Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Biện pháp phối hợp nhà trường với Hội LHPN để giáo dục sức khoẻ sinh sản cho HS các trường THPT thành phố Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.59 KB, 122 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự hình thành, phát triển nhân cách cựng cỏc mối quan hệ của con
người bị chi phối và ảnh hưởng bởi các yếu tố sinh học, tâm lý, môi trường,
truyền thống văn hoá xã hội, đặc biệt là giáo dục GDSKSS là một khoa học
và nghệ thuật dạy cho con người có đạo đức và hành vi lành mạnh, hình thành
mối quan hệ có trách nhiệm trong tình bạn cũng như tình yêu và gia đình, xây
dựng nhân cách phù hợp với mong muốn của xã hội. Do đó, GDSKSS là một
trong những nội dung giáo dục toàn diện.
HS THPT coi tình bạn là mối quan hệ quan trọng nhất của con người.
Bên cạnh tính bền vững, tình bạn ở lứa tuổi này còn mang tính xúc cảm sâu
sắc. Phạm vi quan hệ bạn bè được mở rộng. Đặc biệt là nhu cầu kết bạn với
bạn khác giới được tăng cường. Có em đã xuất hiện những sự lôi cuốn đầu
tiên khá mạnh mẽ, xuất hiện nhu cầu chân chính về tình yêu và tình cảm sâu
sắc. Đó là một trạng thái mới mẻ nhưng cũng rất tự nhiên trong đời sống tình
cảm của HS THPT. Để giúp các em có kiến thức, kỹ năng sống phù hợp, xây
dựng tình cảm trong sáng thì cần phải phổ biến các kiến thức về cơ thể học,
sinh lý học, tâm lý và các vấn đề liên quan đến đời sống tình dục một cách
công khai, khoa học và phù hợp với điều kiện, đặc điểm tâm, sinh lý, xã hội
của lứa tuổi.
1
Hội LHPN Việt Nam là một tổ chức trong hệ thống chính trị quốc gia,
có chức năng đại diện cho quyền bình đẳng và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của phụ nữ thông qua tuyên truyền, vận động, hướng dẫn phụ nữ thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, Luật pháp, chính sách của Nhà nước. Việc
huy động các lực lượng xã hội, sự chia sẻ của nam giới trờn cỏc lĩnh vực là
rất cần thiết để thúc đẩy bình đẳng giới. Trong những năm qua, Hội LHPN
Việt Nam đã tăng cường phối hợp với các ngành chức năng, các trường
THPT để tuyên truyền nâng cao kiến thức mọi mặt cho PN trong đó có kiến
thức về SKSS nhằm xây dựng người PN Việt Nam có sức khoẻ, có tri thức,
có phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh.


Nghiên cứu có hệ thống giữa lý luận và thực tiễn để làm cơ sở khoa
học về GDSKSS cho HS THPT, làm rõ những vấn đề lý luận gắn liền với
thực trạng phối hợp của NT với Hội LHPN để GDSKSS cho HS các trường
THPT, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp quản lý công tác PHGDSKSS hiệu
quả trên địa bàn thành phố Ninh Bình.
2
Ngày nay, cùng với quá trình hội nhập, sự giao thoa văn hóa đã tạo nên
nhiều thay đổi trong cách suy nghĩ, cách sống của giới trẻ. Nhiều nhà giáo
dục, nhiều cha mẹ thường băn khoăn tự hỏi: khi nào sẽ bắt đầu GDSKSS cho
con, giáo dục về cái gì và sẽ giáo dục như thế nào? Thực tiễn có nhiều quan
điểm khác nhau, thậm trí trái ngược nhau về việc GDSKSS. Có nhiều người
đã nhận thức được tầm quan trọng của GDSKSS nhưng không ít trong số họ
gặp khó khăn trong việc lựa chọn nội dung, cách thức GDSKSS. Bờn cạnh
đó, cũng không ít người cho rằng SKSS là vấn đề không cần dạy trẻ cũng sẽ
biết. Nếu chủ động cho trẻ biết sớm có khác nào khuyến khích trẻ có hành vi
tiêu cực sớm. Điều này cho thấy, chính trong đối tượng những nhà giáo dục,
các bậc cha mẹ đang có mâu thuẫn nhất định. Bờn cạnh đó, chúng ta không
thể phủ nhận HS các trường THPT đang tự mày mò tìm hiểu các thông tin
liên quan đến SKSS trờn cỏc phương tiện truyền thông mà không ít trong số
họ tìm hiểu thông tin không phù hợp, thậm chí phản giáo dục.
Ninh Bình là một thành phố trẻ đang trên đà phát triển. Cũng như các
thành phố khác, trong xã hội bùng nổ thông tin như hiện nay, người dân
Thành phố Ninh Bình nói chung, trẻ em nói riêng có điều kiện tiếp xúc rất
sớm với thông tin trờn cỏc phương tiện truyền thông đại chúng. Vỡ thế, dù
người lớn có muốn hay không muốn, thỡ các em cũng đã được tiếp cận lượng
kiến thức nhất định về SKSS. Tuy nhiên, kiến thức này có thể chưa đầy đủ,
chưa đúng đắn vì còn tùy thuộc vào chất lượng nguồn thông tin mà các em
tiếp cận được và khả năng nhận thức của chớnh cỏc em. Như vậy, việc giáo
dục về SKSS là cần thiết. Vì vẽ đường cho hươu chạy đỳng cũn hơn để các
em tự suy diễn, tìm tòi, rất dễ có khả năng bị ảnh hưởng bởi những nguồn

