Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Giáo dục sức khỏe sinh sản VTN cho học sinh lớp 9 huyện giao thủy NĐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.65 KB, 124 trang )

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu

2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

5. Giả thuyết khoa học

3

6. Các phương pháp nghiên cứu

3



7. Phạm vi và giới hạn của đề tài

3

Chương 1

4

CƠ SỞ LÝ LUẬN GIÁO DỤC SỨC KHOẺ SINH SẢN VỊ THÀNH
NIÊN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

4

1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề GDSKSS VTN cho học sinh lớp 9

10

1.2.1. Một số khái niện cơ bản

10

1.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh

16

1.2.3. Xu hướng GDSKSS VTN của một số nước trên thế giới và


19

chiến lược quốc gia về GDSKSS VTN ở Việt Nam.
1.2.4 GDSKSS VTN cho học sinh lớp 9

22

Chương 2

38

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC SỨC KHOẺ SINH SẢN VỊ THÀNH NIÊN
CHO HỌC SINH HUYỆN GIAO THỦY - TỈNH NAM ĐỊNH

2.1. Vài nét khái quát về đối tượng khảo sát

38

2.2. Thực trạng nhận thức của học sinh lớp 9 huyện Giao Thủy

40

về một số nội dung cơ bản của SKSS
2.3. Thực trạng về nhận thức của cán bộ, giáo viên
Thủy về GDSKSS VTN

Vietluanvanonline.com

Page 1


huyện Giao

79


2.4 Thực trạng GDSKSS VTN ở trường THCS của huyện Giao

81

Thủy
Chương 3

88

CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC SỨC KHOẺ SINH SẢN CHO HỌC
SINH LỚP 9 HUYỆN GIAO THỦY - NAM ĐỊNH

3.1 Các nguyên tắc xây dựng biện pháp

88

3.2. Một số biện pháp đề xuất

92

3.3. Khảo nghiệm về sự cần thiết và tính khả thi của các biện

98

pháp đề xuất

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

100

1. KẾT LUẬN CHUNG

100

2. KIẾN NGHỊ

102

TÀI LIỆU THAM KHẢO

105

PHỤ LỤC

107

Vietluanvanonline.com

Page 2


Lời cảm ơn
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới thầy giáo
- TS. Nông Khánh Bằng đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ em trong
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa sau đại học, các thầy

cô giáo khoa Tâm lý – Giáo dục, trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên, gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi, động viên, khích lệ
tôi trong thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu, thầy cô giáo và các em học
sinh trường THCS Thị Trấn Ngô Đồng và trường THCS xã Giao Hà đã
nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình điều tra thực
trạng, thu thập thông tin, số liệu phục vụ luận văn.
Dù đã có nhiều cố gắng, song do điều kiện và thời gian hạn chế nên
trong luận văn của em chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo để
luận văn của em được hoàn chỉnh hơn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009
Tác giả

Nguyễn Thị Phương Nhung


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt

Quan hệ tình dục

QHTD

Sức khỏe sinh sản

SKSS


Giáo dục sức khỏe sinh sản

GDSKSS

Vị thành niên

VTN

Trung học cơ sở

THCS

Bệnh lây truyền qua đường tình dục

BLTQĐTD

Sức khỏe sinh sản vị thành niên

SKSSVTN

Học sinh

HS

Kế hoạch hóa gia đình

KHHGĐ

Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp


HĐGDNGLL

Thứ bậc

TB

Giáo dục giới tính

GDGT

Dân số

DS


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, V.I. Lênin: “Cùng với việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hôn nhân gia
đình cũng đƣợc coi là cấp bách”.
Trong chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do chủ tịch hội đồng bộ
trƣởng Phạm Văn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên
quan xây dựng chƣơng trình chính khóa và ngoại khóa nhằm bồi dƣỡng
cho học sinh những kiến thức về khoa học giới tính, về hôn nhân gia đình
và nuôi dạy con cái”.
Trong xu thế đổi mới con ngƣời Việt Nam vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Vấn đề con ngƣời
là một trong những vấn đề luôn đƣợc xã hội coi trọng và quan tâm ở mọi
thời đại. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay của đất nƣớc ta, việc coi trọng

chất lƣợng cuộc sống của con ngƣời Việt Nam đã và đang trở thành mục
tiêu, động lực của chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội.
Xã hội phát triển kéo theo các mặt khác của xã hội cúng phát triển,
đặc biệt là nền văn hóa, nhất là đang trong quá trình hội nhập. Nền văn
hóa tác động nhiều mặt tới sự phát triển của con ngƣời nói chung và học
sinh nói riêng. Bên cạnh những mặt tích cực cũng có những ảnh hƣởng
tiêu cực, vấn đề đang đƣợc xã hội quan tâm đó là sự du nhập của văn hóa
phƣơng Tây đã có ảnh hƣởng tới học sinh THCS - Lứa tuổi đang có sự
thay đổi mạnh mẽ về thể chất cũng nhƣ giới tính. Vì vậy vấn đề giáo dục
sức khỏe sinh sản vị thành niên (GDSKSS VTN) cho học sinh đang đƣợc
nghành giáo dục quan tâm.
Ở nƣớc ta trẻ VTN (dƣới 18 tuổi) chiếm khoảng 23,8% triệu ngƣời,
tức là khoảng 31% dân số. Tuy nhiên thanh thiếu niên Việt Nam đang phải


đối mặt với nhiều thách thức: mang thai ngoài ý muốn, các bệnh lây lan
qua đƣờng tình dục, nhiễm HIV, ma túy, cờ bạc, rƣợu chè… Theo thống kê
của hội Kế hoạch hóa gia đình thì Việt Nam là một trong 3 nƣớc có tỷ lệ
nạo phá thai cao nhất thế giới, trong đó 20% thuộc lứa tuổi VTN. Chính vì
vậy, các em cần đƣợc quan tâm và giáo dục SKSS ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trƣờng để tạo nền tảng vững chắc về mọi mặt để các em có dủ
hành trang bƣớc vào cuộc sống tƣơng lai.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp
giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh lớp 9 huyện Giao
Thủy - Tỉnh Nam Định”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp GDSKSS cho học sinh lớp 9 huyện Giao Thủy
- Nam Định nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của công tác này.
3. Khách thể, đối tƣợng nghiên cứu
3.1.


Khách thể nghiên cứu

Quá trình giáo dục giới tính cho học sinh lớp 9 huyện Giao Thủy Nam Định.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Biện pháp GDSKSS cho học sinh lớp 9 huyện Giao Thủy- Nam Định
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.

Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề GDSKSS cho học sinh lớp 9.

4.2.

Khảo sát, đánh giá thực trạng GDSKSS cho học sinh lớp 9 huyện Giao
Thủy- Nam Định.

4.3.

Đề xuất một số biện pháp có tính khả thi góp phần nâng cao chất lƣợng
GDSKSS cho học sinh lớp 9 huyện Giao Thủy - Nam Định.
5. Giả thuyết khoa học
Công tác GDSKSS cho học sinh lớp 9 đã đƣợc quan tâm nhƣng chƣa
có hệ thống, chƣa đƣợc tổ chức thực hiện một cách thƣờng xuyên. Nếu đề


xuất đƣợc một số biện pháp mang tính khoa học và thích hợp sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả công tác GDSKSS cho học sinh lớp 9 huyện Giao Thủy
- Nam Định.
6. Các phƣơng pháp nghiên cứu
6.1.


Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận

- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa các
tài liệu lý luận về vấn đề nghiên cứu.
- Phƣơng pháp lịch sử.
6.2. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phƣơng pháp quan sát sƣ phạm
- Phƣơng pháp điều tra (phiếu anket, trò chuyện…)
- Phƣơng pháp khảo nghiệm (lấy ý kiến chuyên gia)
6.3. Nhóm phƣơng pháp xử lý số liệu và phân tích sƣ phạm
7. Phạm vi và giới hạn của đề tài
- Đề tài nghiên cứu các biện pháp GDSKSS cho học sinh lớp 9 huyện
Giao Thủy- Nam Định.
- Khảo sát cán bộ, giáo viên và học sinh lớp 9 trƣờng THCS Thị Trấn
Ngô Đồng, trƣờng THCS Giao Hà.


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN GIÁO DỤC SỨC KHOẺ SINH SẢN
VỊ THÀNH NIÊN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Vấn đề GD SKSS VTN trên thế giới
Vấn đề GDGT nói chung đƣợc nhiều nƣớc ở Châu Âu quan tâm từ
rất sớm. Có thể nói rằng Thụy Điển là quốc gia đầu tiên, cái nôi nảy sinh
nghiên cứu vấn đề này. Năm 1921 đã coi tình dục là quyền tự do của con
ngƣời, là quyền bình đẳng nam nữ, là trách nhiệm đạo đức của công dân
đối với xã hội. Họ đã thành lập “Hiệp hội quốc gia tình dục” ( 1933) với
mục tiêu là:
- Thông tin phổ biến kiến thức về giới tính, tình dục.

- Sản xuất và buôn bán thuốc tránh thai, dụng cụ tránh thai.
Bộ Giáo dục Thụy Điển đã quyết định đƣa thí điểm GDGT vào nhà
trƣờng (1942) và đến năm 1956 thì chính thức dạy phổ cập trong tất cả các
loại trƣờng từ tiểu học đến trung học.
Hầu hết các nƣớc Đông Âu (Đức, Tiệp, Ba Lan…), Tây Âu, Bắc Âu
cũng có những quan điểm xem xét vấn đề GDGT là vấn đề lành mạnh, họ
đã tuyên truyền rộng khắp cho mọi ngƣời hiểu rõ những quy luật hoạt động
của tình QHTDục và vấn đề này cũng đƣợc đƣa vào QHTDạy ở các
trƣờng học theo những vấn đề tự chọn.
Ở Châu Á, GDGT bị xem là lĩnh vực cấm kị, do ảnh hƣởng của
những quan niệm phong kiến và tôn giáo. Dân số gia tăng quá nhanh, chất
lƣợng cuộc sống không đƣợc đảm bảo đã khiến các nƣớc ở Châu Á đã
thức tỉnh và nhìn nhận vấn đề một cách thích đáng. Họ đã thống nhất ý kiến
về tầm quan trọng và sự cần thiết phải GDGT cho thế hệ trẻ, giúp họ làm
chủ quá trình sinh sản của mình một cách khoa học, phù hợp với tiến bộ xã
hội.


GDDS đã đƣợc thực hiện ở một số nƣớc trên thế giới, đặc biệt ở các
nƣớc đang phát triển. Tuy nhiên, trƣớc năm 1994 chính sách dân số và nội
dung GDDS của các nƣớc đều tập trung vào các vấn đề dân số phát triển
(quy mô dân số, di cƣ, chuyên cƣ, KHHGĐ…).
Năm 1994, Hội nghị ICPD (Intenation Conference on Population
Development) ở Cairo đã đánh dấu một mốc quan trọng trong sự thay đổi
chính sách dân số ở các quốc gia. Tuyên ngôn của ICPD đã kêu gọi các
nƣớc đặt vai trò chất lƣợng dân số là ƣu tiên hang đầu, trong đó các vấn đề
SKSS , đặc biệt là vấn đề SKSS VTN. Từ đây mục tiêu GDDS của các
nƣớc đã thay đổi.
Nếu trƣớc năm1994, GDDS nhấn mạnh đến các nội dung dân số phát
triển thì từ sau năm 1994, GDDS nhấn mạnh tới các nôi dung SKSSVTN

nhƣ là một ƣu tiên.
GDSKSS và SKSSVTN là những vấn đền mới chính thức đƣợc thừa
nhận tại hội nghị quốc tế về “Dân số và phát triển” ở Cairo - Ai Cập
(1994). SKSS đƣợc coi là định hƣớng chỉ đạo của hầu hết các chƣơng
trình dân số thế giới. Hội nghị này đã thống nhất một chƣơng trình hành
động về dân số và phát triển trong 20 năm tới, nó đã đƣa ra một khái niệm
chiến lƣợc mới về SKSS, đề ra 15 nguyên tắc khẳng định con ngƣời mới là
trung tâm đối với sự phát triển bền vững. Cũng chính tại hội nghị này, một
khái niệm mới về SKSS bao GDSKS gồm tất cả các nội dung liên quan tới
tình trạng sức khỏe, quá trình sinh sản và chất lƣợng cuộc sống đã đƣợc
trình bày cặn kẽ trong chƣơng trình hành động của ICPD. Sau hội nghị này,
hàng loạt các quốc gia trên thế giới cũng lần lƣợt tổ chức nhiều hội nghị
bàn về vấn đề SKSSVTN nhƣ:
- Hội nghị quốc tế tại Bắc Kinh ( 1995)
- Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển tại The Hague Hà Lan
(1999)


