chuyến tàu đêm qua phố huyện đã đáp ứng
được nhu cầu ấy.
3. Chị em Liên chờ tàu với niềm vui chờ đợi và cả nỗi buồn khi tàu đến rồi tàu lại đi.
a. Trong cả chuỗi thời gian buồn tẻ của cuộc sống nơi phố huyện thì chờ đợi chuyến tàu đêm là niềm vui duy
nhất của chị em Liên.
Hai chị em đêm nào cũng cố gắng thức để được nhìn chuyến tàu qua phố huyện. Liên và An chờ
tàu không xuất phát từ nhu cầu đời sống vật chất. Là những đứa trẻ ngoan ngoãn, Liên và An vẫn nhớ lời


mẹ dặn cố thức đợi tàu để xem còn ai mua hàng. Tuy nhiên, hai đứa trẻ không thức để bán hàng “ Mấy
năm nay mùa màng kém, người lên xuống tàu ít, nếu có khách thì họ cũng chỉ mua bao diêm hoặc phong
thuốc lào là cùng”. Vậy, nguyên nhân sâu xa để hai chị em thức đợi tàu là nhu cầu của đời sống tinh thần.
Hai đứa trẻ cũng như con người phố huyện có nhu cầu thoát khỏi cuộc sống tăm tối, buồn tẻ trong hiện tại.
Riêng với Liên và An cùng với con tàu, chúng được trở về quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc. Con tàu như một
tia hồ quang gợi lại một miền dĩ vãng thuở nào. Con tàu chạy tời từ Hà Nội, chạy đến từ một tuổi thơ đã
mất để hai đứa trẻ nhìn lại chính tuổi thơ của mình, được sống lại quá khứ tươi đẹp, dù chỉ trong giây lát.
Ngày trước, Liên và An cũng từng ở Hà Nội, khi ấy gia đình Liên khá giả. Hai chị em Liên có những buổi dạo
chơi quanh hồ, được uống những cốc nước xanh đỏ ngọt lịm. Với hai chị em, con tàu vẫn như điều huyền
diệu mang không khí và hơi ấm ở thủ đô về.
Với con tàu, hai chị em không chỉ được trở về quá khứ, tìm lại được những gì đã mất mà còn được
sống trong một thế giới mới tốt đẹp hơn. Con tàu đã đem đến phố huyện âm thanh và ánh sáng, ánh sáng
rực rỡ của con tàu khác hẳn ánh lửa của bác phở Siêu, ánh đèn tù mù nơi hàng nước chị Tí. Luồng ánh sáng
rực rỡ của con tàu bắt đầu từ ánh đèn pha, từ ánh đèn trên toa xe hắt cả xuống mặt đường. Trong những
toa xe sang trọng, ánh đèn điện sáng trưng màu đồng, màu kền bóng loáng, con tàu còn mang đến phố
huyện những âm thanh náo nhiệt. Đó là âm thanh của bánh xe lăn trên đường thép, âm thanh của người
lên xuống tàu nhộn nhịp và rồi âm thanh của những tiếng cười nói huyên náo trong toa xe.
Con tàu đã xua đi dù trong giây lát tất cả bóng đêm mù mịt và không khí tĩnh lặng của phố huyện

nghèo. Đúng là con tàu mang trong mình bao điều huyền thoại, bù đắp phần thiếu thốn trong cuộc đời hai
đứa trẻ. Nó là một giấc mơ để cân bằng lại cái phần thực không niềm vui, không hi vọng của đời sống.
b. Con tàu đến, con tàu đi như một giấc mơ và nhanh hơn một giấc mơ để trả lại cho phố huyện và chị em
Liên một cuộc sống tăm tối trong tĩnh lặng, buồn tẻ.
Nếu lúc chờ đợi tàu, hai chị em có được một niềm vui thiêng liêng- khi con tàu đến, Liên và An cùng
đứng dậy, hướng về phía tàu thì khi tàu đi chúng lại mang nỗi buồn nuối tiếc, con tàu đã đi khuất mà hai chị
em vẫn còn lặng nhìn theo mơ tưởng. Niềm vui chợt đến rồi chợt đi như những đốm lửa than bay ngược
phía con tàu, loé sáng trong giây lát rồi tắt vụt trong đêm.
Kết thúc thiên truyện không phải là ánh sáng rực rỡ của con tàu mà là hình ảnh ngọn đèn dầu nơi
hàng nước chị Tí. Cái ngọn đèn tù mù chỉ toả sáng một vùng đất nhỏ lại chập chờn đi vào giấc ngủ của Liên.
III. KTVĐ
Qua diễn biến tâm trạng Liên, qua ba cảnh bức tranh phố huyện nghèo, người đọc thấy Thạch Lam
cũng như nhiều tài năng nghệ thuật chân chính không chí có tài mà con có cái tình nhân bản sâu sắc.
Cái tài của Thạch Lam là tài viết truyện không có cốt truyện mà vẫn hấp dẫn, vẫn ám ảnh và chạm
khắc vào lòng người đọc. Truyện nhẹ nhàng mà thấm thía, giàu chất trữ tình mà cũng giàu chất triết lí.
Cái tình của Thạch Lam là tình người nhân đạo. Nhà văn không chỉ cảm thương trước những đau
khổ, những thiệt thòi bất hạnh của con người mà còn đồng cảm với những khát vọng chân chính ở họ.
Trong “Hai đứa trẻ”, không chỉ gợi quá khứ mà còn gợi tương lai. Đúng như Nguyễn Tuân nhận xét : “
Truyện ngắn Hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác, nó gợi một nỗi niềm quá vãng một thời cũng
dóng lên một điều gì đó còn ở tương lai”.
Đề 2: Phân tích Giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Hai đứa trẻ
Cảnh vật và con người được miêu tả trong tác phẩm và qua diễn biến tâm trạng Liên, truyện ngắn “ Hai
đứa trẻ” chứa đựng nội dung hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
1. Tác phẩm là bức tranh chân thực và đượm buồn về một miền đất, nơi đó có những miền đời bị rơi vào
quên lãng.
a.Miền đất bị quên lãng ấy là một phố huyện nghèo, cái phố huyện nhỏ bé, xa vắng với phiên chợ tiêu điều.
Ga xép đêm đêm xình xịch một chuyến tàu chạy qua, chiếc đèn dầu tù mù của những chõng hàng nước.
Miền đời bị quên lãng ấy là những kiếp người tàn bị lãng quên như mẹ con chị Tí, vợ chồng bác
xẩm, bà cụ Thi điên, hai chị em Liên,…Những con người nơi phố huyện, họ có những số phận khác nhau
nhưng ai cũng nheo nhếch, cũng lam lũ tội nghiệp như nhau. Người lớn như những cái cây héo hắt, trẻ em

như những mầm cây còi cọc. Những cảnh vật, con người được miêu tả trong phố huyện là những cảnh vật
chi tiết quen thuộc thường có quanh ta. Vậy mà dưới ngoì bút Thạch Lam chúng trở nên gợi cảm biết bao.
b.Làm nên sự hấp dẫn này, một phần quan trọng là bởi ngòi bút hiện thực của Thạch Lam đậm chất trữ


tình.
Nhà văn viết về cảnh đời, cảnh người nơi phố huyện bằng chính kí ức tuổi thơ của mình. Thạch Lam
có những năm tháng tuổi thơ sống ở phố huyện Cẩm Giàng(HảI Dương). Ngày ấy trước cách mạng nó còn là
một phố huyện nhỏ, nghèo nàn xa vắng. Khi đặt bút viết, những kỉ niệm tuổi thơ đã hiện về nguyên vẹn
trên từng con chữ. Mỗi chữ đều phập phồng nhịp điệu trái tim giàu lòng trắc ẩn của nhà văn làm xúc động
lòng người.
2.Làm nên tầm vóc bất tử với thời gian của “ Hai đứa trẻ” không chỉ ở giá trị hiện thực mà còn ở giá trị nhân
đạo sâu sắc.
a.Trước hết là niềm thương cảm của nhân vật giành cho những số phận nhỏ bé vô danh chịu nhiều thiệt
thòi trong xã hội cũ. Đó là những số phận không bao gìờ biết đến ánh sáng của hạnh phúc. Sống trong cuộc
đời buồn tẻ tối tăm đang có nguy cơ bị chôn vùi, lãng quên.
Với truyện ngắn này Thạch Lam như muốn rung lên tiếng chuông cảnh tỉnh xã hội đừng quên những
con người nhỏ bé, vô danh, những kiếp người tàn như mẹ con chị Tí, vợ chồng bác Xẩm, chị em Liên. Họ có
thể vô danh nhưng đừng để họ thành những cuộc đời vô nghĩa.
b.Thông điệp mà nhà văn gửi gắm phải chăng là con tinh thần nhân đạo sâu sắc này:
Cuộc sống dù tăm tối nghèo khổ đến đâu cũng không dập tắt được khát vọng và hi vọng của con
người. Trong hoàn cảnh tăm tối, bế tắc, những con người nơi phố huyện vẫn mong đợi một cái gì
đó tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ. Chuyến tàu qua huyện chỉ trong khoảnh
khắc nhưng cũng đủ khuấy động niềm mong mỏi về một sự đổi thay.
Chị em Liên chờ tàu là một nỗ lực vươn lên để bám vào cái phao tinh thần , đề khỏi chết chìm
trong phố huyện nghèo như caí ao đời bằng phẳng. Hai đứa trẻ vừa đáng thương, vừa đáng trân
trọng. Chúng đáng thương vì hai mầm cây mới lớn đã còi cọc bời hoàn cảnh, chúng đáng được trân
trọng bởi vì 2 mầm cây còi cọc trên mảnh đất khô cằn vẫn cứ hi vọng vào ngày mai đơm hoa kết
trái.
c.Bước phát triển của tư tưởng nhân đạo trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

Đó là sự thức tỉnh của ý thức cá nhân. Nhà văn ý thức được ý nghĩa sự tồn tại mỗi cá nhân, trong cuộc
đời đã là con người thì dù là ai đi nữa, nghèo hay giàu, vô danh hay nổi tiếng thì cũng có quyền sống có
nghĩa và sống hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo khẳng định sự thức tỉnh ý thức cá nhân cũng có trong
nhiều tác phẩm xuất hiện cùng thời Hai đứa trẻ: Trong truyện ngắn “ Toả nhị kiều “, Xuân Diệu phủ
nhận lối sống không cá tính, bản lĩnh: lối sống của Quỳnh và Dao với hoạ sĩ Phan cái gì cũng lỡ cỡ. Đó là
lối sống quẩn quanh trong một buổi chiều tà. Đó là những con người sống cuộc sống vô nghĩa, họ tồn
tại như không có mặt trên đời. Nam Cao qua truyện ngắn “ Đời thừa” lại lên tiếng đòi quyền sống có
nhân cách, có ích cho mọi người.
Trong sự phát triển chung của tinh thần nhân đạo ấy, Thạch Lam cũng đã hướng ngòi bút về những
con người nhỏ bé, vô danh để nói lên cả những đau khổ và những khát vọng chân chính ở họ.
Đề 3: Giá trị và ý nghĩa nghệ thuật của cảnh đợi tàu
(Khi tiến hành phân tích và tìm hiểu những ý nghĩa của cảnh đợi tàu cần đặt nó trong toàn bộ tác phẩm
Hai đứa trẻ.)
Tóm tắt truyện ngắn Hai đứa trẻ: Hai chị em Liên và An được mẹ giao cho trông coi một của hàng tạp
hoá nhỏ ở một phố huyện nghèo; hai chị em ngày nào cũng vậy, cảm nhận cảnh thiên nhiên và cuộc sống
của phố huyện nghèo từ thời khắc chiều tàn đến đêm. Chúng cố thức để đợi chuyến tàu đi qua rồi mới
ngủ dù không chờ đợi ai ở chuyến tàu và cũng chẳng trông mong gì vào khách mua hàng.
Truyện diễn biến theo ba đoạn, ba khoảnh khắc thời gian: Chiều tàn nơi phố huyện, màn đêm dâng
đầy phố huyện và cảnh đoàn tàu đến và đi qua phố huyện.
+ Phố huyện lúc chiều tàn cả thiên nhiên và cuộc sống con người đều thật buồn, xơ xác, tàn lụi. Đó là một
cảnh sống không tương lai, con người như chìm dần vào trong bóng tối của ngày tàn.
+ Màn đên dâng đầy và lấp kín phố huyện nghèo. Cuộc sống hiện ra quẩn quanh và đơn điệu, nghèo và
đang sa sút của những cư dân phố huyện. Ngày nào cũng có bằng ấy con người, bằng ấy công việc nhưng
họ đều ế khách và mòn mỏi mong chờ một điều gì sẽ đổi khác nhưng chưa thấy.
Họ – những con người nơi phố huyện như những ngọn đèn con giữa đêm tối mênh mông của cuộc đời
xã hội cũ.


