ĐÁNH GIÁ NGẪU NHIÊN MỨC SẴN LÒNG TRẢ CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG CHO THỰC PHẨM HỮU CƠ Ở
ARGENTINA
Rodríguez E.1, Lacaze V.2 và Lupín B3
123
Đại học quốc gia Mar del Plata / Khoa Kinh tế và Khoa học xã hội, Mar del Plata,
Argentina
Tóm tắt
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hay thực phẩm sạch (organic agriculture) đã trải qua
sự phát triển đáng chú ý so với các sản phẩm khác trong những năm qua, điều đó
thể hiên qua ý thức của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm.
Bài nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá mức sẵn lòng trả (WTP) cho thực phẩm
sạch ở thị trường nội địa Argentina nhằm cung cấp những thông tin hữu ích để gain
support và đề ra những chiến lược chiêu thị, tiếp thị và gắn nhãn cho thực phẩm
sạch
Một mô hình hồi quy logistic với biến nhị phân (Binomial Multiple Logistic
Regression?) được dùng để ước lượng qua nguồn dữ liệu từ một cuộc điều tra tiêu
thụ thực phẩm được thực hiện ở thành phố Buenos Aires thuộc Argentina vào
tháng 4 năm 2005.
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) được chọn để tính mức sẵn lòng trả cho 5
loại thực phẩm sạch sau đây: sữa thường regular milk (ít nutrition hơn “sữa hữu
cơ” organic milk), rau sống leafy vegetables, bột nguyên cám Whole Wheat Flour
(xay từ nguyên hạt lúa mỳ), thịt gà tươi Fresh chicken và thảo mộc có mùi Arometic
Herbs.
Từ khóa: Sự sẵn lòng trả, Food attribute, hữu cơ
I.
GIỚI THIỆU
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hay thực phẩm sạch (organic agriculture) đã trải qua sự
phát triển đáng chú ý so với các sản phẩm khác trong những năm qua, điều đó thể hiên
qua ý thức của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm. Tại Argentina, yếu tố quan trọng
như điều kiện sinh thái nông nghiệp tốt, nhu cầu lao động chuyên sâu, khía cạnh xuất
khẩu đối với các loại thực phẩm khác biệt đang tăng, có thể chuyển đổi sản xuất cơ bản
thành một hoạt động mang lại lợi nhuận cho nông dân, các nhà phân phối và bán lẻ, từ đó
nâng cao phát triển nền kinh tế trong khu vực.
Khi mua thực phẩm, quyết định người tiêu dùng dựa trên giá cả và chất lượng. Những
sự lựa chọn đó có điều kiện chắc chắn bởi các thông tin có sẵn. Tại thị trường trong nước
Argentina, nhiều người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm lành mạnh
(healthy products), nói cách khác là sản phẩm hữu cơ vì chúng làm tăng độ an toàn của
người tiêu dùng bằng cách giảm rủi ro về sức khỏe (health risks). Những thông tin về các
thuộc tính chất lượng của thực phẩm, ví dụ các thuộc tính an toàn; tiện lợi; địa điểm và
cách thức sản xuất sản phẩm, mối quan tâm về môi trường, là rất hữu ích cho người tiêu
dùng, nhà sản xuất, nhà quản lý chính phủ (government regulators), và các nhà nghiên
cứu. Điều này đặc biệt đúng khi các thuộc tính trong quá trình sản xuất không thể dễ
dàng quan sát thấy hoặc thử nghiệm và những ảnh hưởng sức khỏe của sản phẩm rất khó
để xác định một khi nó đã được tiêu thụ.
Mặc dù "sản phẩm an toàn" chỉ chiếm một phần nhỏ trong chi phí thực phẩm ở
Argentina nhưng chúng vẫn được coi là một phân khúc thị trường có tiềm năng tăng
trưởng rất lớn. Những hạn chế chủ yếu đối với việc làm tăng nhu cầu trong nước là thiếu
thông tin có sẵn cho người tiêu dùng; giá thực phẩm hữu cơ cao hơn những thực phẩm
thông thường; và các nguồn cung cấp thất thường mới hướng tới thị trường nội địa, trong
khi đó mục tiêu chủ yếu của các sản phẩm hữu cơ là thị trường nước ngoài. Trong năm
2006, 96% tổng sản lượng sản phẩm hữu cơ của Argentina dành riêng cho các thị trường
nước ngoài. Thị trường trong nước chiếm tỉ lệ 4% còn lại.
II.
KHUNG KHÁI NIỆM
A. Sự sẵn lòng chi trả (WTP):
Những nghiên cứu khoa học gần đây phát hiện ra rằng mối quan tâm của người tiêu
dùng về an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm đang tăng lên, đưa ra các thông tin
mới về mối quan hệ giữa chế độ ăn và sức khỏe, công nghệ thực phẩm mới lạ và truyền
thông đại chúng (novel food technology and mass communications). Tuy nhiên, có nhiều
biến khoa học-kinh tế (scientific and economic variables) liên quan đến an toàn thực
phẩm và chất lượng thực phẩm rất khó để đo lường. Một phương pháp được sử dụng để
xác định lợi ích của một cải tiến trong an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm là ước
lượng mức sẵn lòng trả của người tiêu dùng (WTP) cho thực phẩm giảm rủi ro (riskreduced food).
Khái niệm về mức sẵn lòng chi trả có thể được định nghĩa là số tiền đại diện bởi sự
khác biệt giữa thặng dư của người tiêu dùng trước và sau khi thêm hoặc cải tiến một
thuộc tính của một thực phẩm nhất định. Một số nỗ lực trước đây nhằm phát triển mô
hình WTP về sự thay đổi của các thuộc tính được cũng tìm thấy trong một số bài báo.
Những mô hình này đều dựa trên Lý thuyết Lancaster Demand, theo đó, người tiêu dùng
được đưa ra giả thuyết để nhận được hữu dụng không trực tiếp từ hàng hóa mà từ một
nhóm các đặc tính hoặc thuộc tính của hàng hóa đó mà họ đang sở hữu.