thông tin không đáng tin cậy.
3
Giáo dục cho HS các trường THPT những kiến thức về sự thay đổi thể
chất cũng như tinh thần, cảm xúc, những kiến thức về quá trình sinh sản, tình
bạn, tình yêu chân chính, nghĩa vụ vợ chồng, vai trò làm bố mẹ… chính là sự
chuẩn bị tốt nhất cho tương lai khi các em thực sự trưởng thành. Trong những
năm qua, Hội LHPN thành phố Ninh Bỡnh đó tích cực, chủ động phối hợp
với các trường THCS, THPT, các ban ngành để tuyên truyền, giáo dục SKSS
nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình. Song, công cuộc
đổi mới đất nước, sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH trên quê hương Ninh Bình
và yêu cầu cao hơn nữa đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, nhất là phụ nữ,
trẻ em đang đặt ra cho các trường THPT và tổ chức Hội LHPN nhiều thách
thức, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng phối hợp để tổ chức thực hiện nhiệm
vụ hiệu quả hơn. Tuy đã có rất nhiều cố gắng, song, trong thực tế, công tác
phối hợp tổ chức tuyên truyền, giáo dục SKSS cho HS các trường THPT còn
bộc lộ nhiều hạn chế: Chưa có cơ chế hoạt động rõ ràng, mục tiêu, nội dung,
chương trình, hình thức và phương pháp tổ chức phối hợp giáo dục còn chưa
đáp ứng yêu cầu thực tiễn, chưa phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi
HS THPT
Là cán bộ công tác tại Hội LHPN Việt Nam, em luôn băn khoăn, trăn
trở và phải có trách nhiệm nghiên cứu để tìm biện pháp quản lý, nâng cao
chất lượng công tác phối hợp hoạt động để GDSKSS cho HS các trường
THPT. Chính vì lẽ đó, em chọn và nghiên cứu Đề tài “Biện pháp phối hợp
nhà trường với Hội LHPN để giáo dục sức khoẻ sinh sản cho HS các
trường THPT thành phố Ninh Bỡnh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng GDSKSS, thực
trạng PHGDSKSS cho HS các trường THPT trên địa bàn thành phố Ninh
Bình, từ đó xác định các biện pháp QL phối hợp giữa nhà trường THPT với
Hội LHPN trên địa bàn thành phố Ninh Bình để giáo dục SKSS cho HS,

4
nhằm trang bị cho HS kiến thức về SKSS, hình thành kỹ năng chăm sóc
SKSS cho HS, góp phần giáo dục toàn diện, xõy dựng những con người có
ích trong tương lai, đáp ứng yêu cầu của xã hội nói chung, của thành phố
Ninh Bình nói riêng.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Phối hợp nhà trường với các lực lượng xã hội
trong giáo dục HS các trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: QL phối hợp của nhà trường THPT với Hội
LHPN để giáo dục SKSS cho HS trường THPT.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
* Khảo sát thực trạng trong thời gian: Từ năm 2005-2010.
* Đối tượng khảo sát:
+ Cán bộ Hội LHPN thành phố Ninh Bình.
+ Cán bộ quản lý, giáo viên trường THPT chuyên Lương Văn Tuỵ,
trường THPT Đinh Tiên Hoàng, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
+ Học sinh các trường THPT chuyên Lương Văn Tuỵ, trường THPT
Đinh Tiên Hoàng, thành phố Ninh Bình.
5. Giả thuyết khoa học
Công tác phối hợp giáo dục SKSS cho HS các trường THPT ở thành
phố Ninh Bỡnh cũn nhiều vấn đề bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu hiểu biết
của học sinh và yêu cầu xã hội. Nếu áp dụng các biện pháp quản lý được xác
định trong đề tài sẽ nâng cao chất lượng giáo dục SKSS cho HS THPT, góp
phần thực hiện mục tiêu của giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu giáo dục
trong thời kì CNH - HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hoá lý luận về GDSKSS, phối hợp GDSKSS cho HS THPT
6.2 Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng phối hợp giáo dục SKSS của
trường THPT với Hội LHPN Việt Nam để giáo dục SKSS cho HS
5

6.3. Đề xuất biện pháp quản lý phối hợp của nhà trường THPT với Hội
LHPN Việt Nam để giáo dục SKSS cho học sinh
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp và hệ thống hoỏ cỏc văn bản, tài liệu nhằm xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp phỏng vấn sõu.
7.3. Nhóm phương pháp sử dụng toán thống kê
8. Cấu trúc của Luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận về phối hợp của NT THPT với Hội LHPN
Việt Nam để GDSKSS cho HS.
Chương 2: Thực trạng giáo dục SKSS và phối hợp NT với Hội LHPN
Việt Nam để giáo dục SKSS cho HS các trường THPT
thành phố Ninh Bình.
Chương 3: Biện pháp quản lý công tác phối hợp của NT với Hội LHPN
để giáo dục SKSS cho HS THPT thành phố Ninh Bình.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GDSKSS VÀ PHỐI HỢP CỦA NHÀ TRƯỜNG
VỚI HỘI LHPN VIỆT NAM ĐỂ GIÁO DỤC SKSS CHO HS THPT
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Những năm gần đây vấn đề SKSS đã và đang thu hút được sự quan
tâm của các nhà khoa học trên thế giới. Đặc biệt, sau hội nghị về dân số và
phát triển ICPD (International Conference on Population Development) tại
Cairo (Ai Cập) năm 1994 đã kêu gọi các nước đặt vấn đề ưu tiên hàng đầu là

SKSS, đặc biệt là vấn đề SKSS vị thành niên. Từ đó, SKSS được định
hướng chỉ đạo của hầu hết các nước, các chương trình dân số thế giới. ICPD
đã thống nhất chương trình hành động về dân số và phát triển trong 20 năm
tới và đã cho ra đời một khái niệm mới về SKSS bao gồm tất cả các nội
dung liên quan đến tình trạng sức khoẻ, quá trình sinh sản và chất lượng
cuộc sống. Sau hội nghị, hàng loạt các quốc gia trên thế giới lần lượt tổ chức
nhiều hội nghị bàn về vấn đề SKSS, SKSS vị thành niên như: Hội nghị
Thượng đỉnh phụ nữ quốc tế tại Bắc Kinh + 5 (1995), +10 (2000), +15
(2005), +20 (2010), Hội nghị Quốc tế về dân số và phát triển tại The Hague,
Hà Lan (1999), Hội nghị dân số cấp cao uỷ ban kinh tế và xã hội Châu Á
Thái Bình Dương (ESCAP) và Quỹ dân số Liên hiệp quốc (UNFNPA) tại
băng Cốc ”. [3] [26] [27]
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề SKSS ở
cách tiếp cận khác nhau, đối tượng quan tâm khác nhau, điển hình như công
trình nghiên cứu của Tiến sỹ Nasit Sadik - giám đốc điều hành Quỹ Dân số
Liên hiệp quốc đã đưa ra một thông điệp rất tích cực về SKSS: “Giới trẻ
ngày nay có ý thức về SKSS hơn và họ biết SKSS rất quan trọng. Họ đều
muốn xử xự một cách có trách nhiệm muốn bảo vệ sức khoẻ của chính mình
7
và của cả người yờu, vỡ họ biết rằng đây là việc nên làm. Phần lớn trong số
họ khao khát tìm hiểu, họ muốn có thông tin về tình dục, tình yêu, sức khoẻ
tình dục. Họ muốn biết làm thế nào để bản thân họ và người yêu không bị có
thai ngoài ý muốn, trỏnh cỏc bệnh LTQĐTD” [46].
Công trình nghiên cứu của Bhakta B. Gubhajiu (2002) đã đề cập đến
SKSS vị thành niên ở Châu Á. Brown và đồng sự (2001) điều tra về hành vi
tình dục của vị thành niên Châu Á [50] Các nghiên cứu và quan điểm của
các nhà Dân số học trình bày ở Hội nghị Dân số Châu Á Thái Bình Dương
lần thứ V tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 2/2002 cho thấy các nhà dân số học
chủ yếu đi sâu nghiên cứu khía cạnh nhân khẩu học, dịch vụ KHHGĐ, đồng
thời bắt đầu quan tâm đến chính sách SKSS vị thành niên, coi vấn đề SKSS,