Cảnh đợi tàu diến ra theo một logic tâm lý. Cả một ngày buồn chán chứng kiến phố huyện xác xơ
chìm dần vào bóng tối. Cuộc sống không tương lai, không hi vọng, không ánh sáng khiến cho con người

khát mong thoát ra khỏi “ cái ao đời bằng phẳng” ấy.
Hai chị em cố thức để nhìn ngắm chuyến tàu vì đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya, quan
trọng hơn là trong khoảnh khắc chúng được sống một thế giới khác – thế giới của ánh sáng, sự giàu sang
và sự sống thật đáng sống. Đoàn tàu còn đến từ Hà Nội, nó gợi lại kí ức tuổi thơ êm đềm tươi đẹp và ấm
áp bên cha mẹ.
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn: cảm thông và xót thương vô hạn đối với những cuộc đời không biết
đến ánh sáng và hạnh phúc, đặc biệt là cõi lòng thương cảm sâu sắc đối với những “ tuổit thơ bị đánh cắp”.
Nhà văn gửi đến một thông điệp : Hãy sống một cuộc đời đầy ý nghĩa, hãy luôn vươn lên và nghĩ tới tương
lai tốt đẹp cho dù thực tại đang tối tăm.mòn mỏi. Đây là giá trị nhân văn, nhân bản đáng quý của truyện
ngắn này.

* Đề 4 : Phân tích nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật qua bức tranh phố huyện khi chiều xuống, phố huyện lúc
đêm về và phố huyện lúc tàu đến và tàu đi trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
Bài làm
Thạch Lam ( 1910-1942) ,là người đôn hậu, điềm đạm, rất đỗi tinh tế .Ông là một cây bút tài hoa, có biệt tài
về truyện ngắn - truyện nhưng không có chuyện.Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật
với biết bao cảm tưởng , cảm giác mơ hồ , mong manh …làm đọng lại trong lòng người đọc nhiều dư vi. Một
trong những tác phẩm thể hiện sức hấp dẫn trong nghệ thuật viết văn ấy của Thạch Lam là truyện ngắn “Hai đứa
trẻ” của ông. Ở đây, nhà văn đã thật thành công khi miêu tả nội tâm nhân vật trong sự tương ứng với thế giới
ngoại cảnh với bao buồn vui của bức tranh phố huyện khi chiều xuống, phố huyện lúc đêm về và phố huyện lúc có
chuyến tàu đêm đi qua.
Thật vậy, mở đầu tác phẩm là bức tranh phố huyện khi chiều xuống được hiện lên với cảnh chiều tàn bằng một
lọat các âm thanh của tiếng trống thu không ; tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào; tiếng
muỗi,cùng với hình ảnh của phương Tây đỏ rực với những đám mây hồng và dãy tre làng cắt hình đen kịt trên
nền trời…Có thể nói, thiên nhiênbuổi chiều tàn hiện lên thật đẹp, gợi buồn… như một “ bức họa đồng quê”
quen thuộc, gần gũi và gợi cảm .Một bức tranh quê hương bình dị mà không kém phần thơ mộng, mang cốt
cách Việt Nam .
Trên cái nền của bức tranh chiều tàn ấy, là tâm trạng của Liên , một cô bé mới lớn được nhà văn cảm nhận rất
tinh tế. Liên thấy “lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Không những vậy, Liên còn cảm nhận
được “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Và đặc biệt em còn thấy “động lòng thương” bọn tẻ con nhà

nghèo đi nhặt rác…và xót thương cho mẹ con chị Tí … Qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam, Liên là một cô bé có
tâm hồn nhạy cảm , tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người.
Tóm lại, bằng sự quan sát ,miêu tả tỉ mỉ, tinh tế với nhiều biến đổi tinh vi, phong phú…nhà văn đã giúp người
đọc cảm nhận sâu sắc về cảnh vật nơi phố huyện lúc chiều tàn như thấm vào lòng người hay nỗi buồn của tâm
hồn Liên lan tỏa nhuốm vào cảnh vật.
Thế rồi, theo bước đi của thời gian, phố huyện đã chuyển dần về đêm. Đó là một bức tranh có một sự hòa
trộn đầy dụng ý giữa ánh sáng và bóng tối : Ánh sáng trộn vào bóng tối hay ngựơc lại bóng tối trộn vào ánh sáng
( không gian phố huyện có nhiều quầng sáng, nhưng cũng có nhiều khoảng tối, đến những hòn áa trên đường
vào làng cũng mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng, một bên tối…). Nhưng ánh sáng thì le lói , chỉ là
khe sáng, chấm sáng, hột sáng; bóng đêm thì vừa mênh mông hiu quạnh vừa dày đặc ( tối hết cả con đường ra
sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa, tối đến mức cả tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng
trống ầcm canh của phố huyện tưởng chừng như không vang lên được). Điều này gợi một nỗi buồn đầy cảm
thông, một nhận thức – dù rất mơ hồ- về những kiếp sống chìm khuất, le lói, những thân phận như “bị bỏ quên’
nơi cái ga xép của một phố huyện buồn thiu.
Và rồi , một trong những thời điểm để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc đó là cảnh phố huyện lúc đoàn tàu đi
qua : Ở đây như có một sự tương phản nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu - chút thế giới khác mà chuyến tàu đêm


mang qua phố huyện trong chốc lát ( rồi mang đi) và hình ảnh trở về trạng thái sống lặng lẽ, tối tăm không thay
đổi nơi phố huyện. Cũng có một cảm giác xa xôi không biết của nhân vật Liên sau khi đoàn tàu đêm đi qua ở cuối
truyện: “những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình ảnh thế giới quanh mình, mờ mờ đi trong
mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một
vùng đất nhỏ.,nhưng Liên không nghĩ đươc lâu, mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng
yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”.- Một bên là “sự hoạt động náo nhiệt cuối cùng của
đêm” và một bên là “sự im lặng mênh mông” trong đêm tối, trong giấc ngủ( và cả trong sự lãng quên?). Chuyến
tàu đêm đi qua sáng rực, vui vẻ và huyên náo, đầy vẻ hấp dẫn nhưng lại chỉ thoáng qua trong giây lát ngắn ngủi
rồi trả phố huyện về cuộc sống mênh mang yên lặng và đầy bóng tối. Điều đó làm nỗi buồn như càng thấm thía
hơn trong lòng hai đứa trẻ.
Tóm lại, tương ứng với mỗi cảnh là một sắc thái cảm xúc, tâm trạng. buồn man mác, mơ hồ khó hiểu trước
bức tranh cuộc sống nghèo của phố huyện lúc chiều muộn: buồn khắc khoải trong cảnh đợi chờ, mong ước một

cái gì tốt đẹp, tươi sáng hơn cuộc sống nghèo khổ thường ngày; buồn thấm thía sâu sa về một cuộc sống quẩn
quanh, không thể đổi thay và mọi cái tốt đẹp, tươi sáng chỉ là hi vọng mong manh. Cũng tương ứng với cảnh
vật, con người trong từng thời khắc khác nhau là những tâm trạng, cảm giác, ý nghĩ khác nhau ( đọan đầu: lòng
buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn; đoạn giữa: mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống hằng
ngày, lặng theo mơ tưởng; đoạn cuối: thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của
chị tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ). Tất cả thể hiện niềm cảm thông sâu sắc cuả nhà văn. Tưởng chừng tác
giả đã hòa nhập vào tâm trạng, cảnh ngộ của nhân vật để diễn tả những gì mong manh, mơ hồ khó tả nhất của
tâm hồn con người
.
* Đề 5: Phân tích hình tượng ánh sáng và bóng tối
trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
Thạch Lam ( 1910-1942) ,là người đôn hậu, điềm đạm, rất đỗi tinh tế .Ông là một cây bút tài hoa, có biệt tài
về truyện ngắn - truyện nhưng không có chuyện.Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật
với biết bao cảm tưởng , cảm giác mơ hồ , mong manh …làm đọng lại trong lòng người đọc nhiều dư vi. Một
trong những tác phẩm thể hiện sức hấp dẫn trong nghệ thuật viết văn ấy của Thạch Lam là truyện ngắn “Hai đứa
trẻ” . Ở đây, nhà văn đã thật thành công trong việc tạo nên sự tương phản giữa hai hình ảnh ánh sáng và bóng
tối mang ý nghĩa biểu tượng, gắn với cảm xúc vui buồn của con người nơi phố huyện nghèo trước cách mạng
tháng Tám.
Trước hết là hình tượng bóng tối hiện lên nơi phố huyện.Đó là b óng tối của thiên nhiên trong tác phẩm đậm
đặc, trở đi, trở lại như một ám ảnh không dứt : “Đường phố và các ngõ con dần chứa đầy bóng tối; tối hết cả,
con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà; các ngõ con vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa” .
Bóng tối gần như chiếm lĩnh cả không gian bao la , tĩnh mịch nơi phố huyện. Cùng với bóng tối của thiên nhiên là
bóng tối cuộc đời và bóng tối của cuộc sống con người : Bóng tối ấy được hiện lên qua đôi mắt của Liên “ngập
dần vào cái buồn của buổi chiều quê”; qua hình ảnh của bà cụ Thi với tiếng cười khuất dần trong bóng tối như
cảnh đời đen tối, bức bối , vật vờ của cụ Thi Đó còn là bóng tối hiện lên qua hình ảnh của mẹ con chị Tý với cái
chõng nước và ngọn đèn dầu leo lét… Có thể nói, chừng ấy con người trong bóng tối như những hạt bụi li ti, vô
giá trị, bị lãng quên trong sa mạc của cuộc đời mênh mông, bế tắc.
Đối lập với bóng tối bao phủ là ánh sáng và niềm khao khát tội nghiệp của người dân nghèo nơi phố huyện : Đó
là hình ảnh nhỏ nhoi, mỏng manh của ánh sáng. Cái hay, độc đáo trong nghệ thuật thể hiện của Thạch Lam là
nhà văn đã dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối: Trên trời, ánh sáng xuất hiện với sự lấp lánh của những ngôi sao