B. Yếu tố quyết định WTP cho thực phẩm hữu cơ :
Hầu hết các nghiên cứu gần đây được tiến hành tại các thị trường phát triển nông
nghiệp hữu cơ đã cố gắng thiết lập mối liên hệ giữa WTP của các sản phẩm và lối sống
của người tiêu dùng. Phân khúc người tiêu dùng dựa trên những biến đã đưa ra mô tả sơ
lược về những người tiêu dùng hữu cơ tiềm năng. Mặc dù rõ ràng là có sự mơ hồ trong
các mô tả sơ lược về nhân khẩu học xã hội, người tiêu dùng cũng cho thấy thái độ hướng
tới một cuộc sống cân bằng, ăn thức ăn lành mạnh, và giảm tác động của nông nghiệp
đến môi trường.
Kết quả các thực nghiệm được thực hiện ở những nước có mức độ tiêu thụ thực phẩm
hữu cơ cao cho thấy lý do chủ yếu tại sao các sản phẩm này được mua là vì chăm sóc sức
khỏe, vì bị bệnh hoặc phòng bệnh. Bên cạnh đó, do hàm lượng dư lượng thuốc trừ sâu
thấp nên các sản phẩm này có thể được coi là có lợi, chủ yếu cho sản xuất. Ở các sản
phẩm thịt, ví dụ như thịt gà, các rủi ro về nhận thức liên quan đến việc sử dụng hormone
trong quá trình sản xuất rất đáng chú ý khi tiến hành nghiên cứu người tiêu dùng tại
Brazil và Argentina.
Các mối quan hệ giữa mức thu nhập và WTP cung cấp bằng chứng thực nghiệm gây
tranh cãi. Trong việc cung cấp thực phẩm khi mức thu nhập cao hơn thì sự tin tưởng cao
hơn. Một vài nghiên cứu đã tìm thấy mối liên hệ trực tiếp giữa thu nhập và WTP cho
giảm nguy cơ xuất phát từ việc tiêu thụ thực phẩm lành mạnh, an toàn hơn hoặc chứng
nhận về chất lượng.
Với trình độ học vấn được xem như là một nhà dự báo kinh tế-xã hội, Misra và đồng
sự đã thu được một mối tương quan nghịch giữa giáo dục và sự tiêu thụ các sản phẩm
hữu cơ tươi sống. Govindasamy và Italia cũng đã đi đến một mối quan hệ nghịch đảo
giữa WTP và giáo dục. Họ kết luận, một mặt, mức độ giáo dục càng thấp, nhận thức rủi
ro càng cao ; và mặt khác, mức độ giáo dục càng cao, càng tin tưởng vào các tiêu chuẩn
sản xuất.
Nhiều nghiên cứu đã tập trung vào các khó khăn cản trở việc mở rộng nhu cầu thực
phẩm hữu cơ. Giá và các sản phẩm cao cấp thiếu hụt trong các siêu thị cần được đề cập
tại địa điểm đầu tiên, cùng với mức độ hài lòng liên quan đến sản phẩm thông thường, và
mức độ thông tin về chất lượng thực phẩm mà người tiêu dùng có thể tiếp cận.
III.
MỤC TIÊU
Mục đích của bài viết này là để tính toán sự sẵn long chi trả của người tiêu dùng cho
các sản phẩm thực phẩm hữu cơ khác nhau có sẵn trên thị trường trong nước Argentina.
Các giả thuyết được phân tích sau đây:
Nhận thức rủi ro về sức khỏe liên quan đến hormone, thuốc trừ sâu và chất bảo quản
chấp nhận trong một số sản phẩm thực phẩm ảnh hưởng đáng kể đến sự sẵn long chi trả
của người tiêu dùng cho các chất hữu cơ.
Hiệu quả của các chương trình điều chỉnh về sự sẵn long chi trả cho các sản phẩm hữu
cơ chưa qua chế biến là thấp hơn so với các sản phẩm hữu cơ đã chế biến.
IV.
SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
A. Số liệu
Bộ dữ liệu trong nghiên cứu được lấy từ một cuộc khảo sát về tiêu thụ thực phẩm
được thực hiện ở Buenos… và tháng tư năm 2005 bằng cách sử dụng một dạng câu hỏi
bán cấu trúc (A semi-structured questionnaire is a mix of unstructured and structured
questionnaires).
Một mẫu thuận tiện (convenience sample) với xác suất được lựa chọn không biết
trước, mẫu được lựa chọn một cách khó khăn để phát hiện ra nhóm mục tiêu, nói cách
khác là lựa chọn những cá nhân thường mua sắm thực phẩm hữu cơ. Những phỏng vấn
viên được huấn luyện đã hoàn thành 301 cuộc khảo sát đối với các đáp viên ở một số
chuỗi siêu thị lớn nhất như Coto, Disco, Jumbo, Norte, Wall Mart và ở một cửa hàng
chuyên về sản phẩm hữu cơ (La Esquina de las Flores).
Mẫu dựa trên tuổi và giới tính của người dân địa phương căn cứ theo tài liệu Thống
kê dân số ở Argentina (National Population Census in Argentina), cho những đáp viên ở
tuổi 18 hoặc lớn hơn với mức độ kinh tế-xã hội ở mức trung bình cao (được mô tả bởi tổ
chức Marketing Argentine (AAM), ). Bảng 1 cung cấp đại diện
của mẫu về mặt cơ cấu dân số của thành phố Buenos phân theo giới tính và độ tuổi:
Câu hỏi bán cấu trúc bao gồm cả các câu hỏi đóng và mở được thể hiện qua 3 phần.
Phần thứ nhất, các câu hỏi đề cập đến mức tiêu thụ thực phẩm hữu cơ, tự nhiên và
thực phẩm tươi, số lần mua và lý do chọn mua các loại sản phẩm đó.
