Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đề cương ôn tập ngữ văn HKI lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.91 KB, 26 trang )

Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

Đề: Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí
Phèo của nhà văn Nam Cao.
I. MỞ BÀI
Nam Cao là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông là cha đẻ của những tác phẩm
tên tuổi : “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”… trong đó Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt
tác của văn học hiện thực phê phán. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo và con đường tha hóa của
người nông dân trước Cách mạng, Nam Cao đã khắc họa thành công tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người của nhân vật Chí Phèo mang đến cho bạn đọc bao niềm xúc động sâu sắc.
II. THÂN BÀI
1. Bi kịch là gì ? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời
sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn
cảnh bi đát (có thể dẫn đến cái chết). Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch tình yêu của
Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Như Tô… nhưng bi kịch lạ lùng nhất là bi
kịch “bị cự tuyệt quyền làm người” của Chí Phèo.
2. Bi kịch ấy ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của Chí Phèo. Chí Phèo xuất hiện lần
đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi"hắn vừa đi vừa
chửi". Đó là hình ảnh vừa quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say rượu. Lạ vì hắn chửi
mà không có ai chửi nhau với hắn, không ai lấy làm điều. Chí "chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại,
chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn". Đó là một tiếng
chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chửi
cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến
rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo lại là“tiếng chó cắn lao xao”. Chí đã bị
đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con
người nữa. Qua tiếng chửi ấy, ta nhận ra bốn thái độ: Thái độ của người chửi: hằn học, hận thù; thái độ
người nghe: dửng dưng, khinh miệt; thái độ nhà văn: xót xa, thương cảm; thái độ người đọc: tò mò… Vậy
Chí Phèo là ai?
3. Bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được


nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò
gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ
của anh sống trong bất hạnh, tủi cực "hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác,
năm hai tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến". Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của
Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét
những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa
run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị: "có một gia
đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng.
Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái
xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão
cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí
Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
1


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

4. Bi kịch tha hóa, lưu manh là con đường dẫn đến bị cự tuyệt quyền làm người.Nhà tù thực dân đã
vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh
canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm
ghiếc "cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm
chết... cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh
tay cũng thế". Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác
trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại
lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành
lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh "con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Đáng buồn thay, mới ngày nào
chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với
chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của

biết bao nhiêu người dân lương thiện: "Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và
nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện". Hắn làm những việc ấy trong lúc say " ăn trong lúc
say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say... đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa
say vô tận". Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì "những cơn say của hắn tràn từ
cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang". Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế
đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt
ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không
ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của
tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
5. Gặp Thị Nở và khao khát hoàn lương. Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành
cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ
cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị
Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến "ma chê quỉ hờn", kỳ diệu thay, lại là
nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính
người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc
tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Có nhà
phê bình đã cho rằng: Thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái đến để thức tỉnh Chí Phèo. Đó là sứ giả của
tình yêu thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Nhưng có lẽ cần phải nói thêm, Thị Nở không
chỉ là vai trò sứ giả của lòng nhân đạo mà Thị còn là một “thiên sứ” của tình yêu. Vị thiên sứ này không
có đôi cánh thiên thần nhưng có đôi tay đầy ắp tình người. Thiên sứ ấy như một ngọn gió, một ngọn lửa
thổi vào tâm hồn của Chí. Nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh anh. Nếu là lửa, lửa sẽ
đốt cháy lớp vỏ quỷ dữ để trả về cho anh một con người.
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ
biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên
sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về... Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay
Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Âm thanh cuộc sống này khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo của đêm
tình mùa xuân trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tiếng sáo đã lay động tiềm thức xa xôi của Mị, đánh
thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá khứ đẹp tươi. Đó chính là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên
chất thơ cho tác phẩm. Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí. Nó như cơn gió thổi
tung đám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt nước nhỏ vào tâm hồn sỏi đá, cằn khô làm tan đi giá băng tâm

hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ :"có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày
thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
2