SKSS vị thành niên là một bộ phận quan trọng hàng đầu của chính sách Dân
số và Phát triển. [50]
Như vậy, hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề
SKSS, coi đây là vấn đề có tính chiến lược quốc gia cần quan tâm và có
quan điểm xem GDSKSS là vấn đề lành mạnh. Do đó, đã có nhiều nước đưa
giáo dục SKSS vào NT theo từng chủ đề tự chọn như Thuỵ Điển, Đức, Tiệp,
Ba Lan
1.1.2. Ở Việt Nam
Do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến phương Đông, trong
thời gian dài SKSS bị coi là vấn đề đáng xấu hổ, nên bị né tránh đề cập và
nghiên cứu. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến dân số, chất lượng
dân số và chất lượng cuộc sống nhân dân. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20,
Đảng và Nhà nước ta đã coi giáo dục dân số là công tác thuộc chiến lược
con người, đặc biệt chú trọng đến bảo vệ, CSSK bà mẹ trẻ em. Do đó, vấn
đề SKSS đã thu hút sự quan tâm của nhiều cá nhân, tổ chức, cơ quan, đơn
vị. Các công trình nghiên cứu về vấn đề này được thể hiện dưới dạng các đề
án, đề tài nghiên cứu, luận văn tốt nghiệp, tài liệu
8
Dự án VIE/1998/P09, VIE/99/P09 với sự tham gia của nhiều giáo sư,
tiến sỹ, nhà khoa học, nhiều ngành, nhiều cấp đã tập trung nghiên cứu SKSS
một cách có hệ thống về vấn đề dân số và SKSS. Có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu sau :
Công trình nghiên cứu xây dựng chương trình thử nghiệm giáo dục
dân số, SKSS trong trường phổ thông do Viện khoa học Giáo dục thực hiện,
đã tập trung chủ yếu vào hai chủ điểm về tâm lý giáo dục và sinh học. Lần
đầu tiên trong nhà trường phổ thông ở nước ta HS được học có hệ thống về
“những điều bí ẩn” của chính mình và mối quan hệ với người khác giới,
bằng cách dạy tích hợp vào các môn học từ bậc tiểu học đến trung học với 5
chủ đề: Nhân khẩu học, môi trường, gia đình, giới và dinh dưỡng, trọng tõm
là GDSKSS cho vị thành niên, coi đầu tư giải quyết vấn đề vấn đề về SKSS

vị thành niên là một yêu cầu quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước.
Tuy nhiên, nội dung còn quá thiên về dân số phát triển, chưa coi SKSS như
một mục tiêu ưu tiên trong chính sách quốc gia.
Cụng trình nghiên cứu khoa học của Viện khoa học Giáo dục“Điều
tra quan niệm về tình yêu, tình dục trong và ngoài hôn nhân, đời sống gia
đình, KHHGĐ, giáo dục giới tính giai đoạn 1988 - 1991”; Tìm hiểu “Vị
thành niên và biện pháp tránh thai” của Viện Nghiên cứu thanh niên năm
1998; Bộ tài liệu huấn luyện về SKSS vị thành niên, SKSS vị thành niên -
vấn đề cần quan tâm của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh năm
2000; cuốn tài liệu “Phương pháp giảng dạy các chủ đề nhạy cảm về SKSS”
năm 2000 và bộ tài liệu tự học giành cho giáo viên “Giỏo dục SKSS vị
thành niờn” năm 2001, “SKSSVTN - những vấn đề cần quan tõm” giành
cho cán bộ đoàn, “Trũ chuyện giới tính, tình yêu ” năm 2009, “tõm lý tuổi
hoa” năm 2009 giành cho cán bộ Hội LHPN Việt Nam Các công trình
nghiên cứu khoa học đã nghiên cứu nội dung chương trình giáo dục dân số
mới cho HS phổ thông. Nội dung chương trình nhấn mạnh tới SKSS vị
9
thành niờn; xõy dựng các tài liệu hướng dẫn giảng dạy, tài liệu tham khảo và
tài liệu trực quan; tập huấn giáo viên song vẫn chưa xây dựng được
chương trình giáo dục SKSS phù hợp cho HS các trường THPT.
Nhiều tác giả đã lựa chọn vấn đề GDSKSS làm Luận văn tốt nghiệp
đại học, thạc sỹ, tiến sỹ, như: “Thực trạng và các biện pháp nâng cao nhận
thức về SKSS cho học sinh các trường THPT các huyện miền núi Phú Thọ”
(Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của tác giả Hoàng thị Lợi, năm 2000”; “Các
biện pháp giáo dục SKSS vị thành niên cho HS THPT thành phố Nam Định”
(Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của tác giả Lê Thị Kim Hoa, năm 2003) ; Luận
án Tiến sỹ của tác giả Trần Thị Minh Ngọc với đề tài “Nghiờn cứu nhận
thức của sinh viên đại học sư phạm về SKSS” năm 2006. Nhìn chung, các
tác giả đã tập trung nghiên cứu các vấn đề về lý luận sự cần thiết phải quan
tâm đến vấn đề giáo dục SKSS, thực trạng nhận thức về SKSS mà tập trung