Phần thứ hai được thiết kế để thu thập ý kiến của người tiêu dùng liên quan đến nhiều
vấn đề về mối liên hệ giữa chế độ ăn và sức khỏe. Các câu hỏi về thói quen ăn uống, lý
do đằng sau việc chăm sóc các bữa ăn, mối đe dọa bắt nguồn từ hormone, thuốc trừ sâu,
cách chuẩn bị (preservers) ở từng loại sản phẩm được chọn; nhân tố lòng tin như thương
hiệu, nhãn thực phẩm, nguồn gốc sản; sự tự tin của các cửa hàng nơi các đáp viên đưa sản
phẩm ra thị trường, tìm kiếm thông tin, quảng cáo và chiêu thị thực phẩm, ý kiến của đáp
viên về việc kiểm định thực phẩm (food control and regulatory bodies functioning???),
lợi ích đạt được từ hệ thống các quy định cá nhận hoặc cộng đồng; và niềm tin của cá
nhân về sự khác nhau giữa thực phẩm hữu cơ và thực phẩm thông thường.
Thống kê mô tả dựa theo đặc điểm kinh tế xã hội cho thấy có 68% đáp viên là nữ đạt
như kỳ vọng vì hoạt động mua sắm thực phẩm được thực hiện chủ yếu là nữ.
Phần cuối của bảng câu hỏi thu thập thông tin về kinh tế xã hội bao gồm mức thu
nhập. Theo đó, các đáp viên đã chỉ ra rằng khoảng thu nhập hàng tháng của gia đình đã
giảm.
Lựa chọn các thực phẩm mà cửa hàng sẵn có là một yếu tố quan trọng để lựa chọn 5
sản phẩm: sữa thường, rau sống, bột nguyên cám, thịt gà tươi và thảo mộc có mùi, từ đó
áp dụng nhiều phương pháp để tính mức sẵn lòng trả của người tiêu dùng. Bảng 2 thể
hiện miêu tả, khối lượng tịnh và bao bì của các thực phẩm được chọn. Phí của sản phẩm
hữu cơ được thể hiện qua tỉ lệ vì vậy giá của các sản phẩm hữu cơ cao hơn giá của các
sản phẩm tương tự. Những mức phí đó được tính bằng giá hiện tại của sản phẩm hữu cơ
và thông thường ở các cửa hàng được khảo sát.
Trong mẫu, độ tuổi trung bình là 44, và xác suất cao nhất nằm trong khoảng từ 35-49
(chiếm 26% trên tổng mẫu) và trên 60 (25% trên tổng mẫu).
34% đáp viên trả lời rằng họ thường xuyên tiêu thụ thực phẩm hữu cơ. Những khách
hàng đó được gọi là “người tiêu dùng hữu cơ”. Còn lại 66% những người nói rằng họ
không bao giờ tiêu thụ sản phẩm hữu cơ, họ được gọi là “người tiêu dùng phi hữu cơ”
38% trên tổng mẫu nói rằng thu nhập hộ gia đình hàng tháng là 500 đô la hoặc ít hơn,
trong khi đó 62% còn lại báo rằng trên 500 đô la. Mặc dù 67% người tiêu dùng hữu cơ
kiếm trên 500 đô la, khi phân phối dựa trên mức thu nhập hộ gia đình người tiêu dùng phi
hữu cơ và người tiêu dùng hữu cơ gần như bằng nhau. Về trình độ học vấn, 20% đáp viên
chưa hoàn thành trung học phổ thông và hơn một nữa đã học những bậc cao hơn mặc dù
họ vẫn chưa tốt nghiệp. 29% có trong tay bằng tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học. Tỉ lệ
cao nhất của những đáp viến có bằng đại học hoặc sau đại học cũng bao gồm nhóm người
tiêu dùng hữu cơ (36%).
B. Phương pháp
Trong số các lựa chọn thay thế phương pháp luận khác nhau để đánh giá người tiêu
dùng WTP, các đánh giá ngẫu nhiên (CV) tiếp cận đã được lựa chọn. Mặc dù CV được
sử dụng chủ yếu cho việc đánh giá tiền tệ của các sở thích người tiêu dùng đối với hàng
hóa phi thị trường, nó cũng được áp dụng cho thị trường hữu cơ ở Argentina cũng như nó
vẫn còn là một phân khúc nhỏ có quy mô, và các sản phẩm hữu cơ thường không có sẵn
trong tất cả các cửa hàng bán lẻ.
CV có xu hướng để xác định số lượng người tiêu dùng định giá hàng hóa được gán
cho các sản phẩm bằng cách đối mặt với một tình huống giả định mua, trong đó họ phải
trả lời bao nhiêu tiền họ sẽ sẵn lòng trả cho một sản phẩm nhất định, hoặc nếu họ sẽ sẵn
lòng chi trả giá cao nhất.
Trong cuộc khảo sát CV, một trong những phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất để
tìm ra thông tin về WTP của người trả lời được gọi là định dạng lựa chọn nhị phân. Các
định dạng lựa chọn nhị phân ràng buộc đơn, được lựa chọn ở đây, đòi hỏi yêu cầu người
trả lời liệu họ sẽ sẵn lòng trả giá cao cho mỗi sản phẩm hữu cơ được chọn hay không. Nó
có thể được giả định rằng câu trả lời của người trả lời có có điều kiện bởi các giá hữu cơ
và thường họ thấy khi lựa chọn các chất hữu cơ thay vì các sản phẩm thông thường.
Để có được các thông số ước tính cho mỗi sản phẩm được lựa chọn, mô hình lý thuyết
phải được ước tính bằng cách sử dụng một Binomial Multiple Logistic Regression đưa ra
như sau:
WTPij = α +β1Pjk +β2Yi +β3πi +F(Zi) [1]
Chú Thích:
WTPij: Nếu trả lời có sẵn lòng chi trả giá cao cho các sản phẩm thực phẩm j được chọn
hay không; j = 1 Regular Milk; j = 2 Leafy Vegetables; j = 3 Whole Wheat Flour ; j = 4
Fresh Chicken; j = 5 Aromatic Herbs;
Pj: Phí bảo hiểm giá hữu cơ tích dành cho bất kỳ các j lựa chọn sản phẩm tại các cửa
hàng k lấy mẫu; k = 1 Coto; k = 2 Disco; k = 3 Jumbo; k = 4 Norte; k = 5 Wal Mart; k =
6 La Esquina de las Flores;
Yi: Mức thu nhập hộ gia đình của người trả lời;
Πi: Rủi ro và chất lượng các thuộc tính nhận thức của người trả lời bị độc lập;
Zi: người trả lời các đặc điểm kinh tế xã hội.