- Hội nghị dân số cấp cao của ủy ban kinh tế và xã hội Châu Á – Thái
Bình Dƣơng ( ESCAP) và quỹ dân số liên hợp quốc (UNFPA) tại Băng
Cốc. Đặc biệt thông điệp của Tiến sĩ Nafit Sadik – Giám đốc điều hành
Quỹ dân số Liên Hợp quốc đã nêu “Giới trẻ ngày nay có ý thức về SKSS
hơn và họ biết SKSS rất quan trọng. Họ đều muốn xử sự một cách có trách
nhiệm, muốn bảo vệ sức khỏe của chính mình và của cả ngƣời mình yêu vì
họ biết rằng đây là việc nên làm. Phần lớn trong số họ khát khao tìm hiểu,
họ muốn có thông tin về tình dục và sức khỏe tình dục. Họ muốn biết làm
thế nào để bản thân họ và ngƣời yêu họ không có thai ngoài ý muốn, tránh
đƣợc các bệnh lây truyền qua đƣờng tình dục bao gồm cả HIV/AIDS”.
Nhân dịp ngày dân số thế giới( 11/7/1998) UNFPA đã gửi thông điệp
tới các nƣớc trên thế giới: “Những quan tâm hàng đầu hiện nay đƣợc tập

trung vào các vấn đề về SKSSVTN”.
Nhƣ vậy, ở hầu hết các nƣớc trên thế giới đều đã hết sức quan tâm tới
vấn đề SKSS, coi đó là một vấn đề có tính chiến lƣợc quốc gia.
1.1.2. Vấn đề SKSSVTN ở Việt Nam
Do ảnh hƣởng nặng nề của tƣ tƣởng phong kiến phƣơng Đông trƣớc
đây, SKSS ở Việt Nam chỉ đƣợc quan tâm ở khía cạnh đạo đức theo kiểu
“GDGT trong thời đại nàng Kiều”, vấn đề thực sự bức xúc, ảnh hƣởng
không dám trực tiếp nghiêm cứu, hầu nhƣ mọi ngƣời đều né tránh, dẫn tới
nhiều hậu quả đáng tiếc xảy ra trong đời sống nhân dân Việt Nam. Nhận
thức đƣợc tầm quan trọng của việc thực hiện KHHGĐ, GDDS cuối thể kỉ
XIX đầu thế kỉ XX Đảng và nhà nƣớc ta đã coi GDDS là công tác thuộc
chiến lƣợc con ngƣời, đặc biệt chú trọng tới việc bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe bà mẹ trẻ em, phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Ngày 18/12/1961 trong quyết định 217/TTg của Chính phủ về việc
hƣớng dẫn sinh đẻ có kế họach, văn bản đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam
về DS - KHHGĐ đã ghi rõ: “Vì sức khỏe của ngƣời mẹ, vì hạnh phúc và
sự


hài hòa của gia đình để cho việc giáo dục và chăm sóc sức khỏe con cái
đƣợc tốt hơn, việc sinh đẻ của nhân dân cần đƣợc hƣớng dẫn một cách
thích hợp”.
Nghị định đầu tiên 216/CP của Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề SKSS
do thủ tƣớng Phạm Văn Đồng ký ngày 26/12/1961 (đƣợc lấy làm ngày
Dân số Việt Nam) có nội dung “Vì sức khỏe ngƣời mẹ, vì hạnh phúc và sự
hòa thuận của gia đình để cho việc nuôi dạy con cái đƣợc tốt. Việc sinh đẻ
của nhân dân đƣợc quan tâm, hƣớng dẫn một cách thích hợp”.
Thủ tƣớng chính phủ ban hành chỉ thị 99/TTG phát động cuộc vận
động sinh đẻ có kế hoạch, thành lập ủy ban Bảo vệ bà mẹ trẻ em từ trung
ƣơng đến địa phƣơng.

Ngày 24/12/1968 chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng đã có chỉ thị 176A với
nội dung chỉ đạo: “Bộ giáo dục, Bộ đại học và trung học chuyên nghiệp,
tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức liên quan xây dựng chƣơng
trình chính khóa nhằm bồi dƣỡng cho học sinh những kiến thức khoa học
về giới tính, về hôn nhân gia đình, về nuôi dạy con cái”.
Sau khi nhà nƣớc thống nhất, năm 1976 ngay trong nghị quyết Đaị
hội toàn quốc lần thứ IVcủa Đảng đã ghi rõ: “Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận
động sinh đẻ có kế hoạch, ra sức phòng và chữa bệnh phụ khoa và các bệnh
nghề nghiệp của phụ nữ”. Sau khi có nghị quyết Trung ƣơng IV về chính
sách DS - KHHGĐ và chiến lƣợc DS - KHHGĐ đến năm 2000, do đó có
sự cộng hƣởng của nhiều yếu tố lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cƣờng kinh phí và
đổi mới cơ chế quản lý, củng cố hệ thống tổ chức, đẩy mạnh cung cấp dịch
vụ truyền thông và KHHGĐ, sự tham gia của các nghành, đoàn thể vì công
tác DS - KHHGĐ, sự tham gia của các nghành, các đoàn thể vì công tác DS
- KHHGĐ đã có chuyển biến rõ rệt, đạt đƣợc những kết quả rất đáng kích
lệ. Kết quả đó góp phần đáng kể vào việc nâng cao điều kiện sức khỏe
trong đó có SKSS cho các cặp vợ chồng và tuổi vị thành niên.


Năm 1985, Trung ƣơng hội liên hiệp phụ nữ đã triển khai phong trào
giáo dục “Ba triệu bà mẹ nuôi con khỏe, dạy con ngoan” trong đó có nội
dung GDSKSS ở tuổi dạy thì. Hình thức chủ yếu đƣợc sử dụng là nói
chuyện, diễn giảng. Hiệu quả mới chỉ dừng lại ở tính chất phong trào chứ
chƣa thể có chất lƣợng sâu sắc đƣợc.
Phải chờ tới năm 1998, đƣợc sự tài trợ của quỹ dân số liên hiệp quốc
(NFPA), cùng với sự giúp đỡ của kĩ thuật của UNESCO khu vực, do Bộ
giáo dục và đào tạo đã giao cho Viện khoa học giáo dục Việt Nam thực hiện
đề án VIE/98/P09 với sự tham gia của nhiều giáo sƣ, tiến sĩ, nhà khoa học
có trình độ chuyên môn cao, chƣơng trình thử nghiệm tập trung chủ yếu
vào hai chủ điểm về tâm lí giáo dục và sinh học. Lần đầu tiên trong nhà