vào dân số, KHHGĐ, đời sống tâm, sinh lý tuổi vị thành niên
Có một số đề tài nghiên cứu việc phối hợp các lực lượng tham gia
giáo dục học sinh, tiêu biểu như đề tài: “Một số biện pháp tổ chức phối hợp
các lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục đạo đức cho HS THPT Tây
Hồ” của Phạm Minh Tâm, đề tài “Biện pháp phối hợp nhà trường với các
lực lượng giáo dục để giáo dục pháp luật cho HS các trường THPT thành
phố Bắc Ninh”… đã khẳng định công tác phối hợp giữa NT với các
LLGD trong xã hội để giáo dục HS là cần thiết. Các đề tài đã nghiên cứu
và đề xuất những biện pháp phối hợp giữa NT với các LLGD hiệu quả và
khả thi.
Tuy nhiên, các công trình, đề tài nghiên cứu về nội dung, biện pháp
hình thức tổ chức GDSKSS trong NT đạt hiệu quả cao, nhất là vấn đề NT
phối hợp với tổ chức đoàn thể quần chúng, trong đó có Hội LHPN Việt Nam
để quản lý, GDSKSS cho HS trong NT thì chưa có tác giả nào nghiên cứu.
10
Chính vì lẽ đó, chúng tôi tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý
công tác phối hợp của NT với Hội LHPN Việt Nam để GDSKSS cho HS
THPT trên địa bàn Thành phố Ninh Bình, nhằm bổ sung, hoàn thiện hệ
thống biện pháp phối hợp các LLGD để GDSKSS cho HS trong NT phù hợp
với điều kiện hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm sức khoẻ sinh sản (Reproductive helth)
Theo Tổ chức Y tế thế giới: “Sức khỏe sinh sản là sự thoải mái hoàn
toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, không chỉ đơn thuần là không có bệnh
tật hoặc tàn phế của hệ thống sinh sản”. [9]
Điều này cũng hàm ý là mọi người, kể cả nam và nữ đều có quyền
được nhận thông tin và tiếp cận các dịch vụ CSSK, các biện pháp KHHGĐ
an toàn, có hiệu quả và chấp nhận theo sự lựa chọn của mình, đảm bảo cho
người phụ nữ trải qua quá trình thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho các
cặp vợ chồng cơ may tốt nhất để sinh được đứa con khoẻ mạnh.

SKSS là tình trạng hài hoà về thể lực, tinh thần, xã hội trong tất cả
các vấn đề có liên quan đến tình dục và hệ thống sinh sản của con người,
chức năng và quá trình của nó. SKSS được hiểu là con người có nhu cầu và
có khả năng về một cuộc sống thoải mái, khoẻ mạnh, tình dục được thoả
mãn và an toàn.
Như vậy, SKSS có nghĩa là nói đến điều kiện mà một cá nhân có thể
hoàn toàn không bị ốm yếu, bệnh tật cả về cơ thể lẫn tinh thần; SKSS còn
quan tâm đến những khía cạnh xã hội khác của cuộc sống như trạng thái của
cá nhân, tinh thần, chính trị, kinh tế cũng như văn hoá; SKSS bao gồm cả
thời gian trước, trong, sau khi sinh và tất cả vòng đời của con người.
11
Mô hình phát triển khái niệm SKSS:
1.2.2. Giáo dục và giáo dục SKSS
*. Giáo dục. [38][39]
Theo nghĩa rộng (giáo dục xã hội): Giáo dục là lĩnh vực hoạt động
của xã hội nhằm truyền đạt những kinh nghiệm xã hội, lịch sử chuẩn bị cho
thế hệ trẻ trở thành lực lượng tiếp nối sự phát triển của xã hội, kế thừa và
phát triển nền văn hoá của loài người và của dân tộc.
Theo nghĩa hẹp (giáo dục nhà trường): Là quá trình tác động có tổ
chức, có kế hoạch, có quy trình chặt chẽ nhằm mục đích cung cấp kiến thức,
kỹ năng, hành vi cho HS nhằm xây dựng và phát triển nhân cách theo mô
hình mà xã hội đương thời mong muốn.
Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, giáo dục được hiểu là hoạt động tác động
đến hệ thống giá trị, tư tưởng, tình cảm, đạo đức của đối tượng giáo dục.
TRÁNH THAI
CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI
VÀ PHÁ THAI
KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH
CSSK BÀ MẸ TRẺ EM
VÀ KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH

SỨC KHOẺ SINH SẢN
12
* Giáo dục SKSS.
GDSKSS là khái niệm kết hợp giữa khái niệm giáo dục và SKSS.
GDSKSS là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức thông qua
nội dung, chương trình, phương pháp cụ thể của chủ thể (nhà trường, gia
đình, tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ) nhằm cung cấp kiến thức về
giới, giới tính, cấu tạo, chức năng các cơ quan sinh sản, tình dục, tình yêu
để hình thành ý thức, thái độ, hành vi đúng đắn, có trách nhiệm trong các
mối quan hệ giữa bản thân và người khác giới, tạo sự hài hoà của toàn bộ
hoạt động các cơ quan sinh sản nhằm mục tiêu sinh sản hay không sinh sản
(tình dục) và thực hiện quyền sinh sản của mỗi người.
GDSKSS trong NT là một bộ phận quan trọng của giáo dục nhân cách
phát triển cân đối và toàn diện; nhằm trang bị cho thế hệ trẻ các kiến thức về
giới, về hoạt động và chức năng của bộ máy sinh sản, về đời sống tình dục
lành mạnh, an toàn giúp họ hình thành thái độ, hành vi đúng đắn trong các
mối quan hệ khác giới, biết cách giải quyết các vấn đề liên quan đến tình
bạn, tình yêu, hôn nhân, biết làm chủ quá trình sản xuất ra con người, biết
chăm sóc SKSS, sức khoẻ tình dục, kiểm soát tốt hơn đời sống tình dục và
sinh sản. [15]
Quá trình GDSKSS cú cỏc thành tố, cấu trúc nhất định và cùng vận
động trong hệ thống. Các thành tố cơ bản đó là hoạt động của nhà giáo dục
và người được giáo dục; mục đích giáo dục; nội dung giáo dục; phương
pháp và hình thức tổ chức giáo dục; kết quả giáo dục…
Nhà giáo dục là chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục nhằm thực
hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Đưa HS vào các hoạt động thực tiễn, các quan hệ xã hội.
+ Ngăn chặn các ảnh hưởng tiêu cực, định hướng lựa chọn những ảnh
hưởng tích cực trong quá trình lĩnh hội tri thức SKSS của học sinh.
13