Phương trình [1] được ước tính bằng khả năng tối đa. Các thông số ước tính dành cho
mỗi phương trình sản phẩm được lựa chọn đã thu được bằng cách sử dụng các gói thống
kê Khoa học Xã Hội (SPSS version 11, 2001).
Bảng 3 dưới đây liệt kê các biến giải thích được lựa chọn cuối cùng trong các mô hình
Logit theo ý nghĩa thống kê.
Bảng 3: Mô tả các biến mô hình
WTP
CONSUMP
HORMONE
PESTICIDEV
PESTICIDEF
RISKSCON
AVAILABLE
REGULATION
LABELS
Biến phụ thuộc
Nếu người trả lời sẵn lòng chi trả giá cao dành
cho các sản phẩm hữu cơ
Các biến giải giải thích phân loại
Nếu sinh vật thường được tiêu thụ ở các hộ gia
đình
Nếu người trả lời nhận ra những rủi ro cao của
hormone trong nội dung thịt gà tươi thông
thường
Nếu người trả lời nhận ra những rủi ro cao của
thuốc trừ sâu trong nội dung các loại rau lá
thông thường
Nếu người trả lời nhận ra những rủi ro cao của
thuốc trừ sâu trong nội dung toàn bộ lúa mì
bột mì thông thường
Nếu người trả lời cho rằng không có rủi ro
đáng kể khi tiêu thụ thực phẩm thông thường
Nếu người trả lời sẽ sẵn lòng để mua các chất
hữu cơ nếu chúng mới có trên thị trường
Nếu người trả lời cho rằng có nên tồn tại một
hệ thống quy chuẩn chất lượng thực phẩm
Nếu người trả lời được sử dụng để đọc nhãn
Phân loại
1 = Yes,
Otherwise
Phân loại
1 = Yes,
Otherwise
1 = Yes,
Otherwise
0
=
0
=
0
=
1 = Yes,
Otherwise
0
=
1 = Yes,
Otherwise
0
=
1 = Yes,
Otherwise
1 = Yes,
Otherwise
1 = Yes,
Otherwise
1 = Yes,
0
=
0
=
0
=
0
=
thực phẩm khi mua
Otherwise
DIFORCON
Nếu người trả lời cho rằng không có sự khác 1 = Yes, 0 =
biệt giữa các sản phẩm thực phẩm hữu cơ và Otherwise
thông thường
Các biến giải thích định lượng
RMPP
Hữu cơ thông thường có giá cao hơn giá sữa thông thường
LVPP
Hữu cơ giá cao hơn giá các loại rau lá thông thường
WWFPP
Toàn bộ hữu cơ có tính phí giá bột mì trên giá bột mì thông thường
FCPP
Hữu cơ tươi giá cao hơn giá thịt gà tươi thông thường
AHPP
Hữu cơ thơm thảo mộc có tính phí giá so với giá rau thơm thông
thường
Sau khi ước lượng các mô hình Logit và để tính WTP người tiêu dùng trung bình cho mỗi
sản phẩm được lựa chọn, các thông số ước tính đã được bao gồm trong biểu thức [2]. Nó
bằng với WTP trung bình, được tính như vùng dưới hàm logit ước tính của [1] cắt ngắn
các chi phí giá hữu cơ tối đa, mà đã được tính toán theo giá thu thập được trong các cửa
hàng lấy mẫu:
j = H + [2]
Chú Thích:
j: Các WTP hữu cơ trung bình tính cho các sản phẩm j
β1: Tính toán hệ số cho biến giá cao
H: Giá cao hữu cơ tối đa (Pj) dành cho các sản phẩm j chọn
-d: = α + β2 Yi + β3 πi + F (Zi), according to [1];
J: Sản phẩm được chọn.
V.
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
A. Ước lượng Mô hình Logit nhị thức
Bảng 4 dưới đây sẽ cho thấy các kết quả từ các ước lượng mô hình Logit. Tất cả các
mô phỏng đều được thiết lập cho mức thu nhập cao hơn (hơn 500 đô la) ngoại trừ sữa
thường vì các biến giải thích đều có ý nghĩa thống kê đối với mức thu nhập thấp (500 đô
la hoặc ít hơn). Do đó, mô hình 1.a được ước tính cho mức thu nhập cao hơn (nhiều hơn
500 đô la) và mô hình 1.b cho mức thu nhập thấp (500 đô la hoặc ít hơn).
Sự sẵn lòng chi trả (WTP) cho sữa hữu cơ phần lớn được giải thích bởi sự khan hiếm
của sản phẩm này trong thị trường (AVAILABLE) cho cả mức thu nhập. Bên cạnh đó, hệ
thống quy định chất lượng thực phẩm (REGULATION) được xếp hạng là yếu tố thứ hai
giải thích ý nghĩa. Mức tiêu thụ các chất hữu cơ cũng giải thích WTP cho sữa hữu cơ
thông thường (CONSUMP)
Mặt khác, các biến PRESERV không có ý nghĩa thống kê (có ý nghĩa ở mức 10%)
cho các mô hình. Điều này được giải thích bằng sự tin tưởng ở mức độ cao của người tiêu
dùng Argentina có trong các sản phẩm sữa cả sữa hữu cơ và sữa thông thường. 65% số
người được hỏi (n1a = 146) trả lời có liên quan rất lớn đến thương hiệu mà họ đã mua, vì
đó một yếu tố đáng tin tưởng khi nói đến quyết định mua sắm.
Trong số những người trả lời có thu nhập hàng tháng là trên 500 đô la , WTP cho rau
sống (leafy vegetatbles) được giải thích chủ yếu bởi sự thiếu hụt sản phẩm này trên thị
trường (AVAILABLE), bởi vì đáp viên sẽ mua các loại rau sống hữu cơ nếu chúng có
sẵn. Những kết quả này đồng ý với những kết quả trong những nghiên cứu trước đây.