trƣờng phổ thông ở nƣớc ta học sinh đƣợc học một cách có hệ thống về
“những điều bí ẩn” của chính mình và mối quan hệ với ngƣời khác giới.
Ở nƣớc ta trong giai đoạn từ 1989 đến 1992 các dự án GDDS đã bắt
đầu đƣợc thử nghiệm. Giai đoạn từ 1994 đến 1998 bƣớc đầu đã thể chế
hóa GDDS trong nhà trƣờng. Lần đầu tiên GDDS đƣợc đƣa vào chƣơng
trình tích hợp GDDS với 5 chủ đề cơ bản: Nhân khẩu học, môi trƣờng, gia
đình, giới, dinh dƣỡng. Các nội dung SKSS đã đƣợc chính thức lồng ghép
vào nội dung một số môn học từ bậc tiểu học đến trung học và khẳng định
rằng trong giai đoạn này trọng tâm của công tác GDDS phải là GDSKSS
cho VTN. Tháng 10 năm 1996 hội thảo vì SKSSVTN đã nhấn mạnh đầu tƣ
giải quyết vấn đề SKSSVTN là một yêu cầu quan trọng trong vấn đề phát
triển đất nƣớc. Tuy nhiên, trong giai đoạn này nội dung GDDS quá thiên về
dân số phát triển, chƣa chú trọng tới SKSS nhƣ một mục tiêu ƣu tiên quốc
gia. Với sự ra đời của chƣơng trình mới về giáo dục phổ thông cho giai
đoạn sau 2000, các dự án GDDS giai đoạn mới đƣợc xây dựng. Mục tiêu
GDDS trong giai đoạn này ở các trƣờng phổ thông gồm: Xây dựng
chƣơng trình tích hợp GDDS mới phù hợp với trƣơng trình giao dục phổ
thông sau năm


2000 trên tinh thần nhấn mạnh tới SKSSVTN; xây dựng các tài liệu hƣớng
dẫn giảng dạy, tài liệu tham khảo và các tài liệu trực quan; tập huấn giáo
viên… song chúng ta vẫn chƣa xây dựng đƣợc chƣơng trình GDDS và
SKSS cho THCS mặc dù các mục tiêu cho cấp học này đã đƣợc xác định.
Ủy ban phòng chống AIDS đã tổ chức nhiều hoạt động truyền thông,
hoạt động can thiệp tại cộng đồng, tổ chức nghiên cứu, khảo sát thức trạng
tình hình… nhằm bảo vệ VTN, nâng cao hiểu biết và kỹ năng dự phòng của
VTN trƣớc sự tấn công của đại dịch HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội. Thông
qua các hoạt động đó cũng góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDSKSS
cho VTN.

Ủy ban Dân số gia đình và Trẻ em cũng rất quan tâm đến việc
GDSKSS cho VTN, trong chiến lƣợc dân số Việt Nam giai đoạn 20012010 nêu rõ: “Tạo sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân số, SKSS,
KHHGĐ trên cơ sở cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin với nội dung và
hình thức phù hợp với từng vùng, từng khu vực và từng nhóm đối tƣợng.
Chú trọng hình thức tƣ vấn, đối thoại, vận động trực tiếp các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ, nam giới, thanh niên và những ngƣời chƣa thành
niên”.
Năm 2004, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em triển khai đề án “Mô
hình cung cấp thông tin và dịch vụ SKSS/ KHHGĐ cho VTN và thanh
niên” tại 10 tỉnh thành phố. Năm 2006 mở rộng ra 28 tỉnh thành phố. Mục
tiêu chính của đề án nhằm nâng cao nhận thức về SKSS/ KHHGĐ, bao
gồm các vấn đề liên quan về giới, giới tính, tình dục an toàn, BLTQĐTD,
HIV/AIDS góp phần làm giảm các hành vi gây tác hại đến SKSSVTN.
Ngoài ra trong những năm gần đây, có thể kể đến nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề SKSS nhƣ:
- Dự án VIE/97/P13 của Bộ giáo dục - đào tạo đã sản xuất tài liệu:
Phƣơng pháp giảng dạy các chủ đề nhạy cảm về “SKSS”( 2000); và bộ tài
liệu tự học dành cho giáo viên “GDSKSSVTN”(2001).


- Nguyễn Thế Hùng (2005): “Biện pháp bồi dƣỡng năng lực
GDSKSS VTN đối với các bậc cha mẹ”
- Nguyễn Ngọc Thái (2006): “Quản lý GDSKSS cho VTN thông qua
mô hình giáo dục đồng đẳng tại tỉnh Quảng Nam”
- Nguyễn Thị Hải Lý (2008): “Ảnh hƣởng của giáo dục nhà trƣờng
tới nhận thức của học sinh THPT về SKSS”
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề GDSKSS VTN cho học sinh lớp 9
1.2.1. Một số khái niện cơ bản
1.2.1.1. Vị thành niên
Trong cuộc đời của mỗi con ngƣời (cả nam và nữ) tuổi dậy thì đƣợc

coi là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất về thể chất cũng nhƣ quá trình tích
lũy kiến thức, kinh nghiệm xã hội, định hình nhân cách, khả năng hòa nhập
cộng đồng.Giai đoạn này đƣợc thừa nhận là giai đoạn chuyển tiếp giữa trẻ
con và ngƣời lớn, giữa tuổi ấu thơ và tuổi trƣởng thành “VTN là một giai
đoạn trong quá trình phát triển của con ngƣời với đặc điểm lơn nhất là sự
tăng trƣởng nhanh chóng để đạt tới sự trƣởng thành về cơ thể, sự tích lũy
kiến thức, kinh nghiệm xã hội, định hình nhân cách để có thể nhận lãnh
trách nhiệm xã hội”.
Thuật ngữ Adolescent (VTN) đƣợc đƣa vào năm 1904 theo đề xuất
của nhà tâm lý học G.Stanlay Hal, dùng để chỉ quan niệm đồng nghĩa với
tuổi đang lớn hoặc tuổi đang trƣởng thành. Theo từ điển Tiếng Việt(NXB
KHXH – HN, 1997) thì “VTN là những ngƣời chƣa đến tuổi trƣởng thành
để chịu trách nhiệm về những hành động của mình”. Trong các văn bản
hiện hành của Nhà nƣớc ta nhƣ bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật
Lao động có dùng thuật ngữ “ngƣời chƣa thành niên” và có quy định rõ
hơn về độ tuổi và mức độ mà ngƣời chƣa thành niên phải chịu trách nhiệm
đối với từng hành động của mình. Theo tổ chức Y tế thế giới (WTO), VTN
là những ngƣời trong độ tuổi từ 10 đến 19 tuổi.