+ Tổ chức các hoạt động để chuyển những yêu cầu của xã hội thành
phẩm chất, kỹ năng, hình thành thói quen tích cực của học sinh.
Như vậy, giáo dục SKSS phải được thực hiện một cách khoa học, bài
bản, đồng bộ, có hệ thống, có tổ chức với cấu trúc của nó bao gồm chủ thể,
khách thể, đối tượng, nguyên tắc, mục đớch, nội dung,… xác định.
1.2.3. Quản lý, quản lý giáo dục và quản lý GDSKSS
* Quản lý.
QL là thuộc tính xã hội, là hoạt động có ý thức của con người nhằm
đạt được những mục tiêu nhất định. Tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau,
những nhà nghiên cứu về QL có cách diễn đạt định nghĩa khác nhau về QL.
Theo Từ điển Tiếng Việt: QL là tổ chức, điều khiển hoạt động của
một đơn vị. [48]
Theo Haorl Konntz: “QL là hoạt động thiết yếu đảm bảo sự nỗ lực
của các cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức” .[17]
Với PGS.TS Trần Kiểm: “QL là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều
người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã
hội”. “QL là những tác động của chủ thể QL trong việc huy động phát huy,
kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực trong và ngoài tổ chức
một cách tối ưu, nhằm đạt mục đích của tổ chức cao nhất” [31].
Theo PGS.TS Trần Quốc Thành: “QL là sự tác động có ý thức của
chủ thể QL để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi
và hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà QL,
phù hợp với quy luật khách quan” [43].
“QL là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu. QL một hệ
thống là một quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu
nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống
mà người quản lý mong muốn” [20].
14
Qua các định nghĩa trên có thể khẳng định, dù ở góc độ tiếp cận khác
nhau, các nhà nghiờn đó cú cách diễn đạt định nghĩa quản lý có khác nhau,

nhưng chúng đều có một số điểm chung, đó là:
Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động
xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài
người tồn tại và phát triển.
Con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý.
QL bao giờ cũng nhằm để đạt được một mục tiờy đó được định trước.
QL luôn được thực hiện trong một không gian, thời gian, với các
nguồn lực nhất định.
QL luụn cú chủ thể QL và đối tượng QL.
Quản lý vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Chính vì vậy, trong hoạt
động quản lý người quản lý phải hết sức sáng tạo, linh hoạt, mềm dẻo để chỉ
đạo hoạt động của tổ chức đi tới đích.
Từ các định nghĩa trên có thể hiểu:
QL là sự điều khiển, phối hợp, tác động của chủ thể QL tới đối tượng
QL trong quá trình hoạt động (lao động, học tập, nghiên cứu, ứng dụng…)
của một tổ chức, đơn vị với các điều kiện nhất định (không gian, thời gian,
nguồn lực…) nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Quản lý là một quá trình tác động có định hướng hợp quy luật của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý bằng các giải pháp phát huy tác dụng của
các phương tiện quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn lực
trong điều kiện môi trường biến động để hệ thống ổn định, phát triển đạt
được những mục tiêu đã định.
Mục tiêu quản lý có vai trò định hướng toàn bộ hoạt động quản lý
đồng thời là công cụ để đánh giá hoạt động của quản lý. Để thực hiện mục
tiêu đó quản lý phải thực hiện tốt chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và
kiểm tra.
15
* Quản lý giáo dục.
QLGD là một bộ phận quan trọng của QL xã hội, được xem xét ở hai
cấp độ: [30]

QLGD cấp vĩ mô: Đó là QL một nền giáo dục/ hệ thống GD trên quy
mô cả nước hoặc một tỉnh/ thành phố/ ngành dọc.
QLGD cấp vi mô được xem như QL NT/ tổ chức giáo dục cơ sở.
Tương ứng với 2 cấp quản lý, có hai cách hiểu về QLGD:
Theo nghĩa rộng, QLGD là QL mọi hoạt động giáo dục trong xã hội.
Quỏ tỡnh đú bao gồm các hoạt động giáo dục hoặc có tính giáo dục của bộ
máy nhà nước, của tổ chức xã hội, của hệ thống quốc dõn,…
Theo nghĩa hẹp, QLGD là những tác động có hướng đích, có hệ
thống, có khoa học, có ý thức của chủ thể QL lên đối tượng QL, là quá trình
dạy và học diễn ra ở các cơ sở giáo dục.
Có thể rút ra điều kiện của QLGD:
Có chủ thể QL, ở tầm vĩ mô là QL nhà nước mà cơ quan trực tiếp
tham mưu là Bộ, Sở, phòng Giáo dục - đào tạo, ở tầm vi mô là QL của hiệu
trưởng NT.
Có hệ thống tác động QL theo một kế hoạch, nội dung, chương trình
thống nhất từ TW đến địa phương, cơ sở giáo dục, nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục trong mỗi giai đoạn cụ thể của xã hội;
Có lực lượng đông đảo những người làm công tác giáo dục.
Có cơ sở vật chất, trang thiết bị, kỹ thuật tương ứng.
* Quản lý nhà trường.
QLGD ở phạm vi hẹp là QLNT. NT là nơi tổ chức thực hiện mục tiêu
giáo dục.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “QLNT là tập hợp những tác động tối ưu
của chủ thể quản lý đế tập thể giáo viên, HS và cán bộ nhân viên khác nhằm
tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, các lực lượng xã hội đóng
16
góp và lao động xây dựng vốn tự có; hướng vào đẩy mạnh mọi hoạt động
của NT mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ; thực hiện có chất
lượng mục tiêu về kế hoạch đào tạo, đưa NT lên trạng thái mới”. [40]
Theo Phạm Minh Hạc: “QLNT là thực hiện đường lối của Đảng trong

phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa NT vận hành theo nguyên lý giáo dục
để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục”. [18]
Người trực tiếp quản lý trường học và chịu trách nhiệm về toàn bộ
hoạt động của NT là Ban giám hiệu (gồm hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng).
* Quản lý giáo dục SKSS.
Quản lý GDSKSS là tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm đưa hoạt động GDSKSS đạt kết quả mong muốn một
cách hiệu quả nhất. Đó là quá trình tác động có chủ định vào các thành tố
tham gia vào quá trình GDSKSS nhằm trang bị, bồi dưỡng và nâng cao tri
thức SKSS, hình thành, xây dựng kỹ năng chăm súc SKSS, kỹ năng sống
lành mạnh, có sự vui thích trong đời sống tình dục, chủ động sinh sản ra thế
hệ khoẻ mạnh.
Như vậy, muốn quản lý hoạt động GDSKSS cần làm tốt các nội dung
quản lý. Trong đó lưu ý khi phát hiện ra những vấn đề mới nảy sinh trong
thực tiễn cần khắc phục và rút kinh nghiệm sớm để công tác GDSKSS đạt
hiệu quả cao nhất.
* Hoạt động quản lý GDSKSS gồm các nội dung sau:
Lập kế hoạch quản lý: Xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp với các
bước đi cụ thể và điều kiện cần thiết cho việc thực hiện đạt mục tiêu
GDSKSS.
Tổ chức thực hiện kế hoạch, sắp xếp con người, công việc một cách
khoa học, hợp lý, có tính khả thi cao, phối hợp các lực lượng, các bộ phận
để tạo ra các tác động thích hợp nhằm đạt hiệu quả. Người quản lý phải
thông báo kế hoạch, chương trình hoạt động đến các thành viên, các lực
17
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của từng thành viên, xác lập cơ chế phối hợp giữa
các bộ phận, các thành viên.
Xác lập quyền chỉ huy, điều hành của người lãnh đạo trong toàn bộ
quá trình quản lý, huy động mọi lực lượng thực hiện kế hoạch và điều hành