Hơn nữa sự tiêu thụ thực phẩm hữu cơ (CONSUMP) cũng góp phần để người tiêu dùng
sẵn lòng có được loại rau hữu cơ.
Thật vậy, những người tiêu dùng lựa chọn các loại rau tùy vào sự khác biệt về đóng
gói, sắp xếp trong container, kích thước, và nguồn gốc đều có mức thu nhập tương đối
cao. Một tỷ lệ cao số người được hỏi (78% của n 2 = 143) trong phân tích này, người có
trình độ học vấn cao đề cập rằng biết được nguồn gốc cung cấp rau làm họ chắc chắn hơn
khi quyết định mua sắm.
Nhận thức rủi ro sức khỏe liên quan đến thuốc trừ sâu trong các giống thông thường
của các sản phẩm này làm biến PESTICIDEV trở nên đáng kể. Thực nghiệm cho thấy kết
quả này phù hợp với kết quả của Weaver và các đồng nghiệp và Baker.
WTP cho Bột nguyên cám (Whole Wheat Flour) được giải thích chủ yếu bằng cách
đọc nhãn thông thường khi thực hiện quyết định mua sắm (LABELS). Bên cạnh đó, 78%
số người được hỏi (n3 = 139) thường xuyên tìm kiếm thông tin về chất lượng thực phẩm,
và tin rằng cần phải có một hệ thống quy chuẩn chất lượng thực phẩm (REGULATION).
Sự khan hiếm của sản phẩm này trên thị trường cũng đáng chú ý (AVAILABLE). Những
kết quả này phù hợp với tài liệu của Michelson, Richman và Pearson. Người tiêu dùng
cảm nhận Bột nguyên cám là một sản phẩm tự nhiên và lành mạnh. Đáp viên khẳng định
rằng biết được nguồn gốc sản phẩm và cửa hàng nơi nó được mua lại tạo thành yếu tố
niềm tin cho quyết định mua sắm của họ.
WTP được giải thích thêm bởi nhận thức về những rủi ro sức khỏe cao liên quan đến
thuốc trừ sâu trong sản phẩm thông thường (PESTICIDEF). Ngoài ra, 68% số người
được hỏi tin rằng càng quy trình chế biến càng nhiều, sự nghi ngờ chất lượng càng cao.
Sự sẵn lòng trả phí bảo hiểm với mức thu nhập cao chủ yếu cho thịt gà tươi là bởi vì họ
tin rằng cần phải có một hệ thống quy chuẩn chất lượng thực phẩm đã có kết luận Farina
& de Almeida [15].
Mặt khác, sự thiếu hụt sản phẩm trên thị trường cùng với các nhãn hiệu của người tiêu
dùng là một vai trò quan trọng khi đưa ra quyết định mua sắm trong WTP. Cuối cùng,
tiêu thụ một số sản phẩm cũng như nhận thức về nguy cơ sức khỏe cao liên quan đến kích
thích tố có trong các giống thông thường cũng góp phần đến một mức độ thấp hơn để
hiểu biết WTP. Theo nghĩa này, 60% số người được hỏi (n4 = 143) duy trì để biết nguồn
gốc của sản phẩm tạo thành một yếu tố đáng tin cậy khi nói đến sự lựa chọn mua sắm.
WTP cho thảo mộc hữu cơ được giải thích chủ yếu bởi nhãn hiệu thông thường khi thực
hiện quyết định mua sắm cũng như bởi các biến hồi quy.
Nó cũng là giá trị nhận thức của sự thiếu hụt sản phẩm trên thị trường .Điều này được
giải thích bởi thực tế là hầu hết sản xuất các loại thảo mộc hữu cơ đều được xuất khẩu,
trong khi giá xuất khẩu đang có lợi nhuận nhiều hơn. Kiến thức và sự nhận dạngcác thực
phẩm hữu cơ cũng có liên quan để giải thích WTP, vì nó được minh chứng trong biến
CONSUMP, RISKSCON vàDIFORCON. Trong ý nghĩa này,, 68% số người được hỏi (n5
= 138) duy trì nguồn gốc của sản phẩm tạo thành một sự tự tin khi nói đến yếu tố để lựa
chọn mua sắm.
Cuối cùng, cần phải nhấn mạnh rằng hơn 60% người trả lời có trong cả mô hình 4 (gà
tươi) và Mô hình 5 (thảo mộc thơm) tin rằng chế biến các sản phẩm càng nhiều thì sự mất
lòng tin về chất lượng càng cao .Đây cũng được đề cập khi giải thích các biến giải thích
cho tổng số Bột hữu cơ.
Sau khi chạy mô hình, cả hai bị đơn của trình độ học vấn và thu nhập hàng tháng gia đình
không có ý nghĩa thống kê như là các biến giải thích. Vì thế, họ đã bỏ qua khi ước lượng
các mô hình.
Hiệu suất các mô hình 'đã được thử nghiệm với Chi bình phương Thống kê của Pearson,
mà chỉ ra rằng tất cả các mô hình phù hợp đầy đủ. Các hình thức thay thế của R 2 cho nhị
thức Logit. Các mô hình được Cox & Snell của R2 và R2 của Nagelkerke. Các giá trị cao
nhất của sự thay thế R2 được mang lại trong mô hình 1.b cho Sữa (0,325 và 0,454 tương
ứng) [33] và [34].
Quyền lợi dự đoán tổng thể là trên 73% cho tất cả các mô hình. Liệt kê sự phù hợp, trong
đó ước tính các dự đoán và kết quả xác suất của sự phù hợp, mang lại giá trị trên 0.50 cho
tất cả các mô hình ước tính, chỉ ra rằng những dự đoán là tốt hơn so với phỏng đoán ngẫu
nhiên [35].
B. Tính WTP
Bằng cách áp dụng các biểu hiện [2] đã mô tả trong Phần 4.2, Bảng 5 dưới đây trình bày
trung bình cho mỗi lựa chọn sản phẩm của WTP, tức là, người được hỏi thêm phí bảo
hiểm sẵn lòng trả cho mỗi sản phẩm hữu cơ so với giá của các sản phẩm thông thường.