Tuổi VTN đƣợc chia thành 3 nhóm tuổi:
- VTN sớm từ 10 đến 14 tuổi
- VTN trung bình từ 15 đến 17 tuổi
- VTN muộn từ 18 đến 19 tuổi
Theo ông Phạm Song - Chủ tịch Hội KHHGĐ Việt Nam đã khẳng
định, không phải là vấn đề phân loại mà là xác định đúng đối tƣợng để tác
động thích hợp. Theo ông, quá trình dậy thì của tuổi VTN đƣợc chia làm 3
thời kỳ:
- Thời kỳ đầu từ 10 đến 13 tuổi
- Thời kỳ giữa từ 14 đến 16 tuổi

- Thời kỳ cuối từ 17 đến 21 tuổi
Ở mỗi nƣớc khác nhau căn cứ vào những điều kiện của mình mà
trong luật hôn nhân và gia đình quy định và chia tuổi VTN cũng khác nhau
ở mỗi nƣớc. Còn ở Việt Nam hiện nay, tuổi VTN theo quy định của Đoàn
thanh niên là từ 15 đến 28 tuổi. Theo Vụ bảo vệ sức khỏe bà mẹ và
KHHGĐ thuộc Bộ Y tế thì tuổi VTN đƣợc chia thành 2 nhóm tuổi nhƣ
sau:
- Nhóm 1 từ 10 – 14 tuổi
- Nhóm 2 từ 15 – 19 tuổi
Do mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài chỉ nghiên cứu trong
phạm vi là học sinh THCS (lớp 9) nên tôi nghiên cứu nhóm tuổi từ 14 – 15
tuổi, thay thế đối tƣợng nghiên cứu bằng thuật ngữ VTN.
1.2.1.2. Sức khỏe sinh sản
Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển năm 1994 tại Cairô (ICPD)
đã định nghĩa: “SKSS là trạng thái thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh
thần và xã hội của tất cả những gì liên quan tới hoạt động và chức năng của
bộ máy sinh sản, chứ không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật hoặc tàn
phế trong bộ máy đó. Điều này hàm ý, mọi ngƣời, kể cả nam và nữ đều có
quyền nhận đƣợc thông tin và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các


biện pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả, dễ dàng và thích hợp
tùy theo sự lựa chọn của họ đảm bảo cho phụ nữ trải qua thai nghén và sinh
đẻ an toàn, tạo cho các cặp vợ chồng những điều kiện tốt nhất để có những
đứa con khỏe mạnh”.
Cũng trong chƣơng trình hành động của hội nghị đã nêu rõ: “SKSS là
trạng thái sung mãn hoàn hảo về thể chất, tinh thần, xã hội và không chỉ là
không có bệnh tật hay không bị tàn phế về tất cả những gì liên quan tới hệ
thống, chức phận và quá trình sinh sản. Nhƣ thế, SKSS có nghĩa là mọi
ngƣời có thể có cuộc sống tình dục an toàn, hài lòng, họ có khả năng sinh

sản, tự do quyết định có sinh con hay không, sinh con khi nào và sinh bao
nhiêu con. Ngầm hiểu trong điều cuối là quyền của ngƣời đàn ông và đàn
bà có thông tin, có thể tiếp cận đƣợc các biện pháp KHHGĐ an toàn, có
hiệu quả, có khả năng chi trả, có thể chấp nhận đƣợc, do họ lựa chọn để
điều hóa sinh sản nếu nhƣ không trái pháp luật; quyền đƣợc tiếp cận với
những dịch vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp, giúp họ dễ dàng trải qua thai
nghén và sinh sản một cách an toàn, cung cấp cho họ những cơ may để họ
co đƣợc những đứa con khỏe mạnh. Phù hợp với định nghĩa nói trên, chăm
sóc SKSS và hạnh phúc về sinh sản, bằng cách đề phòng và giải quyết
những vấn đề về SKSS. Nó cũng bao gồm cả sức khỏe tình dục, mà mục
đích của nó là tăng cƣờng cuộc sống và mối quan hệ, tƣ vấn và những
chăm sóc liên quan đến SKSS và các BLTQĐTD”.
Nội dung SKSS:
- Làm mẹ an toàn, tức là đảm bảo sức khỏe cho bà mẹ, trẻ em trƣớc
và sau khi sinh.
- KHHGĐ nhằm đảm bảo quyền lợi của các cặp vợ chồng trong việc
lựa chọn và sử dụng biện pháp tránh thai, quyền sinh con theo ý muốn, phù
hợp với các nguyên tắc về phát triển kinh tế - xã hội.
- Giảm tỉ lệ nạo phá thai ở tất cả các lứa tuổi sinh đẻ.


- Giảm các bệnh nhiễm khuẩn đƣờng sinh sản ở phụ nữ.
- Phòng chống nguy cơ mắc các bệnh lây nhiễm qua đƣờng tình dục,
đặc biệt là HIV/AIDS.
- Giáo dục giới tính rộng rãi cho thanh thiếu niên.
- Điều trị và phòng chống các bệnh lien quan đến vô sinh.
- Điều trị và phát hiện sớm các bệnh ung thƣ vú và đƣờng sinh dục.
- Chăm sóc SKSS VTN.
- Thông tin giáo dục truyền thông về SKSS nhằm hƣớng dẫn thay đổi
nhận thức và hành vi của cộng đồng.

Theo Chiến lƣợc chăm sóc SKSS Việt Nam giai đoạn từ năm 2001
đến 2010 thì SKSS bao gồm 7 vấn đề cần đƣợc ƣu tiên đó là:
- Quyền sinh sản.
- KHHGĐ, giảm phá thai và phá thai an toàn.
- Làm mẹ an toàn và chăm sóc trẻ sơ sinh.
- BLTQĐTD, kể cả HIV/AIDS và vô sinh.
- Phòng và chữa ung thƣ đƣờng sinh sản.
- Sức khỏe sinh sản vị thành niên.
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực chăm SKSS.
Điều này chứng tỏ rằng, chúng ta không chỉ quan tâm đến KHHGĐ
mà còn phải giải quyết nhiều vấn đề hơn nhằm bảo vệ và chăm sóc SKSS
của nhân dân.
1.2.1.3. Sức khỏe sinh sản vị thành niên
Trong quan niện xƣa vấn đề SKSS ngƣời ta cho rằng chỉ liên quan
đến những ngƣời đã có gia đình, những cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ.
Nhƣng trên thực tế (đặc biệt là trong sự phát triển xã hội nhƣ hiện nay) ta
thấy rằng, thanh thiếu niên chƣa có gia đình chƣa có gia đình cũng đã có
quan hệ tình dục. Do đó, vấn đề SKSS VTN đã trở thành một vấn đề đang
đƣợc toàn xã hội quan tâm.