mọi hoạt động diễn ra theo trật tự xác định.
Kiểm tra công việc diễn ra ở mọi giai đoạn trong quá trình quản lý
nhằm vào việc đánh giá tiến độ, nhịp độ của quá trình quản lý so với kế
hoạch, xác định mức độ đạt được so với mục tiêu đề ra. Phát hiện sai sót,
khuyết điểm cần khắc phục đồng thời phát hiện những vấn đề mới nảy sinh
tìm biện pháp giải quyết, rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình quản lý
tiếp đạt hiệu quả hơn.
1.2.4. Khỏi niệm các lực lượng giáo dục
Lực lượng giáo dục là hệ thống các tác nhân tham gia vào quá trình
giáp dục nhằm thực hiện các nhiệm vụ để đạt được mục tiêu giáo dục, đào
tạo đề ra. Lực lượng giáo dục bao gồm:
- Nhà trường: Là tổ chức xã hội đặc thù với cấu trúc, tổ chức chặt
chẽ, có nhiệm vụ chuyên biệt là giáo dục, đào tạo nhân cách trẻ em theo
những định hướng của xã hội.
- Gia đình: Gia đình là một nhóm xã hội có tâm lý đặc thù được gắn
kết với nhau bởi hai mối quan hệ hôn nhân và huyết thống. Các thành viên
trong gia đình có quan hệ gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi. Sự
giàng buộc giữa họ mang tình pháp lý được Nhà nước và phỏp lụõt bảo vệ.
- Các lực lượng xã hội: Bao gồm các tổ chức chính trị xã hội, các tổ
chức kinh tế, các đoàn thể quần chúng, các cơ quan chức năng [18]:
Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp rộng rãi các
tầng lớp phụ nữ Việt Nam, được tổ chức thành 4 cấp tương đương với 4 cấp
trong hệ thống chính trị Việt Nam, đó là: Cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp
18
huyện, cấp xã, dưới cấp xã là các chi hội phụ nữ được thành lập theo thụn,
xúm, phố, bản [23]:
Hội LHPN Việt Nam có chức năng đại diện, bảo vệ quyền bình đẳng,
dân chủ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ thông qua đoàn kết, tập
hợp, tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức, tạo điều kiện để phụ nữ nâng
cao nhận thức, trình độ, năng lực về mọi mặt trong đó có giáo dục SKSS cho

hội viên phụ nữ, trẻ em lứa tuổi vị thành niên, HS các trường THCS, THPT,
những công dân tương lai, sẽ là người cha, người mẹ trong gia đình, có vai
trò quan trọng trong việc giải phóng sức lao động cho phụ nữ, CSSK phụ
nữ, nâng cao chất lượng cuộc sống của phụ nữ nhằm đạt đến mục tiêu bình
đẳng giới và sự phát triển của phụ nữ.
1.2.5. Phối hợp và các biện pháp phối hợp
* Phối hợp.
Theo Từ điển Tiếng Việt, phối hợp là sự bố trí cùng nhau làm theo
một kế hoạch chung để đạt một mục đích chung.
Theo quan điểm của Lawrence K. Jones: Phối hợp là cá nhân hoặc tổ
chức làm việc chung với nhau và cùng hướng về một mục tiêu chung. [48]
Theo PGS. TS Trần Quốc Thành: “Phối hợp là liên kết nhiều bộ phận
để cùng giải quyết một công việc, cùng thực hiện một mục tiêu nào đó. Mức
độ phụ thuộc vào nhau là rất chặt chẽ” [44]
Như vậy, phối hợp bao giờ cũng có ít nhất 2 khách thể cựng cú mong
muốn đạt được mục đích chung nhất định.
Trong phạm vi đề tài, có thể hiểu phối hợp của NT với Hội LHPN
Thành phố Ninh Bình để giáo dục SKSS cho HS có nghĩa là NT phát huy
vai trò chủ đạo, chủ động cùng với Hội LHPN xây dựng một kế hoạch
GDSKSS, xác định mục đích, nội dung, các biện pháp thực hiện, nguồn lực
để tổ chức GDSKSS cho HS nhằm đạt mục tiêu đặt ra đó là nâng cao nhận
thức, thái độ và kỹ năng của HS THPT về SKSS.
19
* Ý nghĩa của phối hợp:
Làm tăng sức mạnh trong quản lý, tranh thủ được ưu thế của các bộ
phận, hạn chế các điểm yếu.
Làm cho bộ máy hoạt động đều hơn, mọi người cùng có trách nhiệm
với công việc chung.
Tiết kiệm được sức người, sức của, thời gian, nâng cao hiệu quả quản lý.
* Biện pháp phối hợp.