Những giá trị này được thể hiện trong % / kg hoặc % / l. Như đã đề cập trong phần 5.1,
tất cả các mô phỏng là làm cho mức thu nhập cao hơn (hơn U $ S 500) trừ sữa được ước
tính cho cả mức thu nhập.
Bảng này cũng bao gồm các trung bình phí thêm tính cho các sản phẩm hữu cơ tại các
cửa hàng xem xét trong khảo sát. Cuối cùng, sự khác biệt giữa người trả lời ' tính WTP
[A] và phí bảo hiểm hiệu quả [B] là trình bày.
Trong khi được hỏi mức thu nhập cao hơn (mô hình 1.a) là sẵn lòng trả nhiều tiền hơn
12,2% cho sữa hữu cơ hơn sữa thông thường, người trả lời mức thu nhập thấp (mô hình
1.b) sẽ chỉ phải trả hơn 11,6% cho các hữu cơ đa dạng. Tuy nhiên, sẽ không có sự khác
biệt đáng chú ý giữa cả hai giá trị WTP, mà là dưới sữa hữu cơ cao cấp sẽ có giá thực tế
(1,64% trong Mô hình 1.and 2,24% trong Mô hình 1.b).
Bảng 5.Ước lượng mô hình WTP
Mô hình
Trung bình WTP
(% / kg) [A]
Trung bình Giá
cao cấp
(% / kg) (2) [B]
13.8(3)
% Chênh lệch
[A] - [B]
1a.Sữa thông thường
12.2 (3)
-1.64
(1)
(3)
1b.Sữa thông thường
11.6
-2.24
2.Rau lá
87
84.5
2.46
3.Bột mì
7.5
5.9
1.59
4.Gà tươi
20
24.6
-4.61
5.Các loại thảo mộc
110
298.3
-188.33
thơm
Ghi chú: (1) Dự toán cho mức thu nhập thấp; (2) Tính theo tỷ lệ phần trăm theo đó giá
của
sản phẩm hữu cơ cao hơn mức giá của một sản phẩm thông thường tương tự. Phí bảo
hiểm có nguồn gốc từ bộ sưu tập giá thực hiện trong các cửa hàng, nơi các cuộc khảo sát
diễn ra; (3) Bày tỏ trong% / lt.
Tỷ giá hối đoái: 1 U $ S = 3 Argentina peso ($)
Nguồn: Tính toán của tác giả. Khảo sát tiêu thụ, Buenos Aires Thành phố / 200.
Theo Mô hình 2 kết quả, người trả lời sẵn lòng trả cho loại rau lá hữu cơ nhiều hơn 87%
so với các loại rau lá thông thường. Giá trị này cao hơn 2,46% hơn phí bảo hiểm tích giá
hữu cơ của các cửa hàng bán lẻ.
WTP cho bột nguyên cám là cao hơn 7,5% nếu so với giá phải trả cho bột nguyên cám
thông thường.Đây là WTP hơi cao hơn bột nguyên cám cao cấp nhiều như giá thực tế
1,59%.
Các kết quả thu được từ mô hình 4 cho thấy WTP cho gà tươi hữu cơ là cao hơn 20% nếu
so với giá phải trả cho gà tươi thông thường. Giá trị WTP này là giá gà tươi hữu cơ cao
cấp thực sự nhiều như 4,61%.
Cuối cùng, WTP cho thảo mộc hữu cơ là 110% cao hơn nếu so với giá phải trả thông
thường. Các loại thảo mộc thơm; WTP này là thảo mộc hữu cơ thơm cao cấp có giá nhiều
như 188%.
Tóm lại, điều đáng nói là yếu tố then chốt trợ giúp để giải thích WTP hữu cơ cho các sản
phẩm được chọn là tiêu thụ các sản phẩm hữu cơ, rủi ro sức khỏe nhận thức nội dung liên
quan đến hormone và thuốc trừ sâu, sự điều chỉnh mối quan tâm, nhận thức về xuất hiện
hữu cơ có sẵn trên thị trường trong nước, nhãn hiệu và phí bảo hiểm hiệu quả tính trên
giá thông thường. Tuy nhiên, tầm quan trọng tương đối của các yếu tố này là khác nhau
khi WTP được giải thích cho từng trường hợp.
Nhận thức rủi ro sức khỏe góp phần giải thích WTP cho lá rau, Tổng Bột mì, gà tươi và
thảo mộc thơm, nhưng không có liên quan đến giải thích WTP cho sữa thông thường. Do
đó, giả thuyết # 1 – nhận thức rủi ro sức khỏe liên quan đến hormone, thuốc trừ sâu và
bảo tồn nội dung trong một số sản phẩm ảnh hưởng đáng kể của người tiêu dùng sẵn
lòng trả đã bị từ chối chỉ cho ta ước lượng sữa thông thường.
Theo kết quả của các mô hình ước tính, hiệu lực của chương trình quyết định ý nghĩa
thống kê
Cho cả hai sản phẩm chưa qua chế biến (như gà tươi) và sản phẩm chế biến (như thảo
dược, sữa thông thường và Bột mì); nhưng không có ý nghĩa cho lá rau. Vì vậy, giả
thuyết # 2 -Các ảnh hưởng của chương trình quyết định cho sự sẵn lòng trả cho các sản
phẩm hữu cơ chưa qua chế biến là thấp hơn so với sản phẩm hữu cơ chế biến - cũng đã bị
từ chối. Điều này có thể được giải thích bởi thực tế là mức độ sản phẩm chế biến có thể
không đủ điều kiện để quyết định hiệu quả trên các chương trình WTP của người tiêu
dùng.
74% số người được hỏi khẳng định rằng các cơ quan quản lý không hiệu quả, và 70%
thích một hệ thống quy chuẩn thực phẩm công cộng hơn tư nhân.
Giá phí bảo hiểm đóng một phần quan trọng trong phương pháp áp dụng khi tính WTP.