…và những ánh đom đóm lập lòe.Ở dưới đất , ánh sáng được hiện lên với ngọn đèn của chị Tí, bếp lửa của bác
Siêu, và những hột sáng lọt ra từ những liếp cửa của những ngôi nhà… Giữa cái bóng tối dày đặc của không gian,
của cuộc đời, ánh sáng nhỏ nhoi trở nên cao giá hẳn lên : hầu như mọi thứ làm ra ánh sáng ở cái phố huyện nhỏ
đều được tác giả huy động : các loại đèn ( đèn treo, đèn hoa kỳ, đèn dây, đèn lồng, đèn ghi) ; bếp củi, tàn lửa,
những con đom đóm và dải Ngân hà… Có thể nói : Tất cả các ánh sáng dù thiên tạo hay nhân tạo đều như vẽ ra
những vạch đích khát vọng của những nhân vật chính, phụ trong tác phẩm, đều biểu tượng lấp lánh những cung


bậc của mơ ước
Tóm lại, truyện kết thúc một cách nhẹ nhàng , nhưng đối với người đọc là cả sự băn khoăn, ray rứt ,xót
thương.Hình ảnh ánh sáng và bóng tối cứ thấp thóang ,cứ ám ảnh người đọc : không biết bao giờ ánh sáng ,
tương lai và hạnh phúc mới đến với Liên – An và những người dân nghèo nơi phố huyện?
---------------------------* Đề 6 : Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Liên
trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
-------------Thạch Lam là nhà văn có sở trường ở thể loại truyện ngắn.Ông thường viết về những người dân nghèo sống
mòn mỏi, bế tắc ở những phố huyện nghèo nàn xơ xác bằng sự cảm thương sâu sắc. Đọc truyện “Hai đứa trẻ”
của Thạch Lam, chúng ta không thể quên nhân vật Liên - một cô bé nghèo có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng
trắc ẩn, yêu thương con người.
Trước hết , hiện lên trong tác phẩm, Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế : Khi chiều về, chứng
kiến sự tàn lụi của ánh sáng, nghe tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, nghe tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng tạp
hóa…Liên cảm thấy “lòng buồn man mác”.Trái tim ngây thơ của cô bé chắc chưa hiểu được nỗi buồn của kiếp
người nhưng em đã biết rung động trước những đổi thay của thiên nhiên khi chiều xuống. Liên còn cảm nhận
được mùi riêng của đất, của quê nghèo qua những mùi vị đơn sơ nhưng thân thuộc “một mùi âm ẩm bốc lên,
hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá”. Đêm đầy sao, vũ trụ thăm thẳm đầy bí mật đối với Liên.
Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu nơi xa xôi cô đơn như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng rất
nhỏ
. Phải chăng, nỗi buồn, cô đơn của Liên cũng chính là tấm lòng đồng cảm của em với những số phận nhỏ bé
nghèo khổ nhưng vẫn tự khẳng định mình,vẫn phải sống cuộc sống ở một phố huyện buồn.
Không chỉ là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm, mà Liên còn là một cô bé rất đảm đang, tháo vát , lại giàu lòng
nhân ái. Tuy còn bé, nhưng Liên vừa trông coi em , lại còn thay mẹ trông coi cửa hàng tạp hóa, góp phần giúp

cha mẹ. Có thể nói; tuổi thơ của một đứa trẻ nghèo như Liên chẳng còn,thật đáng cảm thông, thương xót.
Thật đáng trân trọng là tình cảm của Liên giành cho những đứa trẻ nghèo ở phố huyện nhặt rác lúc chợ tàn…,
lễ phép với cụ Thi hơi điên ; thông cảm với nỗi vất vả của mẹ con chị Tí phải kiếm sống mỗi ngày từ sáng sớm
đến đêm khuya… Liên cảm nhận được cuộc sống vô vị, buồn tẻ, tăm tối của người dân nơi đây. Họ như những
cái bóng âm thầm trong đêm và bóng tối cuộc đời đang bao phủ họ.
Đặc biệt, sống giữa cảnh đói nghèo , tăm tối nhưng Liên luôn là một cô bé có ước mơ và khát vọng: Điều ấy
được thể hiện ở việc Liên và em đêm đêm đợi tàu không phải để mong bán được thêm hàng mà là nỗi háo hức
được nhìn một hình ảnh sống động, nhộn nhịp đầy ánh sáng …từ Hà Nội đi qua. Bởi lẽ, con tàu đối với Liên và
em còn là những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm…ở Hà Nội , để từ đó hướng đến tương lai
Tóm lại, có thể nói Liên là một nhân vật vừa đậm chất hiện thực vừa đậm chất trữ tình được xây dựng qua
ngòi bút tài hoa của Thạch Lam. Hình ảnh cô gái mới lớn này mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam ( công ,dung, ngôn, hạnh) , để lại trong cảm xúc của người đọc những ấn tượng sâu đậm, ngọt ngào, dễ
thương của một thời Thạch Lam mà hôm nay vẫn còn trân trọng.
*Đề 7: Phân tích bức tranh chiều tàn ở phố huyện nghèo
trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
------------Thạch Lam ( 1910-1942) ,là người đôn hậu, điềm đạm, rất đỗi tinh tế .Ông là một cây bút tài hoa, có biệt tài về
truyện ngắn - truyện nhưng không có chuyện.Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với
biết bao cảm tưởng , cảm giác mơ hồ , mong manh …làm đọng lại trong lòng người đọc nhiều dư vi. Một trong
những tác phẩm thể hiện sức hấp dẫn trong nghệ thuật viết văn ấy của Thạch Lam là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” .
Ở đây, nhà văn đã thật thành công trong việc ghi lại bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người với bao cảm


xúc vui buồn của con người vào lúc chiều tàn nơi phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám.
Trước hết là cảnh không gian, tạo vật khi chiều tàn hiện lên dưới ngòi bút : đẹp, nên thơ, bình dị, gần gũi,
quen thuộc nhưng đượm buồn. được hiện lên với nhiều âm thanh, màu sắc, hình ảnh và đường nét ( Tiếng
trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve; phương Tây đỏ rực, đám mây ánh hồng , dãy tre làng
đen lại…) . Khung cảnh ấy được nhà văn thể hiện qua những câu văn êm dịu, uyển chuyển, tinh tế. Mỗi câu như
một nét vẽ đơn sơ , không cầu kỳ kiểu cách nhưng lại gợi được cái hồn của cảnh vật , cái thần thái của thiên
nhiên …Mỗi câu văn như mở ra một cảnh : cảnh trước gọi cảnh sau rất độc đáo và ấn tượng… Có thể nói, không
gian phố huyện lúc chiều tàn hiện lên Một bức “họa đồng quê” quen thuộc, gần gũi , bình dị và gợi cảm , không

kém phần thơ mộng, mang cốt cách của hồn quê Việt Nam.Qua đó thể hiện được tình cảm và gắn bó của nhà
văn với một vùng quê nghèo.
2. Cảnh sống của người dân : tiêu điều, nghèo nàn, lam lũ, khổ cực,
- Cảnh chợ tàn : người về hết , tiếng ồn ào không còn, chỉ còn rác rưởi…
- Hình ảnh người dân xuất hiện với : mấy đứa trẻ con nhà nghèo đang tìm tòi, nhặt nhạnh rác, mẹ con chị Tý
nghèo khổ ngày mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước nhỏ trên cái chõng tre ; bà cụ Thi.., vợ chồng Bác Xẩm…
à Tất cả… đều thể hiện sự tàn lụi (cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ); sự nghèo đói, khó khăn, tiêu điều
đến thảm hại của người dân nơi phố huyện.
3 Tâm trạng của nhân vật liên : buồn, xúc động , cảm thương…
+ Liên thấy “lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
+ Liên còn cảm nhận được “mùi riêng của đất, của quê hương này”.
+ Liên thấy “động lòng thương” bọn tẻ con nhà nghèo đi nhặt rác…và xót thương cho mẹ con chị Tí …
à Qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam, Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm , tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu
thương con người.
=>Bằng sự quan sát ,miêu tả tỉ mỉ, tinh tế với nhiều biến đổi tinh vi, phong phú…nhà văn đã giúp người đọc cảm
nhận sâu sắc về cảnh vật nơi phố huyện lúc chiều tàn như thấm vào lòng người hay nỗi buồn của tâm hồn Liên
lan tỏa nhuốm vào cảnh vật.
III/ kết bài:
- Đây là một đọan văn hay , bởi lẽ, đọan văn đã thể hiện được :
+ Tấm lòng của nhà văn gắn bó, ân tình ; cảm thông ,thương xót. …
+ Phong cách viết văn đặc sắc của tác giả trong sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực- trữ tình; câu văn mềm
mại, giàu chất thơ

Đề 8: Phân tích nhân vật Liên (Tâm trạng nhân vật Liên – tâm trạng chờ tàu) trong tác phẩm Hai đứa trẻ
của nhà văn Thạch Lam.
Hai đứa trẻ là tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam được bạn đọc biết đến nhiều nhất. Tác phẩm được in
trong tập Nắng trong vườn (1938). Truyện gây ấn tượng cho người đọc bởi văn phong nhẹ nhàng, giàu tình
người tình đời. Ấn tượng khó quên trong lòng người đọc về thiên truyện ngắn này có lẽ là hình ảnh hai đứa
trẻ mà cô bé Liên là nhân vật được nhà văn Thạch Lam tập trung khắc họa nhiều nhất.
Liên là cô bé mới tám tuổi, cái tuổi mà theo như người xưa nói “biết ăn biết ngủ, biết học hành là ngoan”.