Hiện trạng SKSSVTN đang ở mức báo động, điều đó đƣợc thể hiện
bằng những con số sau:
- Nạn tảo hôn và kết hôn ở tuổi VTN: Theo điều tra của Tổng cục
thống kê, có 17.000 VTN tuổi từ 13 – 14; 126.000 VTN tuổi từ 15 – 17 đã
có vợ có chồng. Nguyên nhân của tình trạng trên là do cha mẹ muốn đảm
bảo các quan hệ tình dục phải trong khuôn khổ hôn nhân, do quan niệm giá
trị chính yếu của con gái là làm mẹ, làm vợ, do các em thiếu cơ hội đƣợc
học hành và tìm kiếm việc làm.
- Mang thai ngoài ý muốn, phá thai ở tuổi VTN: Theo kết quả khảo

sát của Bộ Y tế năm 2002, có 11,2% VTN có quan hệ tình dục, trong đó có
33,9% không sử dụng biện pháp tránh thai nào. Hàng năm có hơn 300.000
phụ nữ thai nghén dƣới tuổi 20%, trong đó 80% có thai mà không biết,
khoảng 30% số ca phá thai là những phụ nữ trẻ chƣa lập gia đình. Nguyên
nhân của hiện trạng trên là do thiếu hiểu biết, thiếu chỉ dẫn, thiếu các cơ sở
dịch vụ thiên thiện cho nên VTN ít có khả năng thực hiện tình dục an toàn,
ít sử dụng các biện pháp tránh thai.
- Nhiễm các bệnh lây truyền qua dƣờng tình dục và HIV/AIDS: ở
nƣớc ta tính đến cuối năm 2003 đã có76.180 ngƣời nhiẽm HIV, trong đó
VTN và thanh niên chiếm khoảng 60%. Thiếu thông tin, kiến thức, công
tác giáo dục, tƣ vấn về tình dụcan toàn con hạn chế, thiếu các dịch vụ
phòng chống HIV/AIDS là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên.
- Bị xâm hại và lạm dụng tình dục: ở nƣớc ta có khoảng 80 ngàn gái
mại dâm, trong đó 10% là VTN. Theo báo cáo của tòa án tối cao, một nửa
nạn nhân trong tổng số 1407 trƣờng hợp bị lạm dụng tình dục là VTN. Do
hoàn cảnh gia đình khó khăn, do bạn bè lôi kéo, do lối sống buông thả, do
thiếu hiểu biết kĩ năng sống là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên.


Trong cuộc sống hiện nay, VTN gặp rất nhiều khó khăn trong học tập,
trong sinh hoạt, trong quan hệ với bố mẹ, bạn bè và trong vấn đề SKSS. Có
thể thấy những khó khăn mà VTN đang phải đối mặt, đó là:
- Những lo lắng về thay đổi cơ thể và tâm lí.
- Bối rối trƣớc những cảm xúc nảy sinh từ tình bạn khác giới.
- Băn khoăn trƣớc câu hỏi: “Có phải tình yêu luôn đi đôi với tình dục
không?”.
- Nguy cơ bị xâm hại tình dục.
- Lo lắng không biết mình có bị mang thai hay không, và làm thế nào
để phòng tránh; Nguy cơ nhiễm BLTQĐTD và HIV/AIDS.
- Bị ép lấy vợ, lấy chồng sớm (tảo hôn).

- Lo lắng không biết hỏi ai, tâm sự với ai về những điều băn khoăn, lo
lắng mình đang gặp phải.
Từ những yếu tố trên mà những ngƣời lớn, những bậc cha mẹ cần
phải hiều đƣợc những khó khăn mà lứa tuổi VTN gặp phải để từ đó có sự
quan tâm kịp thời. Và bản thân VTN cũng phải nhận thấy những thay đổi
mạnh mẽ về thể chất cũng nhƣ tâm lí của bản thân để đối phó một cách
tích cực với những tác động mạnh mẽ của môi trƣờng xung quanh.
1.2.1.4. Giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên
GDSKSSVTN đƣợc coi là một nội dung quan trọng trong GDDS.
Mƣời năm trở lại đây vấn đề này mới đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình
của nhà trƣờng, dạy lồng ghép vào nội dung của một số môn học. Từ sau
Hội nghị quốc tế Cairo (1994), Bộ Giáo dục - Đào tạo đã nhất trí vấn đề
trọng tâm của công tác giáo dục phải là GDSKSS cho VTN.
“GDSKSSVTN là một quá trình cung cấp các thông tin thích hợp
bằng moi phƣơng tiện, nhằm mục đích chính là nâng cao nhận thức và sự
hiểu biết của VTN đối với một số vấn đề sức khỏe nhất định nhằm động


viên họ chấp nhận các hành vi lành mạnh để ngăn chặn những nguy cơ
nhƣ: có thai ngoài ý muốn, các BLTQĐTD ...”.
GDSKSSVTN là một trải nghiệm giáo dục nhằm phát triển khả năng
của VTN để hiểu những vấn đề về tính dục trong khuôn khổ về tâm, sinh
lý, văn hóa, xã hội và những khía cạnh sinh sản; đồng thời giúp cho VTN
nắm bắt những kỹ năng để quyết định và hành động có trách nhiệm
nhƣngc hành vi tình dục và SKSS của mình, hƣớng tới cuộc sống hạnh
phúc trong tƣơng lai.
1.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh
Tuổi VTN là một giai đoạn phát triển đặc biệt và mạnh mẽ trong đời
của mỗi con ngƣời. Đây chính là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành
ngƣời lớn và đƣợc đặc trƣng bởi sự phát triển mạnh mẽ cả về thể chất lẫn