Nếu giá thị trường hữu cơ đã giảm nhẹ, sự khác biệt giữa WTP và giá phí bảo hiểm thực
tế cũng sẽ được giảm. Do đó, người tiêu dùng sẽ phải truy cập nhiều vào sữa hữu cơ
thông thường và gà tươi hữu cơ. Mặt khác, giá phí bảo hiểm thực tế các loại thảo mộc
hữu cơ không chỉ hạn chế tiêu thụ tại thị trường trong nước, mà là cực kỳ ảnh hưởng bởi
thu nhập cao thu được khi xuất khẩu.
Mặc dù WTP cho rau lá hữu cơ là một phần phí bảo hiểm giá thị trường thực tế, vấn đề là
thiếu nguồn cung cấp thường xuyên của các rau quả tại thị trường trong nước. Ngoài ra
WTP hữu cơ cho tổng số bột mì là hầu như không cao hơn mức hữu cơ có phí bảo hiểm
trên thị trường.
VI.
NHẬN XÉT CHUNG
Kết quả ước tính WTP thu được đối với các sản phẩm được chọn chỉ ra rằng các sản
phẩm hữu cơ tích cực có giá trị trong Argentina, kể từ khi người tiêu dùng sẵn sàng trả
phí bảo hiểm mức giá để có được những sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Kết quả như
vậy chắc chắn có điều kiện bởi phí bảo mức giá hiệu quả tính tại thị trường trong nước,
trong đó, lần lượt, được quy định bởi tỷ lệ của giá xuất khẩu, như các thị trường nước
ngoài là điểm đến chính của sản xuất các sản phẩm hữu cơ ở Argentina.
Điều này cũng đáng nói đến là các giá trị WTP cho mỗi sản phẩm hữu cơ được chọn
sẽ được giải thích bởi việc tiêu thụ các sản phẩm hữu cơ, rủi ro sức khỏe được lý giải liên
quan đến hormone và hàm lượng thuốc bảo vệ thực vật, mối lo ngại các quy định, nhận
thức của các chất hữu cơ có sẵn bất thường trong thị trường nội địa, và các nhãn hiệu từ
ngữ. Tuy nhiên, tầm quan trọng tương đối của các yếu tố này là khác nhau khi WTP được
giải thích cho mỗi sản phẩm.
Nghiên cứu này kiểm chứng rằng những người tiêu dùng có thu nhập trên U$S 500
đang lo lắng về chất lượng sản phẩm cũng như về nguy cơ sức khỏe liên hệ với thuốc bảo
vệ thực vật dư thừa liều lượng và sản phẩm hormone qua xử lý. Mức giá phí bảo hiểm
hiệu quả cao là điều kiện cho việc mua những sản phẩm lành mạnh được nhận thức, ngay
cả khi được hỏi bày tỏ mong muốn của họ để đạt được chúng. Những người tiêu dùng
biết cái gì là viết tắt của chất hữu cơ, họ cảm nhận được sản phẩm khan hiếm và sự sẵn
có bất thường trên thị trường, và họ sẽ sẵn sàng để gia tăng tiêu thụ các sản phẩm rẻ hơn.
Mức giá phí bảo hiểm trên thị trường phụ thuộc trên các loại sản phẩm nhưng, liên quan
đến các sản phẩm phân tích, dao động trong khoảng từ 6% đến 298%.
Hiệu quả của các chương trình quy định về WTP của người tiêu dùng có thể dường
như không có điều kiện bởi các mức độ chế biến sản phẩm. Mặt khác, người tiêu dùng
quan tâm các bày tỏ liên quan đến quy định hiện hành và cơ quan kiểm soát là đáng chú ý
cũng như sở thích của họ đối với một hệ thống công cộng.
Để kết luận, sự khan hiếm của các sản phẩm hữu cơ tại thị trường trong nước cũng
như mức giá phí bảo hiểm cao được xác định là những trở ngại khó vượt qua nhất khi nói
đến việc mở rộng tiêu thụ hữu cơ trong nước ở Argentina. Kể từ sự mất giá của đồng
peso Argentina vào năm 2002, giá của cả các sản phẩm thực phẩm thông thường và hữu
cơ đã tăng lên. Điều này đã dẫn đến những thay đổi trong các mối quan hệ hưu cơ so với
mức giá thông thường.
Nếu tính rằng sản xuất hữu cơ ở Argentina có thị trường nước ngoài như là điểm đến
chính của nó, giá cả hàng hoá trong nước có thể giao dịch lên cao trong nước như giá
xuất khẩu. Trong trường hợp này, trường hợp hữu cơ các loại thảo mộc thơm và tổng số
quy ước bột mì là những ví dụ minh họa tốt.
Sự gia tăng mức sản xuất là phải cùng với cắt giảm trong sản xuất, chế biến và / hoặc
chi phí kinh doanh, trong đó, lần lượt, chuyển thành giảm mức giá bán, và trong sự gia
tăng của các sản phẩm hữu cơ tiêu thụ. Chi phí phân phối thấp hơn tạo thành một yếu tố
góp phần làm giảm mức giá phí bảo hiểm sự tham gia của các nhà bán lẻ thực phẩm nói
chung.
Hầu hết các nước với mức giá phí bảo hiểm tiêu dùng thấp hơn có một nhãn hiệu
quốc gia phổ biến, và ghi nhận nhãn hiệu như vậy thường là cao. Rõ ràng công nhận là
một điều kiện tiên quyết của các sản phẩm hữu cơ là để thoát khỏi tình trạng sản phẩm
thích hợp. Đây là một vấn đề quan trọng Argentina vẫn phải giải quyết nếu muốn mở
rộng thị trường hữu cơ trong nước.
Với kịch bản đó, mục tiêu của chính phủ cần hỗ trợ thị trường đã hoạt động, đảm bảo
sự phát triển bình đẳng của cả cung và cầu. Khi người tiêu dùng yêu cầu bồi thường,
chương trình giáo dục và tư vấn thực phẩm tiêu dùng cần được hỗ trợ thêm. Tại
Argentina, hành động của chính phủ hiệu quả cần được hướng tới một hệ thống kiểm soát
chặt chẽ; sự phối hợp tốt hơn giữa các tổ chức công cộng và tư nhân; và lập kế hoạch dài
hạn cho ngành hữu cơ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Henson, S. (1996). Consumer willingness to pay for reductions in the risk of food
poisoning in the UK. Journal of Agricultural Economics, 47(3): 403-420.