Nói đúng hơn là tuổi vô lo. Nhưng mọi điều đều ngược lại. Dưới ngòi bút của Thạch Lam, Liên hiện lên với
hình ảnh của một cô bé như già đi trước tuổi. Tuổi thơ chìm trong nỗi buồn của sự tàn tạ, héo úa của một
cuộc sống đầy bóng tối, bế tắc không lối thoát. Đối với tâm hồn thơ bé ấy, đoàn tàu đêm từ Hà nội về chạy
ngang qua phố huyện chính là niềm an ủi cuối cùng cho một niềm đau.
Thầy Liên mất việc và đặt dấu chấm hết cho những tháng ngày sống ở Hà Nội. Con phố nhỏ Cẩm Giàng
tỉnh Hải Dương nơi đón chị em Liên về là một nơi đói nghèo trong rơm rạ với những kiếp người bé nhỏ, lay
lắt. Bản thân gia đình Liên cũng chẳng khá giả gì hơn: mẹ làm hàng xáo, chị em Liên trông coi gian hàng tạp
hóa nhỏ xíu với những thức hàng lặt vặt, ngày phiên mà chẳng bán được bao nhiêu.
Liên là cô bé nhạy cảm, hay động lòng trắc ẩn trước những biến thiên của cuộc đời. Tâm trạng của Liên


cũng diễn tiến theo thời gian: từ chiều hôm cho đến khi đoàn tàu ngang qua phố huyện. Truyện mở đầu
bằng âm thanh của tiếng trống thu không vang xa để gọi buổi chiều. Đó âm thanh báo hiệu ngày tàn và
cũng là âm thanh chấm hết một ngày đầy ánh sáng mà thay vào đó là bóng tối và nỗi buồn. Thạch Lam mở
đầu truyện rất hồn hậu, rất thơ với bức tranh quê bình dị, man mác hương đồng gió nội với " Chiều, chiều
rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào" . Đó
cũng là thời khắc mở ra thế giới tâm trạng của Liên, là lúc mà “Trong đôi mắt Liên bóng tối ngập đầy dần và
cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu sao nhưng thấy lòng
buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Buồn mà thấy “không hiểu sao” có nghĩa là cái buồn ghê
gớm lắm. Buồn mà không biết mình buồn vì cái gì thì thật là đau khổ không gì bằng. Thạch Lam đã để nhân
vật tự nhận thức và tự bộc lộ tâm trạng chứ không cần kể lể dài dòng. Và bóng tối đã trùm lên phố nhỏ,
trùm lên đồng ruộng, trùm lên cả nỗi buồn của Liên đang thoi thóp thở.
Trong bóng chiều nhá nhem, Liên nhìn về bãi chợ nơi những người bán hàng về muộn. Liên động lòng
thương những mảnh đời cơ cực, đó chính là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại lang thang
trên mặt đất nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay những gì còn sót lại của mấy người bán hàng”.
Hình ảnh đó như xoáy sâu vào lòng trắc ẩn của cô bé tám tuổi giàu lòng nhân ái. Liên thấy thương những
đứa trẻ nghèo nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng nó. Thế đấy, nhân vật Thạch Lam thường
ít nói nhưng suy tư nhiều và mang đến những vẻ đẹp của tình người đằng sau những nghĩ suy tha thiết về
cuộc sống.
Trong cảm nhận của Liên, bóng tối thật ghê gớm “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường

qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối là hiện thân của sự tù túng ngột
ngạt, bế tắc không lối thoát. Đó là bóng tối của sự đói nghèo, lam lũ. Là hình ảnh đất nước ta trước năm
1945 đầy nước mắt:
Cha ông ta từng đấm nát bàn tay trước cánh cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng mà đời im ỉm khóa
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi
Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập để miêu tả bóng tối và ánh sáng. Nếu như bóng tối
nuốt chửng tất cả phố huyện vào trong cái dạ dày tối thui của nó thì ánh sáng xuất hiện với tần số thấp. Đó
chỉ là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng”… tất cả đều hiện lên thật bé nhỏ tội nghiệp “ mất
đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Và cùng với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó là những phận người với cuộc
sống bấp bênh, trôi nổi và lụi tàn, le lói như ngọn đèn trước gió. Liên thương hết thảy những con người nơi
phố huyện nhỏ bé này. Đó chính là chị Tý với cuộc đời cơ cực “mò cua bắt ốc”, tối đến cùng ghánh hàng
nghèo xơ xác chỉ với bát nước chè, điếu thuốc lào, thanh kẹo lạc… tất cả gia tài mưu sinh bên ngọn đèn con
chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Liên thương bác phở Siêu với gánh phở xa xỉ, ế ẩm nhưng đêm nào cũng
thấy bác dọn hàng. Thương bác xẩm với manh chiếu rách tả tơi cùng chiếc thau trắng trống trơn chưa một
niềm hi vọng, thương lắm những tiếng đàn bác góp chuyện bật trong yên lặng. Thương bà cụ Thi điên đơn
chiếc với tiếng cười chìm vào bóng tối… Cuộc sống phố huyện là như vậy. Đơn điệu, tẻ nhạt. Đêm nào cũng
như đêm nào, cứ lặp đi lặp lại:
Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.
Điều gì có thể làm chị em Liên quên đi được thực tại này ? M ay ra chỉ có vũ trụ là cơ hội cuối cùng để ru
hai chị em vào những miền cổ tích. Cảnh hai chị em ngẩng mặt lên trời tìm con vịt theo sau ông thần nông
cho thấy: tâm hồn hai đứa trẻ thật hồn nhiên, vô tư trong sáng và rất đỗi trẻ con. Nhưng buồn thay, bầu
trời đầy sao trên kia cũng không thể nào cứu vớt được hai sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp ấy. Bởi “vũ trụ bao la
và thăm thẳm như chứa đầy bí mật và xa lạ với hai đứa trẻ”. Để rồi cuối cùng chính chúng lại quay về với
quang cảnh phố chung quanh mà đặc biệt là ngọn đèn con của chị Tý. Và cứ thế trong đêm tối những con
người tội nghiệp ngồi chờ đợi một điều gì đó cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.

Và đoàn tàu từ Hà Nội về đã thực sự là ước mơ và khát vọng của người dân phố huyện. Họ thức đợi
chuyến tàu vì mưu sinh hay vì lí do nào khác nữa. Tất cả thao thức, đợi chờ như thể đợi chờ một phép màu


sẽ đến. Họ mong bán được chút hàng để gỡ gạc cho cuộc sống ngày mai. Còn riêng hai đứa trẻ, chúng
không thức đợi chuyến tàu để bán hàng mà vì lí do khác. Chúng muốn được nhìn thấy đoàn tàu qua phố
huyện vì đoàn tàu như mang một thế giới khác đi qua đủ làm cho chúng rạo rực và ánh lên niềm vui sướng
dù chỉ là trong chốc lát. Vì thế đêm nào cũng vậy dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng cả hai chị em vẫn cố thức
để đợi chuyến tàu. Điều đó cho thấy đoàn tàu là một hình ảnh đã trở thành quen thuộc và ăn sâu trong tâm
hồn hai đứa trẻ và chờ tàu đã trở thành một khát vọng mãnh liệt và là một món ăn tinh thần không thể
thiếu trong cuộc sống của chúng.
Sự mong mỏi của chị em Liên với đoàn tàu quả thật đã làm người đọc xúc động mãnh liệt. Mới bảy, tám
tuổi mà mẹ bắt trông coi cửa hàng tạp hóa đã là việc làm quá sức lại còn bắt thức cho tới khuya để chờ bán
hàng thì quả là tội nghiệp. Nhưng Liên và An thức tới khi đoàn tàu đi qua phố huyện không phải là nghe lời
mẹ mà là chúng đang hành động theo tiếng gọi của con tàu. “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Đó là
câu nói của An khi mí mắt đã sụp xuống trong cơn buồn ngủ rồi mà vẫn còn dặn với chị. Câu nói bình
thường thế mà sao mới nghe qua đã thấy xót thương. Nó chứa đựng trong đó là tất cả niềm khát khao và
hi vọng được nhìn thấy đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của đêm khuya. An đi vào giấc ngủ, Liên ngồi im
lặng, đầu óc chị bỗng dưng cũng yên tĩnh lạ thường. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được “hoa bàng rụng
xuống vai Liên từng đợt một, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Dường như nhà văn muốn cho nhân
vật của mình được nghỉ ngơi sau một ngày dài mỏi mệt. Thế rồi thoáng trong tiếng gió xa xôi là tiếng đoàn
tàu vụt đến. Rồi tiếng reo thảng thốt, mừng rỡ của bác Siêu “Đèn ghi đã ra kia rồi!”. Liên cũng trông thấy
ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài
ra theo gió xa xôi. Đó là lúc mà Liên vội vã đánh thức em “Dậy đi An, tàu đến rồi!”. Lời giục dã gấp rút, hối
thúc như thể nếu An không dậy thì sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không
dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức của hai chị em mà cái háo hức ấy vẫn cứ hiện lên thật sống động
và giàu chất nhân văn.
Hai chị em đứng chờ đoàn tàu từ đằng xa. Chúng có dịp chiêm ngưỡng cái kẻ đã làm chúng đợi chờ ấy
bằng cách đứng gần hơn nữa. Và rồi “tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua”. Đây
là phút giây hạnh phúc nhất là lúc mà Liên và An dường như quên hết thảy những nỗi buồn hiện tại, quên

cả những đói nghèo lam lũ, ê chề đang bao vây cuộc đời họ. Trong lòng họ giờ đây chỉ có đoàn tàu. Đoàn
tàu mang thứ ánh sáng mạnh mẽ, khác thường ngang qua phố huyện “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả
xuống đường… những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính
sáng”. Đó là ánh sáng của sự sang trọng, văn minh, thứ ánh sáng khác xa với những ánh sáng yếu ớt, nhỏ bé
nơi phố huyện. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch ngang qua bầu trời phố huyện
rồi mất hút vào đêm tối nhưng cái ánh sáng của nó là ước mơ và khát vọng của biết bao nhiêu số phận con
người bé nhỏ đang mong ngóng. Đoàn tàu mang một thế giới khác đi qua, chính là khát vọng muốn được
đổi đời của họ. Họ gửi theo chuyến tàu cả tâm hồn của mình, họ muốn được đến với những chân trời mới,
nơi đó có ánh sáng của văn minh của no đủ. Nơi đó sẽ không còn cảnh đói nghèo lam lũ, không có cảnh đơn
điệu và buồn tẻ mà ăm ắp niềm vui. Họ xứng đáng được nhận một cuộc sống như thế, tại sao không?
Nhưng ước mơ chỉ là ước mơ. Tất cả lại quay về với quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn con chị Tý.
Chấm hết cho một đêm đợi chờ trong khát vọng và kết thúc bằng nỗi buồn rưng rưng nước mắt.
Liên và An đứng lặng người trong bóng tối dù chuyến tàu đã “đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ
bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa
mãi rồi khuất sau rặng tre”. Sự nuối tiếc của họ dường như đã phơi bày tất cả một cuộc sống nghèo nàn, bế
tắc. Nhất là khi họ tự nhận thức rằng “ Tàu đêm nay không đông và dường như kém sáng hơn ”. Nghĩa là
đoàn tàu cũng chỉ xoa dịu một chút nỗi đau trong tâm hồn hai đứa trẻ chứ không thể nào phá vỡ bức tường
thành mang tên “nỗi buồn” của chúng. Và Liên lặng người đi trong suy tưởng, đằng sau ánh sáng của đoàn
tàu và tiếng động cơ gầm vang đó là một thế giới rất riêng tư. Đó chính là nỗi nhớ về Hà Nội nơi có ánh
sáng của những ngọn đèn, nơi vui vẻ và huyên náo. Nơi đó là vùng sáng trong tâm tưởng và cũng là vầng
sáng trong ký ức tuổi thơ. Nơi mà ngày xưa chị em Liên được đi chơi bờ Hồ, được uống những cốc nước
lạnh xanh đỏ. Ký ức tươi đẹp thế nhưng giờ họ lại bị cầm tù giữa biết bao nhiêu là buồn bã. Chính đoàn tàu
đã mang lại cho Liên liều thuốc an thần và khơi dậy trong tiềm thức biết bao điều tươi đẹp. Cuộc sống ấy
thực sự khác xa với cuộc sống ở nơi này nhiều lắm nhưng biết làm sao được khi ký ức không thể trở về. “
Một quá khứ huy hoàng. Một hiện tại mong manh. Một tương lai mù mịt”. Đáng buồn thay!
Cuối cùng Liên cũng đi vào giấc ngủ, một giấc ngủ chập chờn hình ảnh ngọn đèn con của chị Tý . Một giấc


ngủ tịch mịch và đầy bóng tối. Đó chính là một sự ám ảnh về cuộc sống bế tắc, tù đọng không lối thoát mà
biết đến bao giờ chị em Liên mới có thể đổi thay.