Biện pháp là “cỏch làm, giải quyết một vấn đề cụ thể” [44].
Biện pháp phối hợp là cách thức nhiều bộ phận, tổ chức thực hiện một
công việc, nhiệm vụ nhằm đạt đến mục tiêu chung.
Biện pháp phối hợp quản lý là cách thức các chủ thể quản lý cùng tác
động đến đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đặt ra, đó là làm cho đối
tượng quản lý đạt đến trạng thái mới theo mong muốn của chủ thể quản lý.
Bản chất của sự phối hợp quản lý giáo dục là đạt được sự thống nhất
về các yêu cầu giáo dục cũng như hành động giáo dục của tất cả LLGD làm
cho nhân cách của thế hệ trẻ được phát triển đúng đắn, đầy đủ và vững chắc.
* Đặc điểm biện pháp phối hợp. [44]
Xuất hiện khi cú cỏc vấn đề mới cần giải quyết hoặc đã giải quyết
nhưng chưa đem lại kết quả mong muốn của các thành phần tham gia.
Các thành phần tham gia căn cứ vào điều kiện thực tiễn của mình để
đưa ra và thực hiện những hoạt động, những cách thức, những việc làm,
cách giải quyết một vấn đề đang đặt ra.
Các hoạt động bao giờ cũng nhằm đạt đến mục tiêu chung của các
thành phần tham gia.
* Các biện pháp phối hợp. [44].
Giao cho cơ quan nhiều chức năng để có thể cùng một lúc giải quyết
nhiều công việc.
Tập hợp nhiều bộ phận, nhiều ngành vào bộ máy.
Giao cho một bên chịu trách nhiệm, các bên tham gia.
20
1.3. Lý luận về GDSKSS cho HS THPT
1.3.1. Đặc điểm lứa tuổi HS THPT
* Đặc điểm về sự phát triển thể chất. [22]
HS các trường THPT (từ 15-18 tuổi) là giai đoạn đầu của tuổi thanh
niên, bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Cùng
chung đặc điểm của tuổi thanh niên, tuổi học sinh THPT thể hiện tính phức
tạp về nhiều mặt: Là tuổi đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể, bước vào

thời kỳ phát triển bình thường, hài hoà, cân đối các cơ quan, bắt đầu thời kì
phát triển tương đối êm ả về mặt thể chất. Đa số học sinh THPT đã qua thời
kỳ phát dục, giới tính biểu hiện rõ rệt cả về hình thể bên ngoài lẫn chức năng
bên trong. Nhưng ở một số em do thời kỳ phát dục kéo dài nên cơ thể các
em phát triển chậm hơn so với với các em khác, thường thể hiện ở các em
nam nhiều hơn nữ.
Nhìn chung, tuổi học sinh THPT có sức khoẻ và sức chịu đựng tốt hơn
tuổi học sinh THCS. Thể chất của các em ở độ phát triển mạnh mẽ, tương đối
ổn định nên ảnh hưởng phần nào đến sự phát triển tâm lý và nhân cách.
* Đặc điểm tâm lý.
Hoạt động giao tiếp của HS lứa tuổi THPT được mở rộng với bạn bè,
thầy cô giáo và mọi người trong xã hội, nhưng nổi bật nhất là giao tiếp với
nhóm bạn cùng trang lứa. Đời sống tình cảm của HS THPT rất phong phú
và đa dạng. Các em có thái độ xúc cảm khác nhau đối với đời sống, nhu cầu
về tình bạn, tõm tỡnh cá nhân được tăng lên rõ rệt, coi sự tâm tình thân mật,
tình cảm ấm áp, thái độ chân thành lên hàng đầu. Tình bạn ở lứa tuổi này rất
bền vững, có thể vượt qua thử thách và kéo dài suốt đời.
Đời sống tình cảm của học sinh THPT rất đa dạng và phong phú,
mang tính bền vững, sâu sắc hơn so với tuổi học sinh THCS. Nguyên nhân
là do tình cảm được xây dựng trên cơ sở nhận thức đầy đủ và rõ ràng hơn,
gắn với thế giới quan, lý tưởng và xu hướng nghề nghiệp, đồng thời đối
21
chiếu với những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Học sinh THPT có nhiều
đổi mới trong quá trình xã hội hoỏ cỏc cảm xúc. Nội dung chất lượng của
các rung động trở nên đa dạng và phong phú hơn nhiều, phạm vi, đối tượng
gây nên cảm xúc được mở rộng, xúc cảm được phõn hoỏ rõ rệt. Khả năng tự
kiểm soát và tự điều chỉnh hành vi, xúc cảm được hình thành. Sự nhạy cảm
với các ấn tượng mới của đời sống và tính cởi mở được biểu hiện ở chỗ các
em bắt đầu có những rung động sâu sắc đối với quan hệ qua lại trong gia
đình, sinh hoạt, nhà trường. Một điều đáng chú ý là ở học sinh THPT quan

hệ giữa nam và nữ được tích cực hóa rõ rệt. Phạm vi quan hệ bạn bè được
mở rộng, nhu cầu về tình bạn khác giới được tăng cường và một số em đã
xuất hiện những lôi cuốn đầu tiên khá mạnh mẽ, xuất hiện những nhu cầu
chân chính về tình yêu và tình cảm sâu sắc. [22] [47]
Tình yêu ở lứa tuổi này thường trong trắng, tươi sáng, hồn nhiên, giàu
cảm xúc, chân thành, để lại ấn tượng mạnh mẽ và rất sâu sắc, có ảnh hưởng
đến toàn bộ đời sống tinh thần của các em. Tuy nhiên, tình yêu mới nảy sinh
này dễ tan vỡ, ít tiến tới hôn nhân, do chưa có cơ sở vững chắc và cuộc sống
của các em còn nhiều biến động về vật chất và tinh thần… hoặc có thể không
phát triển bình thường (không được đáp lại hoặc có những hứng thú, rung
động không hoàn toàn lành mạnh) khiến các em bị phân tán quá mức, sao
nhãng việc học hành hoặc có thể những hành vi tiêu cực khác. [15] [22] [24]
Vì vậy, người làm công tác giáo dục không được can thiệp thô bạo
vào tình cảm thiêng liêng này của các em. Cần có thái độ tế nhị và trân trọng
đối với nú…
1.3.2. Vai trò của GDSKSS đối với sự phát triển nhân cách HS THPT
Giáo dục SKSS góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giống nòi.
Giáo dục SKSS là nền tảng để nâng cao ý thức trách nhiệm của con người
khi bước vào tuổi trưởng thành, nú giỳp thanh niên biết được rằng chỉ khi
đôi thanh niên có đủ điều kiện mới “nuụi dưỡng, giáo dục chăm lo việc học
22
tập của con, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ,
phẩm chất đạo đức”.
Giáo dục SKSS được thực hiện tốt sẽ góp phần hình thành cho thế hệ
trẻ những hành vi văn hoá ứng xử tốt đẹp. Các bạn trẻhiểu biết những đặc
điểm tâm sinh lý của người khác giới để có cách ứng xử thích hợp; Có thiện
chí trong quan hệ giao tiếp và biểu hiện thiện chí bằng cử chỉ và ngôn ngữ
thích hợp, đồng cảm, vị tha, hào hiệp, khiờm tốn, nhã nhặn, trung thực, tế
nhị trong quan hệ giao tiếp, tỡm thấy trong tình yêu đôi lứa không chỉ là
quan hệ mới, trách nhiệm mới, nghĩa vụ mới mà còn là những niềm vui và