tinh thần, tình cảm và khả năng hòa nhập cộng đồng.
1.2.2.1. Đặc điểm sinh lý
Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhƣng không đồng đều về mặt cơ
thể. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy. Trung bình một năm các em
cao lên đƣợc 5 - 6 cm. Các em nam ở độ tuổi 15 - 16 tuổi thì cao đột biến
vƣợt các em nữ. Sự phát triển của hệ xƣơng, mà chủ yếu là các xƣơng tay,
xƣơng chân rất nhanh, nhƣng xƣơng ngón tay và ngón chân lại phát triển
chậm. Vì thế, ở lứa tuổi này các em không mập, béo mà cao, gầy thiếu cân
đối, các em có vẻ long ngóng vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu
thận trọng hay làm vỡ…Sự phát triển của hệ thống tim mạch cũng không
cân đối. Thể tích của tim tăng rất nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn,
nhƣng kích thƣớc của mạch máu lại phát triển chậm. Do đó, có một số rôi
loạn tạm thời của hệ tuần hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh.
Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng),
thƣờng dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Hệ thần kinh của lứa


tuổi này còn chƣa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu
kéo dài.
Một đặc điểm nữa cần chú ý ở lứa tuổi này này, đó là thời kỳ phát
dục. Sự phát dục của các em là. Sự một hiện tƣợng bình thƣờng, diễn ra
theo quy luật sinh học và chịu ảnh hƣởng của môi trƣờng tự nhiên và xã
hội. Sự phát dục ở các em trai vào khoảng 15,16 tuổi, ở các em nữ vào
khoảng 13, 14 tuổi. Biểu hiện của thời kỳ này là các cơ quan sinh dục phát
triển và xuất hiện những dấu hiệu phụ của giới tính. Thời kỳ phát dục sớm
hay muộn phụ thuộc vào yếu tố dân tộc và yếu tố khí hậu. Đến 15, 16 tuổi
giai đoạn phát dục đã kết thúc, vì thế các em đã có khả năng sinh đẻ.
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng VTN có khả năng sinh sản đƣợc nếu có
sinh hoạt tình dục. Và vấn đề SKSS không chỉ liên quan đến những ai đã
lập gia đình, VTN lúc này đang đứng trƣớc nhiều mối đe dọa, nếu nhƣ

không có sự hƣớng dẫn, chăm sóc thì nguy cơ lớn nhất đối với SKSS của
VTN là có thai sớm nếu có QHTD và nhiễm BLTQĐTD.
1.2.2.2. Đặc điểm tâm lý
Không chỉ có những biến đổi về mặt sinh lý mà VTN cũng có những
biến đổi sâu sắc về mặt tâm lý. Do sự phát triển không cân đối của hệ
xƣơng đã gây cho các em một biểu hiện tâm lý khó chịu. Các em ý thức
đƣợc sự lóng ngóng, vụng về của mình, mà cố che dấu bằng những điệu bộ
không tự nhiên, cầu kì, tỏ ra mạnh bạo, can đảm để ngƣời khác không chú
ý đến vẻ bề ngoài của mình. Chỉ một sự mỉa mai chế giễu nhẹ nhàng về
hình thể, tƣ thế, tƣ thế đi đứng của các em đều gây cho các em những phản
ứng mạnh mẽ.
Tuyến nội tiết hoạt động mạnh, điều đó đã làm cho các em dễ xúc
động, dễ bực tức, nổi khùng. Vì thế, ta thấy ở các em thƣờng có những
phản ứng gay gắt, mạnh mẽ và có những xúc động mạnh. Hệ thần kinh của
VTN còn chƣa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu,


kéo dài. Do tác động của những kích thích nhƣ thế, thƣờng gây cho các em
tình trạng bị hạn chế hay ngƣợc lại xảy ra tình trạng bị kích động mạnh. Vì
vậy, sự phong phú của các ấn tƣợng, những chấn động thần kinh mạnh,
hoặc sự chờ đợi lâu dài về những biến cố gây xúc động…đều tác động
mạnh mẽ đến VTN, có thể làm một số em bị ức chế, uể oải, thờ ơ, lơ đễnh,
tản mạn, số khác làm những hành vi xấu, không đúng bản chất.
Cùng với những biến đổi về thể chất, đời sống tinh thần và tình cảm
của tuổi VTN cũng trải qua những biến đổi sâu sắc. Các em có khả năng
tự ý thức và tự đánh giá cao. Cho nên, các em tự nhận đƣợc rằng mình đã
lớn, vì vậy các em thấy rằng kiểu quan hệ với ngƣời lớn ở thời thơ ấu
không còn phù hợp với về mức độ trƣởng thành của bản thân nữa. Đó là
kiểu quan hệ giữa ngƣời lớn và trẻ con. Do vậy, các em mong muốn “cải
tổ” kiểu quan hệ này theo hƣớng giảm quyền hạn của ngƣời lớn và tăng

quyền hạn của chính mình, các em muốn độc lập trong suy nghĩ và hành
động để thử sức mình nhằm đạt tới cái mình muốn để chứng tỏ mình đã
trƣởng thành. Ở giai đoạn này thƣờng xảy ra xung đột giữa VTN với cha
mẹ vì họ cho rằng các em vẫn còn trẻ con. Điều đó đã tạo ra một khoảng
cách giữa cha mẹ và con cái. Để làm mất khoảng cách này, các bậc cha
mẹ phải thƣờng xuyên quan tâm đến những suy nghĩ của các em, những
biến đổi tâm lý đang diễn ra để có thể hiểu đƣợc con mình và trở thành
những “ngƣời bạn” đáng tin cậy của các em.
Về mặt giao tiếp, nhu cầu giao tiếp với bạn phát triển rất mạnh, các
mối quan hệ đƣợc mở rộng, nhu cầu về tình bạn tâm tình cá nhân đƣợc
tăng lên roc rệt. Bạn bè trở thành một phần rất quan trọng trong cuộc sống
của VTN. Với các em, tình bạn trơe nên sâu sắc hơn, rất bền vững có thể
kéo dài đến suốt cuộc đời và có ảnh hƣởng qua lại rất lớn, ảnh hƣởng đó
có thể là tích cực nhƣng cũng có khi là tiêu cực. Do vậy, mà việc lựa chọn
bạn ở lứa tuổi này đóng một vai trò vô cùng quan trọng.


Một điều đặc biệt dễ nhận thấy ở giai đoạn này đó là bắt đầu xuất hiện
những cảm giác mới lạ, có sự nhạy cảm về giới và cảm xúc giới tính. Các
em thƣờng quan tâm đến các bạn khác giới và cũng mong bạn khác giới để
ý đến mình. Điều này khiến các em quan tâm đến vóc dáng của mình, hay
đứng trƣớc gƣơng để gắm vuốt. Các em bắt đầu thích đọc truyện tình cảm,
những tác phẩm viết về những mối tình say mê, quan tâm đến các nhân vật
trong truyện, trong phim làm quen nhau nhƣ thế nào, thích nhau ra sao và
tại sao lại hành động nhƣ vậy… và vô tình các em tự tạo nên những rung
cảm yêu đƣơng trong tƣởng tƣởng trong suy tƣ. Có em trở nên sao nhãng
việc học tập.
1.2.3. Xu hƣớng GDSKSS VTN của một số nƣớc trên thế giới và chiến lƣợc
quốc gia về GDSKSS VTN ở Việt Nam.
1.2.3.1. Xu hƣớng GDSKSS VTN của một số nƣớc trên thế giới.