Với lối viết nhẹ nhàng, mỗi truyện tựa như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, Thạch Lam đã mang đến
cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc về những thân phận cuộc đời trong xã hội cũ. Qua nhân vật Liên nhà
văn đã làm toát lên những giá trị nhân văn cao đẹp, giúp chúng ta thấu hiểu nỗi buồn đau của dân tộc trong
thế kỷ bạo tàn dưới ách đô hộ của bọn thực dân và đế quốc. Trang văn khép lại rồi mà ta còn thấy trước
mắt mình hình ảnh hai đứa trẻ ngồi đấy giữa phố huyện nhỏ nghèo tăm tối đang đợi chờ chuyến tàu đi qua
trong khát vọng mỏi mòn.
Đề 9 : Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân.
* Hướng dẫn làm bài
A. Yêu cầu
-Làm nổi rõ vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, nghệ thuật xây dựng nhân vật và ý nghĩa tư tưởng của hình
tượng ấy.
- Biết cách phân tích một nhân vật văn học. Bố cục mạch lạc, kết cấu chặt chẽ, văn phong trong sáng
B. Ý chính cần có
1. Mở Bài: Giới thiệu đôi nét về tác phẩm và hình tượng
- “Chữ người tử tù” là truyện ngắn rút từ tập “Vang bóng một thời” viết trước Cách mang (1940).
- Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về phương diện nghệ thuật. Giá
trị tương tự và nghệ thuật bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao.
2 Thân bài.
* Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người tài hoa, nghệ sĩ
- Huấn Cao có tài viết chữ, chữ Huấn Cao viết là chữ Hán (chữ Nho), loại văn tự giàu tính tạo hình. Các nhà
nho thửa xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ trở thành một môn nghệ thuật gọi là thư pháp. Có
người viết chữ thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà, xem đó
như là một thú chơi tao nhã của những người có trình độ văn hóa và thẩm mĩ cao.
- Huấn Cao là một nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp “Tài viết chữ rất nhanh và đẹp” của ông nổi tiếng khắp
cả tỉnh Sơn. Ngay cả viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm,
vuông lắm (…). Có được chữ ông Huấn Cao mà treo là một báu vật trên đời”. Cho nên “Sở nguyện của viên
quản ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Để có được
chữ Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục, mà còn phải liều mạng. Bởi vì,
biệt đãi Huấn Cao, một kẻ tử tù là một việc làm nguy hiểm, có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình.

* Huấn Cao mang vẻ đẹp khí phách bất khuất, hiên ngang.
- Huấn Cao dám chống lại triều đình mà ông căm ghét, khinh bỉ.
- Dù chí lớn không thành, tư thế của Huấn Cao bao giờ cũng hiên ngang, bất khuất.
+ HC ung dung, lãnh đạm dỗ gông trước mặt bọn lính, không thèm chấp mấy lời đe doạ.
+Ông bình thản ăn những món ăn do quan ngục biệt đãi, coi như mình có quyền hưởng thụ, ông làm việc
theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mắt nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân, nham nhở.
Cái nhìn hiên ngang đó không run sợ, không căm hờn, oán hận, không van xin, cầu khẩn. Đó là một cái nhìn
của kẻ dám làm dám chịu.
+Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt cuả quản ngục: Ngươi hỏi ta muốn gì?Ta chỉ muốn
có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây
=> Do đó, người đọc không chỉ nhận ra HC là một người có tài mà ông còn là người có dũng khí, hiên ngang
trước cường quyền, trước một cái chết treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của HC, đồng thời Nguyên Tuân
cũng hết sức trân trọng cái tâm của HC. Bởi Cái tâm kia mới bằng ba chữ tài(Nguyễn Du).


* Là người có cái tâm trong sáng.
Cái tâm của ông cũng vuông lắm, cao khiết và đày sức chinh phục như nét chữ của ông vậy. Có lẽ
phong cách tức là con người đã được thể hiện rất rõ ở đây
ít chịu cho chữ, nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ..
Thật đúng là nhân cách lý tưởng mà con người của ngàn năm qua vẫn ao ước.
Khi chưa hiểu quản ngục thi tỏ thái độ khinh thường. Cái thái độ khinh đời, ngang tàn đó phải chăng
làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Hc đã mang đến chốn lao tù, cho cái địa ngục sống này một ánh
sáng ký ảo, huyền diệu, lung linh, cầu trời đầy u ám của nhà tù.
- HC-vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng trí mà còn là một con người có trài
tim nhân hậu. Khi biết thiện ý của quản ngục, HC đã rất cảm động.
=> ta thấy ông Huấn là người chói rọi, soi sáng đạo lý làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng
hào quang toả sáng rực rỡ trên bời có lòng bao dung, độ lượng, chia sẻ nỗi niềm cùng với hai người bạn
bạn mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết
đâu một người thầy quản đay lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữ ta đa phụ mất một tấm
lòng trong thiên hạ. Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia mềm lòng.

Chính cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và những sở thích cao quý, hướng về văn minh, văn hoá mới cảm hoá
được trái tim dường như được đúc bằng thép ấy. Thái độ biệt nhỡn liên tài của HC đối với quản ngục không
phải sự liên tài sự trả ân đối với người đã đối xử tử tế, biết chơi chữ của mình, mà là sự trân trọng, cảm
đọng trước một nhân cách Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Quản ngục sống giữa bùn nhơ nhớp mà
vẫn giữu được thiên lương, biết trọng người tài, kính cái đẹp. Đó đúng là một đoá sen trong bùn.
Ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu toả ra rất rõ ở cảnh HC cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ
đẹo nhân cách HC. ở đây vẻ đẹp này toả hương thơm ngát hơn lúc vào hết. Dưới ngòi bút của NT, một cảnh
tượng đày kịch tính diễn ra, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Đó là sự tương phản giữa một bên là
một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tương đày mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián với một bên là
tấm lụa trắng tinh, căng phẳng và với ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. Ba đầu người
chăm chú trên một tấm lụa bạch nguyên vẹn.
- Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của nền văn minh, văn hóa.
Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái
sống, cái xấu xa đê tiện và cái trong trẻo cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân
rất giàu tính tạo hình với trình độ nghệ thuật điêu luyện, sức sảo, gần đạt đến sự hoàn mĩ( Vũ Ngọc Phan ).
Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực-bó đuốc của trí thiện, của niềm tin, của hy vọng và trong khung
cảnh thật nghiêm trang, thật thiêng liêng này, HC dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không
mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa xa, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, quyến rũ vào một sự
vật :tấm lụa bạch nguyên vẹn. Đúng thế, ở đây chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn tại. Chính
tấm lụa trắng tinh này mà ông HC đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới thực sự có sức mạnh. Ở
đây không còn là một HC tử tù nữa. Chỉ còn một HC tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng
không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về chân lý của cái đẹp. Ngôi sao sáng –HC-đang phát quang
bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ caí màn đem ngự trị ngàn đời ở đây. HC đem đến nơi đây một thế
giới văn hoá. Vẻ đẹp cao nhân đó đã làm cho viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đòng tiền kẽm
đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Tuy nhiên, ở
nhà ngục này có sự thay bậc đổi ngôi, có sự chuyển hoá vị thế, vị trí xã hội của con người. Nó noí lên một sự
thật mà đày tính lãng mạn. Giờ phút này và tại nơi đay không phải do quản ngục làm chủ. Sức mạnh, quyền
lực của cái đẹp và chân lý tồn tại trên đời, thể hiện sức mạnh, quyền uy theo cách riêng của nó.
Nó không khuất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không
giày xéo áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta đứng dậy, tự

nguyện đi theo nó để hướng tới cái CHÂN-THIỆN-MỸ trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn. Và ở đây caí đẹp
đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con người(Đôxtôiepxki).
Cái đẹp đăng quang, cái xâú xa đã phải chìm xuống nhường chỗ cho cái đẹp. Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và
rất cần sự đánh thức cái thiên lương ở mỗi con người. HC cho chữ như chuyển giao một nhân cách tự do,
chuyển giao cái đẹp đẽ cái đẹp mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật HC được khắc
hoạ bằng ngòi bút lãng mạn cứ sừng sững hiên ngang hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù,
phá vỡ cái cuộc sống đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt, trì trệ.


Phải chăng đó là quan niệm thẩm mỹ của HC hay của là của chính NT: cái đẹp phải gắn với cái thiện
không thể ở chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó của HC đã khiến cho ngục quan
cảm đọng vái người tù một cái và rưng rưng: Kẻ mê muội nỳa xin bái lĩnh.
=>Nói tóm lại, HC là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng
lại tự do về tâm hồn. Hay nói khác đi, HC dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong
hoàn cảnh lịch sử đang đày rẫy những cái xấu xa ,tội lỗi, biểu tượng cho Thiên lương cao quý. Con người
sống vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, đẻ vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người
đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.
3 .Kết bài
Dựng lên hình tượng HC với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp chật chội. NT đã thể hiện niềm
cảm phục sâu sắc đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực
đầy kịch tính kết hợp với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn
lãng mạn. Có thể nói Chữ người tử tù với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn
xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vơì của HC, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời
vang bóng và nó mãi mài vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.

Đề 10: Phân tích cảnh cho chữ- một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn yêu say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp,
tôn thờ cái đẹp. Ông miêu tả cái đẹp bằng khi ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện
lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa

hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Truyện ngắn Chữ người tử tù
(1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị
tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả một
cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.
Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một đã qua nay chỉ còn
vang bóng. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà nho giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa
nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dùng khí phi thường để sáng tạo ra nhân
vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông cùng là thầy
giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá
Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn
Tuân vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xả
hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là viên quản
ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để xin chữ treo trong nhà. Lão coi chữ của
Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên
đại nghịch cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày
thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã
hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị tri đối lập.
Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy tính cách hai nhân vật được bộc
lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.
Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thể mà ép mình viết câu đối bao giờ.
Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì
con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có
kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn


liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích
cao quý như vậy. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi
ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại

bị Huấn Cao cự tuyệt: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm
động: thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.
Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái
tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được thiên lương. Ông
khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi bởi ở đây khó giữ được thiên lương cho
lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.
Huân Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư
thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bà Quát. Đêm hôm ấy, lúc trại giam tính
Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong
một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Tác giả cố ý
miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quý của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của
nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình
tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù
cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván.
Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô
chữ trên phiến lụa óng. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thơ lại trở
nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có?
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại
không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy,
còn viên quản ngục và thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái
ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh
cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản
ngục và thơ lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng
kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên
lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử

hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của
ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di
huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyền Tuân là
cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp
của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí
phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộug, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm
cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản
đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin
bái lĩnh và cử chì run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành


khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng.
Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính
trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà thôi, mà những nét chữ tươi tắn nó
nói lên những bão tung hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng
tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự
chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mĩ và dũng trong
hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí
duy mĩ của Nguyễn Tuân.
Đề 11: Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách
mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn…
sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà… Chữ
người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang bóng một thời. Nổi bật trong
tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí
phách anh hùng lẫm liệt khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.

Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang
đến cho người đọc bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp
cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là
những con người tài hoa bất đắc chí. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập
truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu tả đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những
phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một
nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa
Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn
Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.
Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:
Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm lặn lội tìm gươm báu
Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)
Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời
trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục
quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy
nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của
một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu
cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ. Huấn Cao mang cốt cách
ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường thể hiện lòng trung
quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội
đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho
người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng
nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy
nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm
xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc
đời.
Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu
lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông,

phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái”


làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã
hội dơ bẩn.
Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở
ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gặm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu
thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là
chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.
Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô "ta - ngươi", miệt thị hạ nhục “Ngươi
bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch
thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa
là...” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị
trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần
tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có
một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.
Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái
chết, coi thường cái chết.
Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của con người
tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc,
viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh tao. Tài viết chữ
đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá một thời. "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm,
vuông lắm". Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng "có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu
vật trên đời". Tuy nhiên, ông lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng: “ Ta nhất sinh không vì
vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong
tay, dưới quyền mình nhưng lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con
người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật;
Huấn Cao là kẻ tử tù . Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người
bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội họ
là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai

kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.
Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm cái tấm
lòng biệt nhỡn liên tài... thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ ”. Lời nói rất chân tình,
xúc động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí.
Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và
tài năng của mình dồn tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao: VIẾT THƯ
PHÁP.
Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho
chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và
thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen
thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân
chuột, phân gián. “Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh
đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ
không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu
rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa
hơn thì ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý
nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến
thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện,
cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh
mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện... Sự
chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương” (Lưu Thế Quyền)
Viết thư pháp là nơi thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng.
Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm tục được hiện hữu


rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự
nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi
mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay

thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng
ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy
nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng
là “Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc
uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục
lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run
run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng
chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm
nên bức tranh cho chữ sáng ngời. Kỳ lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã
bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó
không còn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ còn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp.
Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù
tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái
Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì
không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái
đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết
của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử”.
Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con
người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức
lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời
khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có
thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm
mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản
ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho
nghẹn ngào: - Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái
đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và
ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.
Thành công của Chữ người tử tù là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau
lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc
thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp

trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương
thiện, v.v...) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch
lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: "... văn Nguyễn Tuân không phải thứ
văn để người nông nổi thưởng thức".

Đề 12: Phân tích ý nghĩa tác dụng lời khuyên của ông Huân Cao “Tôi bảo thực đấy, thầy Qủan
nên tìm về nhà quê mà ở đạ, thầy hãy thóat cái nghề này đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ.
Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện
đi” (Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân).
Dàn ý
I. Mở bài:
- Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa- khí phách. Ngay từ Cách mạng tháng Tám, ngòi bút ấy đã
biết hướng thiện, hướng mĩ để tìm ra và lưu giữ lại cho đời những về đẹp của một thời vang bóng.
- Một trong những chi tiết trong truyện ngắn Chữ tử tù là một của Nguyễn Tuân ( in trong tập
truyện Vang bóng một thời (xuất bản năm 1940) ) đã để lại nhiều ấn tượng trong suy nghĩ của
người đọc là lời khuyên của Huấn Cao đối với viên quan ngục : “Tôi bảo thực đấy, thầy Qủan nên
tìm về nhà quê mà ở đạ, thầy hãy thóat cái nghề này đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây,


khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
- Phải chăng lời khuyên trên của Huấn Cao có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc với quan ngục ( nói
riêng) và với chúng ta ( nói chung) về quan niệm sống và cách sống?
II. Thân bài:
1/ Nội dung lời khuyên: Huấn Cao khuyên viên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn, tìm về chốn
thanh tao để tiếp tục sở nguyện cao quý và giữ thiên lương cho lành vững.
1.Ý nghĩa của lời khuyên:
- Cái đẹp chỉ gắn với con người khi con người giữ được thiên lương.
- Từ nơi đất chết, cái đẹp vẫn có thể nảy sinh.
- Cái đẹp và nhân cách cao quý cùng tồn tại và bổ sung cho nhau phát triển.
=> Là lời di huấn của Huấn Cao ( cũng là của nhà văn ) nhắn tới quản ngục và tất cả mọi người :

Muốn chơi chữ phải giữ lấy thiên lương ; trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó tồn tại vững bền;
Chữ nghĩa, thiên lương không thể sống chung với tội ác và nơi ngục tù đen tối.
2. Tác dụng của lời khuyên:
- Cảm hóa được con người (Qủan ngục đã nhận thức đúng về một con người có thiên lương trong
sáng, về giá trị của cái đẹp nên đã tiếp nhận lời khuyên của Huấn Cao một cách thành tâm, đầy xúc
động): “Ngục quản cảm động, vái người tử tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ
vào kẽ miệng làm cho nghen ngào : Kẻ mê muội này xin bãi lĩnh”. à Bằng con đường của trái tim,
sức mạnh ấy càng được nhân lên gấp bội.
- Khẳng định thiên lương trong sáng của nhân vật Huấn Cao.
III. Kết bài:
- Có thể nói, Nguyễn Tuân đã chọn một cách kết thúc tác phẩm thật sâu sắc và ý nghĩa bằng lời
khuyên của người tử tù với viên cai ngục.
- Lời khuyên ấy đầy tình người và đã trở thành sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu vẫn cam
chịu nô lệ , giúp cho một con người lầm đường sẽ trở về với cuộc sống lương thiện.
- Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quan ngục đẽ nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp , cái
thiện, của thiên lương con người.
Đề 13: Em hãy phân tích chương Hạnh phúc của một tang gia trong tiểu thuyết “Số đỏ”của Vũ Trọng Phụng.
Gợi ý làm bài:
I. Mở bài
Hạnh phúc của một tang gia thuộc chương XV tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Trong nhan
đề này, tang gia là gia quyến mất đi người thân, đau thương vô hạn, buồn thảm vô cùng ; còn hạnh phúc là
nói đến niềm vui, sự may mắn. Tuy nhiên, căn cứ vào nhan đề và nội dung chương truyện, ta dễ dàng nhận
ra cái đại gia đình cụ cố Hồng trong đoạn trích này lại tỏ ra vô cùng hạnh phúc, vui vẻ trước cái chết của cụ
cố Tổ bởi lẽ cái chết kia sẽ biến di chúc của cụ cố từ chỗ là lý thuyết đến lúc được thực hành, ai cũng có
phần trong gia tài kếch sù mà cụ để lại.
Con cháu cụ cố mỗi người một vẻ vui không ai giống ai, nhưng cũng vô cùng nóng lòng, sốt ruột.
Điều này được thể hiện ngay trên nét mặt : ai cũng có nét bối rối, đăm chiêu, nét “buồn lãng mạn rất đúng
mốt một nhà có đám”.
Tình huống trào phúng đặc sắc làm nổi bật sự đối lập trào phúng đủ loại và làm đậm nét hàng lọat
chân dung biếm họa của một đại gia đình bất hiếu.

II. Thân bài
1. Hình ảnh đại gia đình bất hiếu
Trong cái đại gia đình ấy, ai cũng nhận được niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ trước cái tin cụ cố tổ
chết đi bởi họ đều được chia tài sản– họ đã mong mỏi điều này từ lâu.
- Cụ cố Hồng mới 50 tuổi nhưng đã ước mơ được gọi là cụ cố. Bây giờ, cụ đã được thỏa ước nguyện : cụ
“mơ màng đến cái lúc mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu …. Thế kia à” => Thật
bất hiếu, háo danh.


- Ông Văn Minh: là cháu đích tôn của cụ cố tổ, chắc chắn sẽ được chia gia tài vì vậy ông ta mong vị
luật sư đến nhanh. Ông ta còn « phân vân, vò đầu rứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành
thử lại thành ra hợp thời trang ». Nhưng sự thật là ông ta đang bận suy nghĩ xem phải xử trí với Xuân tóc đỏ
ra sao bởi hắn phạm 2 cái tội nhỏ nhưng lại có một cái ơn to =>tham tiền, tha hóa về đạo đức, bất hiếu tột
cùng.
- Bà Văn Minh : Sốt ruột vì chưa được mặc bộ đồ xô gai tân thời - Sản phẩm của tiệm may Âu hoá.
Những bộ đồ mà bà cho rằng:“ Có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được
hưởng chút ít hạnh phúc ở đời” -> Chỉ nghĩ đến lợi nhuận cho mình, vô đạo đức.
- Ông phán mọc sừng: là cháu rể cụ cố tổ, không ngờ cái sừng hươu vô hình trên đầu ông ta lại có
giá trị mấy nghìn đồng nên tỏ ra vô cùng sung sướng, hạnh phúc => một kẻ bất chấp danh dự, hám tiền, vô
liêm sỉ.
- Cô Tuyết – cháu gái cụ cố tổ: sung sướng vì sẽ được mặc bộ đồ voan mỏng có tên là “ngây thơ” để
cho thiên hạ thấy cô chưa đánh mất cái chữ trinh. Cô mang một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt nhưng
không phải Tuyết buồn vì ông nội mất mà vì ngó quanh đám tang vẫn chưa thấy người yêu đến => một đứa
con gái hư hỏng, thiếu văn hóa, vô đạo đức.
- Cậu tú Tân: sướng điên người vì được dịp dùng mấy cái máy ảnh mới mua => một kẻ chỉ lo vui thú
cá nhân, vô tâm, tha hóa về đạo đức, bất hiếu.
=> Đồng tiền và lối sống văn minh sớm đã len vào đời sống từng gia đình, phá tan tình cảm, băng
hoại đạo đức truyền thống.
2. Hình ảnh người đến đưa đám ma
- Những ông bạn thân của cụ cố Hồng

+ Là những người có địa vị: Đi đám ma “ngực đầy huân chương” => Phô trương không đúng lúc.
+ Mép và cằm đủ loại râu ria: hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm
rậm, loăn quăn. Trông họ oai vệ nhưng cũng rất dâm đãng.
+ Cảm động trước cách ăn mặc hở hang của cô Tuyết hơn là khi thấy một người đồng loại mất đi.
+ Những người đi đưa ma là các “trai thanh gái lịch” nhưng lại ứng xử vô văn hóa, vô đạo đức: biến bãi
tha ma thành nơi chụp ảnh “nghệ thuật”, biến cảnh đưa đám ma thành chốn bình phẩm, chê bai, hẹn hò,
tranh cãi với nhau.
3. Hình ảnh Xuân tóc đỏ
Xuân tóc đỏ xuất hiện sau cùng mọi người đều hướng vào hắn:
+ Cô Tuyết liếc mắt đưa tình tỏ ý biết ơn.
+ Bà cố Hồng sung sướng biết ơn Xuân đã làm cho đám ma trở nên danh giá nhất. Cảm động trước cái
đám ma gương mẫu.
Như vậy, đám ma cụ cố tổ trở lên to tát bởi có sự kết hợp cả lối Ta, Tàu, Tây...nhưng lại là đám hội để
mọi người đến mà “khoe danh, khoe của, khoe áo, khoe tình…” Một đám ma danh giá nhất, lớn nhất, thứ gì
cũng có nhưng chỉ thiếu một điều đó là nỗi đau buồn, lòng thương xót cho người quá cố => Xã hội nhố
nhăng, đồi bại, giả dối và vô đạo đức.
III. Kết bài
Vũ Trọng Phụng đã miêu tả một cái đám ma rất to, rất đông đủ với mọi nghi thức trọng thể nhưng
lại thiếu điều quan trọng là sự đau buồn, sự thương tiếc với người đã khuất – thiếu điều này mọi thứ còn lại
đều trở nên vô nghĩa, giả dối...
Đề 14 : Phân tích nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
trong tiểu thuyết “Số đỏ”.
Gợi ý làm bài:
I. Mở bài
Nghệ thuật trào phúng trong văn chương yêu cầu người viết lựa chọn trong đời sống hiện thực một
mâu thuẫn, một tính huống, một sự kiện hoặc một hiện tượng khôi hài, kì dị, khác thường rồi phóng đại, tô
đậm nó trước mắt người đọc để gây ra tiếng cười nhằm phê phán, châm biếm một đối tượng nào đó.
Chương 15 – Hạnh phúc của một tang gia là chương tiêu biểu nhất trong nghệ thuật trào phúng của
Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết Số đỏ.