Antle, J. (1999). Benefits and costs of food safety regulation. Food Policy 24
(1999): 605-623.
SENASA (2007). Situación de la producción orgánica en Argentina durante el año
2006, available at />Kinsey, J. (1993). GATT and the Economics of food safety. Food Policy, (April):
163-176.
Goldberg, I. & Roosen, J. (2005). Measuring consumer willingness to pay for a
health risk reduction of salmonellosis and campylobacterosis. Paper prepared for
presentation at the 11th Congress of the European Association of Agricultural
Economist, Copenhagen, Denmark, August 24-27, 2005.
van Ravenswaay, E. & Wohl, J. (1995). Using contingent valuation methods to
value the health risks from pesticide residues when risks are ambiguous. In: J.
Caswell (Ed.) Valuing food safety and nutrition. Chap.14, pp. 287-317.
Halbrendt, C.; Sterling, L.; Snider, S. & Santoro, G. (1995). Contingent valuation
of consumers’willingness to purchase pork with lower saturated fat. In: J. Caswell
(Ed.) Valuing food safety and nutrition. Chap.15, pp. 319-339.
Lancaster, K. (1966). A new approach to consumer theory. Journal of Political
Economy, LXXIV(2): 132-157.
Hartman & New Hope. (1997). The evolving organic marketplace. Hartman and
New Hope Industry Series Report. Washington D.C
Gracia, A.; Gil, J.M.; Sánchez, M. (1998). Potencial del mercado de los productos
ecológicos en Aragón. Gobierno De Aragón.
Thompson, G. (1998). Consumer demand for organic produce: What we know and
what we need to know. American Journal of Agricultural Economics, 80(5): 113118.
Kuchler, F.; Ralston, K. & Tomerlin, J. (2000). Do health benefits explain the
price premiums for organic foods?. American Journal of Alternative Agriculture,
15(1): 9-18.
13 Weaver, R.; Evans, D. & Luloff, A. (1992). Pesticide use in tomato production:
Consumer concerns and willingness-to-pay. Agribusiness, 8(2): 131-142.
14 Baker, G. (1999). Consumer preferences for food safety attributes in fresh apples:
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
Market segments, consumer characteristics, and marketing opportunities. Journal
of Agricultural and Resource Economics, 24 (1): 80-97.
Farina, T. & de Almeida, S. (2003) Consumer Perception on Alternative Poultry.
International Food and Agribusiness Management Review, 2(5).
Rodríguez, E.; Lupín, B. & Lacaze, V. (2006). Consumers’ perceptions about food
quality attributes and their incidence in Argentinean organic choices.
International Association of Agricultural 12th Congress of the European
Association of Agricultural Economists – EAAE 2008 Economists Conference,
Gold
Coast,
Australia,
August
12-18,
2006,
available
at
/>Buzby, J.; Ready, R. & Skees, J. (1995). Contingent valuation in food policy
analysis: A case study of pesticide-residue risk reduction. Journal of Agricultural
and Applied Economics, 27(2): 613-625.
Jordan, J. & Elnagheeb, A. (1991). Public perception of food safety. Journal of
Food Distribution Research, 22(3): 13-22.
Blend, J. & van Ravenswaay, E. (1998). Consumer demand for ecolabelled
apples: Survey Methods and descriptive results. Staff Paper 98-20. Dept. of
Agricultural Economics, Michigan St. University.
Misra, S.; Huang, L. & Ott, S. (1991). Consumer Willingness to pay for Pesticide
Free Fresh produce. West Journal of Agricultural Economics, 16 (1991): 218-227
Underhill, S. & Figueroa, E. (1996). Consumer Preferences for
NonConventionally Grown Produce. Journal of Food Distribution Research, 27:
56-66.
Govindasamy, R. & Italia, J. (1999). Predicting willingness-to-pay a premium for
organically grown fresh produce. Journal of Food Distribution Research, 30: 4453.
Michelsen, J.; Hamm, U.; Wynen, E. & Roth, E. (1999). The European market for
organic products: Growth and development. Organic farming in Europe:
Economics and Policy. Vol.7.
Richman, N. & Dimitri, C. (2000). Organic Foods: Niche market venture into
mainstream. Agricultural Outlook, June-July, 11-14.
Brewer, K. (1999). Design-based or prediction-based inference? Stratified
random vs. stratified balanced sampling. International Statistical Review, 67: 3547.
Chow, S. (2002). Issues in statistical inference. History and Philosophy of
Psychology Bulletin, 14(1): 30-41.
Schonlau, M.; Fricker, R. & Elliot, M. (2002). Conducting research surveys via email and the web, available at />
28 Instituto Nacional de Estadísticas y Censos (INDEC). Censo Nacional de
29
30
31
32
33
34
35
Población y Vivienda 2001. Resultados definitivos por Provincias, para la ciudad
de
Buenos
Aires,
available
at
/>Lohr, L. (2001). Factors affecting international demand and trade in organic food
products. Economic Research Service/USDA/WRS-01-1
Hanemann, W. (1984). Welfare evaluations in contingent valuation experiments
with discrete responses. American Journal of Agricultural Economics, 66(3): 332341.
Carmona-Torres, M. & Calatrava-Requena, J. (2006). Bid design and its
influence on the stated willingness to pay in a contingent valuation study.
Contributed paper prepared for presentation at the International Association of
Agricultural Economists Conference, Gold Coast, Australia, August 12-18, 2006,
available
at
/>paperid=22558&ftype=.pdf
Pearson, D. (2001). How to increase organic food sales: Results from research
based on market segmentation and product attributes. Australasian Agribusiness
Review, 9, paper 8.
Ryan, T. (1997). Modern regression methods. John Willey & Sons INC, Canada.
Menard, S. (2000). Coefficients of determination for multiple logistic regression
analysis. American Statistical Association, 54(1): 17-24.
Agresti, A. (2002). An introduction to categorical data analysis. John Wiley &
Sons INC, Canada.