Vấn đề GDSKSS VTN đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới quan tâm, nó
đƣợc thể hiện rõ ở những vấn đề cơ bản sau:
Thứ 1: Giáo dục tình dục cho học sinh trong và ngoài nhà trƣờng.
Thứ 2: Cung cấp dịch vụ KHHGĐ theo nhu cầu sử dụng.
Cụ thể:
Bồ Đào Nha: Cho phép thành lập các trung tâm tƣ vấn dành cho tuổi
VTN ở các trung tâm tƣ vấn và bệnh viện nhằm:
- Cung cấp thông tin chung về họat động tình dục.
- Chuẩn bị cho VTN có hành vi đúng trong cuộc sống tình dục.
- Cung cấp thông tin về giải phẫu sinh lý và sinh lý học sinh sản.
- Cung cấp các phƣơng tiện tránh thai.
- Tất cả thanh niên đều đƣợc tƣ vấn và hƣớng dẫn KHHGĐ tại các
trung tâm miễn phí.
Sau hội nghị Quốc tế về Dân số và phát triển ở Cairo (1994) ở nhiều
quốc gia đã có nhiều chuyển biến tích cực về định hƣớng trong chƣơng


trình GDSKSS VTN trong trƣờng học và cộng đồng. Sự thay đổi này tập
trung vào vấn đề giáo dục dân số, giới và giới tính, SKSSVTN… Tuy
nhiên, trên thực tế chƣơng trình này còn nhiều bất cập, không phù hợp với
kinh nghiệm sống của VTN, còn né tránh khi đề cập đến các vấn đề nhạy
cảm nhƣ biện pháp tránh thai, các BLTQĐTD, bạo lực và lạm dụng tình
dục… mà chủ yếu dạy về tri thức, ít chú ý đến việc xây dựng kỹ năng sống
cho VTN.
Các chƣơng trình GDSKSS tuy chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu và chƣa
tƣơng xứng với vị thế của nó trong sự phát triển chung của xã hội nhƣng
nó cũng đã có đƣợc một số ƣu thế ban đầu nhƣ:
GDSKSS đã thực sự trở thành bộ phận không thể tách rời của chính
sách, kế hoạch phát triển của các Quốc gia.
- Các chƣơng trình này đƣợc tiến hành theo phƣơng pháp linh hoạt,

theo từng Quốc gia và từng nền văn hóa cụ thể. Tuy vậy, các mục tiêu đề ra
đều hƣớng vào việc làm cho cộng đồng, chủ yếu là tuổi VTN chấp nhận
quy mô gia đình nhỏ, có ý thức trách nhiệm cao về các hành vi sinh sản của
mình.
- Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của giáo dục trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, nhiều quốc gia đã đƣa nội dung giáo
dục SKSS vào giảng dạy chính thức trong các nhà trƣờng đặc biệt là cho
đối tƣợng VTN.
- GDSKSS còn đƣợc kết hợp với các nội dung giáo dục khác nhƣ
giáo dục môi trƣờng, giáo dục môi trƣờng, giáo dục suy dinh dƣỡng,
phòng chống HIV/AIDS.
- Hệ thống các phƣơng pháp giảng dạy các chủ đề nhạy cảm này cũng
đã đƣợc xây dựng và trực tiếp góp phần vào việc chuyển tải những thông
tin, thông điệp về SKSS nhằm nâng cao nhận thức về vấn đề này cho lứa
tuổi VTN.


Libêria: “Đạo luật thông qua chính sách về dân số của quốc gia nhằm
phát triển kinh tế - xã hội”(1998) đã khẳng định:
- GDDS đƣợc đƣa vào giảng dạy chính thức trong và ngoài trƣờng
học.
- Giáo dục KHHGĐ cho tất cả thanh niên nông thôn năm 1995 và
khắp cả nƣớc vào năm 2000.
- Đƣa ra các biện pháp làm giảm tỷ lệ có thai sớm ở VTN nhƣ cập
nhật thông tin,GTGT cho VTN, cung cấp dịch vụ KHHGĐ cho tất cả
những ngƣời có nhu cầu. Những hình thức này thực sự đem lại hiệu quả vì
dễ chấp nhận, dễ thực hiện và tiếp cận.
Hoa Kỳ: “Đạo luật về đời sống gia đình của thanh, thiếu niên” (1998)
cho phép Liên bang chuyển tiền cho các tổ chức quần chúng hay tƣ nhân
để làm dịch vụ hay nghiên cứu về mối quan hệ giữa tình dục của thanh niên

trƣợc hôn nhân và mang thai, sinh con ở tuổi VTN. Mục đích của các tổ
chức này là xóa bỏ hoặc giảm bớt những vấn đề kinh tế - xã hội do những
bà mẹ còn ở tuổi VTN gây ra.
1.2.3.2. Chiến lƣợc quốc gia về SKSS và SKSS VTN ở Việt Nam
Cũng nhƣ phần đông các nƣớc đang phát triển, ở nƣớc ta quy mô dân
số lớn, mật độ dân số cao và tăng nhanh ảnh hƣởng xấu đến sự phát triển
kinh tế - xã hội. Vì vậy, chính sách dân số của Việt Nam từ năm 1961 đến
trƣớc năm 2000 chủ yếu tập trung vào việc điều chỉnh mức sinh thông qua
KHHGĐ, chƣa chú ý thích đáng đến các nội dung khác của SKSS. Kể từ
sau hội nghị quốc tế về dân số và phát triển tại Cairô năm 1994, nhận thức
đƣợc tầm quan trọng của việc GDSKSS, ngày 28/11/2000 Thủ tƣớng
Chính phủ đã kí quyết định số 236/2000/QĐ - TTg phê duyệt Chiến lƣợc
quốc gia về chăm sóc SKSS giai đoạn 2001 - 2010 nhằm chuyển từ định
hƣớng KHHGĐ sang định hƣớng toàn diện hơn - SKSS với mục tiêu cụ
thể là:


×