II. Thân bài
Trong chương truyện này, nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua:
1. Nhan đề của chương truyện: Hạnh phúc của một tang gia
Cách đặt nhan đề chương truyện này cũng lạ và đầy mâu thuẫn. Tang gia là gia đình có người vừa
chết nên hết sức đau buồn nhưng trong cái tang gia giàu sang rất thượng lưu này, một niềm hạnh phúc to
lớn cứ tràn ra không nén nổi. Cái chết của cụ tổ chẳng làm cho đám con cháu tiếc thương mà đem đến
hạnh phúc to lớn bất ngờ. Họ chờ đón đám ma như chờ đón một đám hội linh đình với những mục đích
riêng.
2. Dựng các hình tượng nhân vật trào phúng
Tương tự đề 13
3. Miêu tả cảnh tượng trào phúng
- Cảnh tổ chức đám ma theo kiểu kết hợp cả ba lối Ta, Tàu, Tây..., đám đi đến đâu làm huyên náo
đến đó => một đám ma hổ lốn, phô trương, giống đám rước.
- Cảnh những người đi đưa ma (phân tích các mẩu chuyện mà họ nói với nhau, cử chỉ, điệu bộ,...)
4. Giọng điệu trào phúng
- Tính chất gây cười của chương truyện được tăng lên rất nhiều nhờ tác giả dùng những từ ngữ gây
cười để tạo nên những hình ảnh trào phúng.
+ Đó là hình ảnh nhà đạo diễn Tú Tân say mê bố trí, dàn dựng mọi người để nâng cao tính “nghệ
thuật” của những bức ảnh chụp lúc hạ huyệt: “Cậu Tú Tân luộm thuộm...chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt”.
+ Đó là đám phóng viên nghiệp dư – đám bạn cậu Tú Tân “rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà
chụp cho ảnh khỏi giống nhau”.
- Tính chất gây cười của chương truyện cũng được tạo nên từ cách đặt câu tạo mâu thuẫn giữa cái
thật và cái giả, cái hình thức đẹp đẽ và nội dung dối trá, đê tiện, đớn hèn. Nổi bật lên là cảnh ông Phán mọc
sừng trong cảnh hạ huyệt: Trong khi ông cứ oặt người đi khóc mãi không thôi thì ông cũng đã tranh thủ
thanh toán được món nợ với thằng Xuân: “Xuân tóc đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi vào
tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư”. Chi tiết này, câu văn này chính là đỉnh cao của sự bịp bợm, đê
tiện.
III. Kết bài
Qua chương Hạnh phúc một tang gia Vũ Trọng Phụng đã bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình.

Bút pháp tài năng của nhà văn được thể hiện ở chỗ: phóng đại mà như không phóng đại làm cho mọi việc
đều như thật và hơn thật. Ông tập trung vào sự mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, sau đó khai thác
triệt để nhằm tạo nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện lên như một màn
hài kịch sinh động, một bức tranh biếm họa khổng lồ về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà
Nội thời bấy giờ.

Đề 15: Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác
phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao.
I. MỞ BÀI
Nam Cao là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông là cha đẻ của những tác phẩm
tên tuổi : “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”… trong đó Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao và cũng
là kiệt tác của văn học hiện thực phê phán. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo và con đường
tha hóa của người nông dân trước Cách mạng, Nam Cao đã khắc họa thành công tấn bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo mang đến cho bạn đọc bao niềm xúc động sâu sắc.
II. THÂN BÀI
1. Bi kịch là gì ? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực
đời sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi
vào hoàn cảnh bi đát (có thể dẫn đến cái chết). Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch
tình yêu của Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Như Tô… nhưng bi
kịch lạ lùng nhất là bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người” của Chí Phèo.


2. Bi kịch ấy ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của Chí Phèo. Chí Phèo xuất
hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi "hắn
vừa đi vừa chửi". Đó là hình ảnh vừa quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say
rượu. Lạ vì hắn chửi mà không có ai chửi nhau với hắn, không ai lấy làm điều. Chí "chửi trời, chửi
đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ
ra thân hắn". Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức
được bi kịch của chính mình. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng
chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí

Phèo lại là “tiếng chó cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù
sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa. Qua tiếng chửi ấy, ta nhận ra bốn
thái độ: Thái độ của người chửi: hằn học, hận thù; thái độ người nghe: dửng dưng, khinh miệt; thái
độ nhà văn: xót xa, thương cảm; thái độ người đọc: tò mò… Vậy Chí Phèo là ai?
3. Bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm
được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh
chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi
nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực "hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở
cho nhà người khác, năm hai tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến". Đây là quãng thời gian đẹp
nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp.
Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm
điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người
khác, anh cũng có ước mơ giản dị: "có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt
vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Đó
chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước
mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào
cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền
khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
4. Bi kịch tha hóa, lưu manh là con đường dẫn đến bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù thực
dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí
không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với
một nhân hình gớm ghiếc "cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm
gườm trông gớm chết... cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng
cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế". Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo
say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho
lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần
lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh "con quỷ dữ của
làng Vũ Đại". Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng
tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở
che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện:

"Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người
dân lương thiện". Hắn làm những việc ấy trong lúc say " ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức
dậy vẫn còn say... đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận". Chưa bao
giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì "những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn
khác thành những cơn dài mênh mang". Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về
cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ
và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không
ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ
đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
5. Gặp Thị Nở và khao khát hoàn lương. Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông
dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính


tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện
của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến "ma chê quỉ
hờn", kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để
thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày
tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình
thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Có nhà phê bình đã cho rằng: Thị Nở là một sứ giả mà Nam
Cao phái đến để thức tỉnh Chí Phèo. Đó là sứ giả của tình yêu thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc
của nhà văn. Nhưng có lẽ cần phải nói thêm, Thị Nở không chỉ là vai trò sứ giả của lòng nhân đạo
mà Thị còn là một “thiên sứ” của tình yêu. Vị thiên sứ này không có đôi cánh thiên thần nhưng có
đôi tay đầy ắp tình người. Thiên sứ ấy như một ngọn gió, một ngọn lửa thổi vào tâm hồn của Chí.
Nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh anh. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt cháy lớp vỏ quỷ
dữ để trả về cho anh một con người.
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài
kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái
chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về... Những âm thanh ấy ngày nào
chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Âm thanh cuộc sống này khiến ta liên
tưởng đến tiếng sáo của đêm tình mùa xuân trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tiếng sáo đã lay động

tiềm thức xa xôi của Mị, đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá khứ đẹp tươi. Đó chính là
những chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên chất thơ cho tác phẩm. Chính cuộc sống đã lay động
trong tiềm thức xa xôi của Chí. Nó như cơn gió thổi tung đám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt
nước nhỏ vào tâm hồn sỏi đá, cằn khô làm tan đi giá băng tâm hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy ước
mơ một thời trai trẻ :"có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại
bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Rồi cũng trong cái
phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo đã cô đơn hơn bao giờ hết “Nhìn phía trước người thân chẳng có/
Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Hắn như đã thấy "tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô
độc - cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau". Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà
mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở
không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.
Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần
người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ.
Kỳ diệu làm sao bát cháo hành Thị Nở, một liều tiên dược vừa giải cảm vừa giải độc. Cháo hành đã
tẩy ố đi men rượu, gột rửa những tội lỗi con người. Cháo hành có hương vị đặc biệt quá, những kẻ
vô nhân tính như cha con nhà Bá Kiến làm sao mà biết được. Đó là hương vị của tình người, hương
vị của tình yêu. Khi mà cả làng Vũ Đại không chấp nhận Chí là con người thì Thị Nở đã giang rộng
vòng tay để đón lấy anh. Và bát cháo hành kia vô hình dung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và
mở đầu cho một mối thiên duyên. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng
khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Chí Phèo quen sống với một
kiểu định nghĩa : Muốn có cái ăn hắn phải kêu làng, phải rạch mặt ăn vạ, hắn phải thực sự hóa thân
vào con quỷ dữ... Mỗi miếng ăn hàng ngày của Chí đều có máu và nước mắt của những người dân
lương thiện làng Vũ Đại. Nhưng hôm nay cái triết lý sống ấy của Chí dường như đã thay đổi, những
gì hắn đã từng có giờ phản bội lại hắn trong hương cháo hành của người đàn bà xấu như ma chê
quỷ hờn kia. Hắn hiểu rằng người ta sống với nhau không chỉ bằng tội ác mà còn bằng cả tình
thương yêu nữa. Mắt hắn lần đầu tiên ươn ướt. Hơi cháo hành phảng phất phục sinh phần người
trong Chí... Hắn có thể sống với người ta bằng tình yêu, hắn nhen nhóm một mơ ước về cuộc sống
bình dị... Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí cả...
Bát cháo hành giản dị nhưng bao nhân tính ẩn chứa, nó giữ chân Chí Phèo đứng lại ở bờ của phần
người... Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát "Hắn cảm thấy lòng

thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ...”. Đó là giây phút mà hắn người
nhất. Đã hai lần chính Thị Nở đã phải thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền!" rồi “Những lúc tỉnh táo hắn
cười nghe thật hiền”. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc
sống. Phần quỷ tạm thời rũ bỏ. Đó là giây phút Chí "thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi


người". Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở "Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay là
mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui". Ôi! Phải là lời của Chí Phèo đó không ? Nghe sao mà
hiền lành, có chút gì ngờ nghệch, hồn nhiên mà lại rất đỗi chân thành. Lời cầu hôn không tình tứ
như bao kẻ khác nhưng lại khiến cho trái tim chúng ta nghẹn ngào thương cảm. Từ một con quỉ dữ,
nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả
những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh
hoạn, thô kệch, xấu xí,... cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới
biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
6. Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc
thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước
lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại
đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến
khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm
lại trước mắt của anh. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc
sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là
khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không
còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa
mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu
trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm
đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm
người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi
rượu không còn đủ sức để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí ấy.
Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe

“thoang thoảng mùi cháo hành” rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến
nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con "khọm già", con "đĩ Nở" nhưng sự thức
tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến.
Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng
nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người,
cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức
tỉnh, đòi quyền làm người:
- Tao muốn làm người lương thiện ?
- Ai cho tao lương thiện ?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau
của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào
bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người
đầy đắng cay trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi
người. Tại sao phải đi đòi lương thiện ? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất.
Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt
người ấy bóp nát. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá
Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu
về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người!
Hãy yêu thương con người!
Tác phẩm Chí Phèo thông qua tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà
văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực
dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những
nỗi khổ đau, bị đày đọa và lăng nhục của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát
hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến
một cuộc sống tốt đẹp hơn.
III. KẾT BÀI
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị


nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật

của Nam Cao. Tác phẩm Chí Phèo mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi
dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. Có một nhà thơ đã từng viết
rằng: "Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống - Nào có dài chi một kiếp người - Nhà văn chết, nhân
vật từ trang sách - Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai". Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá trị nghệ
thuật và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi thời gian, đã chứng minh sức sống mạnh
mẽ, bất hủ của nó.
Đề 16: Một vài suy nghĩ xung quanh mối tình Chí Phèo - Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo
của Nam Cao
Mỗi tác phẩm văn học mang một sức sống riêng, để lại những ấn tượng, những nỗi ám ảnh riêng.
Mỗi hình tượng nghệ thuật, mỗi hình ảnh hay đơn giản là một chi tiết trong tác phẩm cũng đủ khiến
người đọc nao lòng, bận bịu bao suy tư.
Không hiểu sao khi đọc “Chí Phèo” của Nam Cao tôi luôn luôn hình dung ra một con đường in
bóng hình những bước chân loạng choạng, ngật ngưỡng đầy phẫn uất của một Chí Phèo say - tỉnh.
Và trên con đường - hành trình đời đầy nỗi đau và bi kịch ấy, những giây phút hạnh phúc, những cử
chỉ yêu thương mà Chí được hưởng thật hiếm muộn. Song dù chỉ là một giọt nước giữa sa mạc đời
bao la của Chí thì bát cháo hành của thị Nở vẫn làm tròn nhiệm vụ của một nguồn nước mát lành
góp phần thức tỉnh, hồi sinh tâm hồn Chí sau bao tháng năm đọa đày trong kiếp quỷ dữ. Cùng với
những ám ảnh về bi kịch nhân sinh của con người, hương cháo hành thoang thoảng trong “Chí
Phèo” mãi mãi còn vương vấn trong hồn người đọc như một biểu tượng của tình cảm nhân đạo sâu
sắc, đậm đà trong siêu phẩm này.
Hình ảnh “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo trong truyện gắn liền với mối
tình “đôi lứa xứng đôi” Chí Phèo - thị Nở. Trước khi gặp thị, Chí đã từng là một người nông dân
lương thiện, hiền lành như cục đất. Con người ấy dù có tuổi thơ bất hạnh, bị chuyên tay như một
món hàng nhưng vẫn giữ trọn những vẻ đẹp tâm hồn cao quý, thiêng liêng của một đời lương thiện,
biết phải trái, đúng sai, biết tự trọng. Nhưng bàn tay của bọn cường hào phong kiến (mà đại diện là
Bá Kiến) và cái nhà tù thực dân không cho con người ấy sống đời lương thiện. Chúng hùa với nhau,
tước đi cả nhân hình, nhân tính của người nông dân lương thiện, để biến anh Chí thành thằng Chí
Phèo, biến anh canh điền hiền lành, chăm chỉ thành kẻ lưu manh có mỗi một nghề là rạch mặt ăn
vạ. Sau 7, 8 năm đi khỏi làng Vũ Đại, Chí Phèo hồi hương trong tình cảnh vô sản. Sự hiện hữu của
Chí Phèo ở làng Vũ Đại là một con số “không” tròn trĩnh, không nhà không cửa, không bạn bè

người thân, không một tấc đất cắm dùi, không được thừa nhận là một con người. Đó là cái bi kịch
đau đớn của con người cô đơn đi giữa đồng loại. Chí chửi mong nhận được sự hồi đáp - dù là sự hồi
đáp thấp hèn nhất nhưng cũng không có. Chẳng ai cho Chí chút quan tâm, không ai coi hắn là
người. Hắn chửi vào khoảng không bao la của sự vô tình, lạnh lẽo. Hắn chửi thì tai gần miệng đấy,
hắn lại nghe. Chỉ còn một thằng say rượu cùng ba con chó dữ. Còn gì thê thảm hơn thân phận của
con người ấy - thân phận của con người - vật.
Cái lần đầu tiên ra tù rồi đến nhà Bá Kiến chửi đổng, hình như Chí Phèo đã lờ mờ nhận ra kẻ
thù đã dìm mình xuống vũng bùn tha hóa. Nhưng ở cái mảnh đất “quần ngư tranh thực” này, trước
một Bá Kiến gian hùng, “khôn róc đời”, Chí Phèo thật thảm hại biết bao. Chí không những không
trả thù được mà còn trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến - kẻ thù của mình, tiếp nối đời Năm Thọ,
Binh Chức. Từ đó, Chí Phèo trượt dài trên con dốc tha hóa, xuống đáy vực của nó để thành “con
quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Người ta tránh hắn, sợ hắn vì hắn làm bao nhiều việc cướp bóc, đốt phá,
làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện. Hắn làm tất cả những việc ấy trong cơn say
triền miên, vô tận, đến nỗi chính hắn không biết về chính bản thân mình. Gương mặt quỷ dữ, hành


động tác quái theo kiểu quỷ dữ của Chí đã khiến con đường trở về của Chí cụt lối. Cánh cửa của xã
hội lương thiện đã đóng sầm trước mặt hắn khi hắn hồi hương thì đến nay nó được chèn cài kỹ
lưỡng, im ỉm như một khối băng. Chí hiện diện như một bóng hình hắc ám đi bên lề cuộc sống của
làng Vũ Đại.
Thế nhưng, phía cuối đường hầm vẫn còn chút ánh sáng le lói để Chí hy vọng. Trong cái làng
Vũ Đại ấy vẫn còn một con người nhìn đến Chí, không sợ Chí Phèo và luôn đi qua vườn nhà hắn để
kín nước. Đó là một người đàn bà khốn nạn, khổ đau, chịu nhiều thiệt thòi - thị Nở. Chao ôi! Sao
Nam Cao lại dùng những lời văn lạnh lùng đến tàn nhẫn, mỉa mai để tả người đàn bà khốn khổ ấy?
Đã mang một dung nhan “xấu ma chê quỷ hờn”, Thị lại còn dở hơi “ngẩn ngơ như những người đần
trong cổ tích”, mà thị lại còn nghèo nếu trái lại thì ít nhất có một người đàn ông khổ sở. Chưa hết,
thị Nở còn có dòng giống mả hủi nên người ta vẫn “tránh thị như tránh một con vật rất tởm”. Ngoài
30 tuổi thị vẫn chưa lấy chồng trong khi ở cái làng Vũ Đại người ta kết bạn từ lúc lên tám, lên chín,
có con từ lúc 15, không đợi đến năm hai mươi đẻ đứa con thứ nhất. Trong tình hình đó ta có thể nói
quách thị không có chồng.

Ông trời nhiều khi run rủi, thương người nhưng thực sự ở trường hợp Chí Phèo - thị Nở này ta
có thể nói ông thương hay ông ác, gây nghịch cảnh trớ trêu? Trách trời chi cho xa, trách nhà văn
Nam Cao sao không tác thành cho mối tình “đôi lứa xứng đôi” ấy? Song làm sao mà tác thành
được, ai cho phép họ đến với nhau. Cả một xã hội với bao định kiến không cho họ đến với nhau,
không cho họ hạnh phúc trọn vẹn. Đọc kỹ, ngẫm ở chiều sâu văn bản tác phẩm, ta mới thấy Nam
Cao thương người! Nếu không có ngòi bút của ông thì những kẻ tha hóa như Chí Phèo, những
người đàn bà cùng khốn như thị Nở chẳng bao giờ được biết đến chút ít hạnh phúc của yêu thương,
của tình ái. Họ đã gặp nhau trong một đêm gió mát, rười rượi ánh trăng ở vườn chuối cạnh bờ sông
mà những tàu chuối bị gió bay lại “giẫy lên đành đạch như là hứng tình”. Khung cảnh lãng mạn
đang tác thành cho họ. Chí Phèo uống rượu ở nhà Tự Lãng đã say từ nửa đường; thị Nở đi kín nước
cũng hớ hênh tựa vào gốc chuối ngủ trong cái gió mát như quạt hầu. Hai con người dị dạng, hai số
phận trớ trêu đã trải qua một đêm tình lãng mạn đúng kiểu “Chí Phèo - thị Nở”. Nhưng Nam Cao
dựng lên mối tình “người - ngợm” này không phải để câu khách rẻ tiền mà làm tỏa sáng tình người,
tình yêu thương và sự săn sóc ấm áp của một người đàn bà xấu xí ngoại hình nhưng lại có một tấm
lòng vàng.
Đêm tình ấy khiến thị Nở xao xuyến, suy nghĩ nhiều, đặc biệt về Chí Phèo, về trận ốm của Chí.
Thị về nhà sau cuộc tình, sau khi dìu Chí vào nhà và trằn trọc không sao ngủ được. Thị nghĩ “thổ
trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc nhừ”. Và thị thấy phải cho hắn ăn một tí gì mới
được, “Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà”.
“Thế là vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo để nấu cháo cho Chí. Hành thì nhà thị may lại còn”. Nam
Cao đã miêu tả chiều sâu tâm lý nhân vật với những rung cảm, những suy tư tinh tế. Tâm lí của thị
Nở vừa rất ngô nghê lại vừa sâu sắc. Đó là những rung động, những tình cảm tha thiết của một
người đàn bà, nhất là một người đàn bà đang yêu và muốn chăm sóc cho người yêu của mình. Thị
không dở hơi mà ta thấy thị rất lo cho Chí, lo với tình cảm của nhân tình, nhân ngãi, của người làm
ơn và cũng là của người chịu ơn. Thị nghĩ: “mình bỏ hắn lúc này cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm
với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng” thấy ngường ngượng mà thinh thích…”. Thiên tính nữ,
thiên chức của người đàn bà thức dậy trong thị. Thị khao khát hạnh phúc, tình yêu như mọi người,
dù chỉ là làm vợ của thằng… Chí Phèo. Cho nên bát cháo hành của thị Nở đem cho Chí không chỉ
là trách nhiệm mà còn là cả một tấm lòng. Hơn tất cả những người đẹp đẽ ở làng Vũ Đại, thị có một
tấm lòng vàng, tấm lòng chân thành và cao cả. Trong thâm tâm của thị, thị lo cho Chí, một nỗi lo

thực sự của những người thân yêu dành cho nhau. Thị còn thấy thương Chí: “cái thằng liều lĩnh ấy
kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình”. Đồng thời
bát cháo ấy còn có lòng yêu, tình yêu: “Thị thấy như yêu hắn: đó là cái lòng yêu của một người làm
ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn”.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×