hạnh phúc do chính đôi lứa tạo nên hàng ngày. Đú chớnh là hiệu quả của
công tác giáo dục SKSS.
Giáo dục SKSS đáp ứng những quy luật phát triển về tâm sinh lý của
con người nói chung và học sinh THPT nói riêng. Hoạt động sinh lý tình
dục là một hoạt động bình thường, phát triển theo quy luật tự nhiên. Sự
quan tâm đến các vấn đề giới tính, việc xuất hiện các hành vi tình dục ở
học sinh THPT là một hiện tượng tất yếu có tính quy luật. Nó nảy sinh do
chính đời sống sinh lý cơ thể và đời sống xã hội của các em. Vì vậy, nếu
không có sự hướng dẫn đầy đủ chu đáo của người lớn các em sẽ gặp phải
nhiều khó khăn.
Giỏo dục SKSS góp phần ngăn ngừa hiện tượng có thai ngoài ý
muốn. Quan hệ tình dục trước hôn nhân, quan hệ tình dục không an toàn
đang tiềm ẩn nhiều rủi ro như có thai ngoài ý muốn, phá thai không an toàn,
lây nhiễm các bệnh tình dục
1.3.3. Nội dung giáo dục SKSS cho HS
Nội dung giáo dục SKSS cho HS trong NT là trang bị cho các em hệ
thống kiến thức về SKSS phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý và xã hội của
lứa tuổi, nhằm hình thành thái độ, hành vi đúng đắn, phù hợp với chuẩn mực
xã hội. Tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:[9] [15]
23
Về Kiến thức: Trang bị cho HS những kiến thức sau:
Làm mẹ an toàn: Bao gồm chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trước sinh, trong
sinh và sau sinh, chăm sóc trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đảm bảo “mẹ khoẻ, con
khoẻ” sau mỗi lần sinh, phòng tránh lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con.
Quyền sinh sản: Quyền quyết định số con, số lần, khoảng cách sinh.
HS có quyền được biết đầy đủ thông tin về SKSS, sức khỏe tình dục một
cách thường xuyên, liên tục dưới mọi hình thức, trước khi trở thành người
lớn; được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc SKSS thuận tiện, phù hợp.
Kế hoạch hóa gia đình: Bao gồm thời điểm sinh con, số con, khoảng
cách giữa các lần sinh hợp lý và các biện pháp tránh thai. KHHGĐ có nghĩa

là chủ động có con theo mong muốn, không để dẫn đến phải phá thai hoặc
đẻ quá nhiều con, đẻ quá dày, đẻ con khi quá trẻ hoặc đẻ con khi đã lớn tuổi
dễ bị bệnh tật, nguy cơ tử vong cho cả mẹ lẫn con, gia đình nghèo khó
Thực hiện KHHGĐ sẽ mang lại lợi ích kinh tế, sức khoẻ, trình độ của bản
thân cha, mẹ và con cái
Phòng tránh thai, phá thai an toàn: Phá thai là chấm dứt thai nghén
ngoài ý muốn, không phải là biện pháp tránh thai. Phá thai có thể mang đến
nhiều biến chứng như đau, choáng, thủng tử cung, nhiễm khuẩn, có thể bị vô
sinh sau này hoặc thậm chí có thể chết, nhất là phá thai ở những nơi không
có đủ điều kiện.
Phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, các bệnh
LTQĐTD và HIV/AIDS. Các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, các bệnh
LTQĐTD có thể gõy nhiều biến chứng như tắc vòi trứng, tắc ống dẫn tinh
dẫn đến vô sinh gây sẩy thai, chết lưu có thể lây truyền cho con, thậm trớ
gõy tử vong.
Bình đẳng giới trong chăm sóc SKSS: Là tăng cường sự tham gia, hỗ
trợ, chia sẻ trách nhiệm của nam giới trong mọi lĩnh vực của SKSS.
24
Về thái độ và hành vi: Thông qua giáo dục của NT, hình thành ở HS
thái độ đúng đắn về học tập, nâng cao ý thức trách nhiệm trong CSSKSS
cho bản thân, các thành viên trong gia đình và bạn khác giới. Cụ thể:
Thông qua hiểu về quá trình mang thai, sinh đẻ, chăm sóc trẻ làm cho
HS biết quý trọng ông bà, cha mẹ, tôn trọng giá trị đạo đức, tinh thần và
chăm sóc bản thân cũng như các thành viên khác.
Nam giới sẽ chia sẻ trách nhiệm với phụ nữ về SKSS và sức khoẻ tình
dục. Góp phần làm giảm gánh nặng cho phụ nữ do phải phá thai, phải đẻ
nhiều hay không được chăm sóc chu đáo trong thời kỳ mang thai, sinh đẻ,
nuôi dưỡng trẻ nhỏ Mọi thành viên trong gia đình có trách nhiệm chăm sóc
bà mẹ khi mang thai, khi đẻ, sau đẻ, chăm sóc trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ tốt nhất.
HS biết cách chia sẻ để được sự giúp đỡ, an ủi khi gặp khó khăn liên

quan đến vấn đề giới tính, tình bạn, tình yêu. Qua đó, HS có được nhận thức
đúng về quyền sinh sản đi đối với nghĩa vụ, trách nhiệm trong gia đình,
cộng đồng và xã hội một cách tốt nhất.
Biết cách phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, các
bệnh lây qua đường tình dục và HIV/AIDS.
HS cú cỏc thông tin đầy đủ về các biện pháp tránh thai, hiểu về các
BPTT, lựa chọn và sử dụng đỳng cỏc biện pháp tránh thai phù hợp để phòng
tránh thai. Trong trường hợp bắt buộc phải phá thai cần phá thai sớm tại cơ
sở y tế có đủ điều kiện phá thai.
HS biết cách xây dựng tình yêu lành mạnh, tình dục an toàn, có kỹ
năng sống, biết từ chối những hành vi không lành mạnh như sinh hoạt tình
dục trước hôn nhân, sinh hoạt tình dục mà không sử dụng BPTT…
1.3.4. Phương pháp giáo dục SKSS cho HS
SKSS là một bộ phận của nhân cách, nên về cơ bản người ta vẫn sử
dụng cỏc nhúm phương pháp giáo dục nhân cách trong quá trình GDSKSS.
25

×