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

làm". Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo đã cô đơn hơn bao giờ hết “Nhìn phía trước
người thân chẳng có/ Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Hắn như đã thấy "tuổi già của hắn, đói
rét, ốm đau và cô độc - cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau". Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn
những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như
Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.
Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát
cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Kỳ diệu làm sao
bát cháo hành Thị Nở, một liều tiên dược vừa giải cảm vừa giải độc. Cháo hành đã tẩy ố đi men rượu, gột
rửa những tội lỗi con người. Cháo hành có hương vị đặc biệt quá, những kẻ vô nhân tính như cha con nhà
Bá Kiến làm sao mà biết được. Đó là hương vị của tình người, hương vị của tình yêu. Khi mà cả làng Vũ
Đại không chấp nhận Chí là con người thì Thị Nở đã giang rộng vòng tay để đón lấy anh. Và bát cháo
hành kia vô hình dung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho một mối thiên duyên. Nhìn bát
cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị
ngon của nó. Chí Phèo quen sống với một kiểu định nghĩa : Muốn có cái ăn hắn phải kêu làng, phải rạch
mặt ăn vạ, hắn phải thực sự hóa thân vào con quỷ dữ... Mỗi miếng ăn hàng ngày của Chí đều có máu và
nước mắt của những người dân lương thiện làng Vũ Đại. Nhưng hôm nay cái triết lý sống ấy của Chí
dường như đã thay đổi, những gì hắn đã từng có giờ phản bội lại hắn trong hương cháo hành của người
đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn kia. Hắn hiểu rằng người ta sống với nhau không chỉ bằng tội ác mà còn
bằng cả tình thương yêu nữa. Mắt hắn lần đầu tiên ươn ướt. Hơi cháo hành phảng phất phục sinh phần
người trong Chí... Hắn có thể sống với người ta bằng tình yêu, hắn nhen nhóm một mơ ước về cuộc sống
bình dị... Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí cả... Bát

cháo hành giản dị nhưng bao nhân tính ẩn chứa, nó giữ chân Chí Phèo đứng lại ở bờ của phần người...
Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát "Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con,
hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ...”.Đó là giây phút mà hắn người nhất. Đã hai lần chính
Thị Nở đã phải thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền!" rồi “Những lúc tỉnh táo hắn cười nghe thật hiền”. Cảm
giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Phần quỷ tạm thời rũ bỏ.
Đó là giây phút Chí "thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người". Rồi đến khát vọng hạnh
phúc với Thị Nở "Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho
vui". Ôi! Phải là lời của Chí Phèo đó không ? Nghe sao mà hiền lành, có chút gì ngờ nghệch, hồn nhiên
mà lại rất đỗi chân thành. Lời cầu hôn không tình tứ như bao kẻ khác nhưng lại khiến cho trái tim chúng
ta nghẹn ngào thương cảm. Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí
thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương
của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,... cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người
nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
6. Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì
ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt
thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy
một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về
của Chí. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Đó chính là
bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ
nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo
trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về
với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo.
3


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông

cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã
cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối
Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu không
còn đủ sức để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí ấy. Càng uống Chí
càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe “thoang thoảng mùi
cháo hành” rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định,
Chí định đến nhà đâm chết con "khọm già", con "đĩ Nở" nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch
đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã
làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng
thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến
nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người: “Tao muốn làm người lương
thiện ?”, “ Ai cho tao lương thiện ?”. Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu
hỏi chất chứa nỗi đau của một con người, thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi
đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận
con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của
mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện ? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn
nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp
nát. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm
của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là
tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người! . Sống
trong đời sống cần có một tấm lòng.
8. Nội dung tư tưởng và đăc sắc nghệ thuật. Tác phẩm Chí Phèo thông qua tấn bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã
lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó
nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và lăng nhục của người nông dân. Đồng thời nhà
văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực
tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bằng sự tài hoa của mình, nhà văn đã xây dựng hình tượng
nhân vật rất có chiều sâu, MTDBTL nhân vật một cách tinh tế, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại nội tâm, diễn
tả chân thực, sinh động tâm trạng nhân vật.

III. KẾT BÀI
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo
và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Tác
phẩm Chí Phèo mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ
trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. Có một nhà thơ đã từng viết rằng: "Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn
sống - Nào có dài chi một kiếp người - Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách - Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa
trần ai". Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá trị nghệ thuật và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi
thời gian, đã chứng minh sức sống mạnh mẽ, bất hủ của nó.

4


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

Dàn ý: Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Mở bài:
- Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của văn học Việt Nam 1930-1945. Người
trí thức và nông dân nghèo là những hình ảnh quen thuộc trong các sáng tác của ông.
- Chí Phèo là một kiệt tác của Nam Cao, kết tinh tài năng nghệ thuật, cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm
lòng nhân đạo cao cả của nhà văn.
- Tác phẩm không chỉ phản ảnh chân thực cuộc đời bi thảm, bất hạnh của Chí Phèo mà cỏn thành công
trong việc miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Thân bài:
1.Giới thiệu chung:
Nhan đề tác phẩm :
- Đầu tiên, Nam Cao đặt nhan đề : Cái lò gạch cũ. Sau đó – năm 1941- NXB tự ý đổi tên thành Đôi lứa
xứng đôi. Năm 1946, khi in lại trong tập Luống cày, Nam Cao đã đặt lại tên là Chí Phèo.
-Ý nghĩa của nhan đề: Chí Phèo, vẽ nên một con người cụ thể, một số phận cụ thể, cô đơn, cô độc…

Cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là viết về người ND lương thiện, hiền lành nhưng dưới tác động của
XHTDNPK đã đẩy họ vào con đường lưu manh hóa, biến thành một con quỷ dữ và cuối cùng phải chết
đau đớn, vật vã trên ngưỡng cửa trở về con đường lương thiện. Mà nv trung tâm là Chí Phèo.
2.Diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo
2.1.Trước khi gặp Thị Nở
- Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương.
Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa mùa đông sương trắng. Rồi Chí
được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của Chí tuy sống trong nghèo khổ, cơ cực, nhưng thấm đượm
tình yêu thương, sự cưu mang của người dân làng vũ đại.
- Chí lớn lên lương thiện, cũng có ước mơ như bao người, sống bằng những đồng tiền mồ hôi nước mắt
của mình chớ chả biết cướp giật là gì. Chí có lòng tự trọng, biết khinh bỉ những điều chính đáng. Khi đc
bà Ba gọi bóp chân mà cứ đòi bóp lên trên, trên nữa, Chí chỉ cảm thấy nhục chứ yêu đương gì “20t ngta
không phải là đá nhưng cũng ko hoàn toàn là xác thịt”.
- Nhưng chỉ vì một cơn ghen vô cớ của Bá Kiến đã đẩy CP vào tù. Dưới bàn tay của nhà tù thực dân nửa
phong kiến đã biến Chí từ anh nông dân lương thiện ngày nào thành một thằng lưu manh và một con quỷ
dữ, bị tha hóa cả nhân hình và nhân tính. Đôi với người dân làng Vũ Đại những người đã từng cưu mang
mình, hắn đang tâm phá biết bao cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc,
làm chay máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện. Vì thế, tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt
hắn mỗi lần hắn qua. Hắn chỉ giao tiếp bằng tiếng chưởi, nhưng đáp lại tiếng chưởi của hắn chỉ là tiếng
sủa của những con chó.
5


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

2.2.Sau khi gặp Thị Nở:
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở trong một đêm trăng bên bờ suối đã thức tỉnh phần người của Chí giúp hắn trở về
kiếp người. Sự quan tâm, chăm sóc của Thị Nở đã giúp Chí cởi bỏ phần “quỷ” để sống lại làm người, khát

khao hoàn lương, làm người lương thiện.
- Diễn biến tâm lí, tình cảm của Chí Phèo
+ Từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ
• Tỉnh rượu: lần đầu tiên – từ khi mãn hạn tù – Chí hết say và cảm nhận được thời gian và âm thanh hằng
ngày của cuộc sống. Âm thanh cuộc sống đang từng tiếng một gõ nhịp vận hành cùng với sự thức tỉnh của
Chí Phèo. * “Ở đây (căn lều) người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng” * “Tiếng
chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Tiếng mấy bà đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên
sông” . Những âm thanh này ngày nào mà chẳng có, nhưng đây lại là lần đầu tiên chí mới nhận ra: chao ôi
là buồn!
• Tỉnh ngộ : nhận thức và nhìn lại cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai * Qúa khứ :“Hắn
nao nao buồn” nhớ về một thời hắn đã từng ước mơ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn,…” *
Hiện tại: “Hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn “đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “cơ thể đã hư
hỏng nhiều” * Tương lai: đáng buồn và lo sợ vì nghĩ đến nhiều điều bất hạnh: “tuổi già”, “đói rét và ốm
đau, và cô độc”. Tỉnh ngộ, Chí muốn khóc… Chí Phèo đang thức tỉnh và bắt đầu hồi sinh về kiếp người.
+ Khát khao hoàn lương và mong ước hạnh phúc
• Chí ngạc nhiên và xúc động “mắt hình như ươn ướt” khi Thị Nở mang “một nồi cháo hành còn nóng
nguyên” vì đây là lần đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi
một bàn tay “đàn bà”. Chí lại nghĩ đến con mụ Bà Ba và lấy làm kinh tởm vì những trò dâm đãng “nó chỉ
mong cho thỏa nó chứ yêu đương gì”.
• Chí “ăn năn”, “thấy lòng thành trẻ con” và “muốn làm nũng với thị như với mẹ” khi được Thị Nở chăm
sóc bằng tình cảm thương yêu. Chí còn giống một cái gì nữa như ăn năn… hối hận về tội ác khi không đủ
sức mà ác nữa. Anh ta băn khoăn tự hỏi rồi tự trả lời, ngẫm nghĩ mà sợ hãi: Hắn đâu còn mạnh nữa. Và có
lúc hắn ngẫm mình mà lo. Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và doạ nạt. Nếu không còn sức mà giật
cướp, dọa nạt nữa thì sao? Đã đành, hắn chỉ mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc mà
người ta không thể liều được nữa. Bầy giờ mới nguy!
• Chí trở nên hiền lành đến khó tin: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó vẫn là cái thằng Chí Phèo vẫn đập
đầu, rạch mặt đâm chém người?”, “cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ, Chí
sống đúng với con người thật của mình, giống như anh canh điền hiền lành trước đây.
• Chí mong muốn trở lại làm người lương thiện: “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với
mọi người biết bao !... Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương

thiện” . Bùng nổ trong tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở là khát vọng lương thiện. Đấy cũng là
đỉnh điểm của sự tỉnh thức của Chí Phèo: Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với, vọi nguời biết
bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lạo không thể đựơc.
Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân
thiện của những người lương thiện… Chí đã đem cái khát vọng ấy ta thăm dò đặng tìm sự chia sẻ ở Thị
Nở. Khi thị cười tin cẩn, Chí Phèo thấy tự nhiên nhẹ cả người và lòng thấy rất vuoi chứng tỏ anh ta đang
tràn đầy hy vọng trở lại thế giới con người. Những ngày sau đó, Chí không còn kinh rượu nhưng cố uống
thật ít. Để cho khỏ tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo mà yêu nhau. Đàn bà không có men như rượu nhưng
cũng làm người say. Và hắn say Thị Lắm.
• Chí khát khao hạnh phúc và có một mái ấm gia đình: “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay là mình
sang đây ở với tớ một nhà cho vui.” giống như lời cầu hôn chất phác, giản dị. Cả người kể chuyện ẩn hình,
6


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

vốn rất lạnh lùng, cũng không giấu nổi cảm xúc cảm hình khi hình dung về tương lai của họ: Chúng sẽ
làm thành một cặp rất xứng đôi.
Qua miêu tả tâm lí hồi sinh của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao cho cho ta thấy được bản tính lương thiện
của con người sẽ ko bị mất đi kể cả khi họ biến thành một con quỷ dữ. Từ đó nhà văn kêu gọi chúng ta
cần tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi con người và cần giúp đỡ họ tìm lại những cái tốt
đẹp nhất của phần “người”. Tình thương có khả năng cảm hoá được con người. Dù là một người đàn bà
xấu ma chê quỷ hờn, dở hơi như Thị cũng có thể kéo một con quỷ dữ như Chí về con đường, thì chúng taị
sao lại ko?
3. Kết luận
Bằng ngòi bút tinh tế và tấm lòng của nhà văn chân chính, Nam Cao đã thể hiện cái nhìn hiện thực sắc sảo
và niềm tin, sự cảm thông sâu sắc với khát vọng lương thiện của người nông dân trong xã hội cũ. Qua đó,
cũng gửi đến chung ta một thông điệp sống vô cùng ý nghĩa: Sống trong đs cần có một tấm lòng.


Dàn ý: Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo (truyện ngắn: “Chí Phèo” của Nam Cao) từ buổi
sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để làm nổi rõ bi kịch của nhân vật này.
1. Khái quát tác giả, tác phẩm và bi kịch nhân vật
a. Nam Cao (1915 – 1951) là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, vừa mới mẻ, độc
đáo. Sáng tác của ông trước Cách mạng xoay quanh hai đề tài chính là trí thức tiểu tư sản và người nông
dân cùng khổ. Điều làm ông day dứt đến đau đớn là tình trạng nhân cách con người bị hủy hoại.
Là nhà văn có biệt tài phân tích tâm lí, Nam Cao đã khám phá ra những diễn biến nội tâm nhân vật vừa tất
yếu, vừa bất ngờ rất thú vị. Qua việc tìm hiểu diễn biến tâm trạng Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị
Nở đến khi kết thúc cuộc đời, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
b. “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao về đề tài người nông dân và là kết tinh khá đầy đủ cho tài năng
của Nam Cao. Tác phẩm đi sâu vào tấn bi kịch tinh thần của nhân vật chính Chí Phèo.
c. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau.
- Thứ nhất, bi kịch bị tha hóa, đầy đọa lăng nhục, từ một con người nông dân lương thiện bị xã hội biến
thành một kẻ bất lương, thậm chí thành “con quỷ dữ”.
- Bi kịch thứ hai là bị từ chối quyền làm người.
2. Phân tích cụ thể diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
a. Trước hết là sự thức tỉnh. Bắt đầu là tỉnh rượu.
- “Sau những cơn say vô tận”, “bây giờ thì hắn tỉnh” sau đêm gặp Thị Nở, Chí Phèo đã sống lại những
cảm xúc đầy nhân tính. Hắn cảm nhận được không gian xung quanh với “cái lều ẩm thấp mới chỉ lờ mờ”.
Đặc biệt hắn đã cảm nhận được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống quanh mình: “Tiếng cười nói
của những người đi chợ; tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!”.
Những âm thanh bình dị ấy ngày nào chả có, nhưng xưa nay, vì say hắn bị xã hội làm cho “mù điếc cả tâm
hồn”, không nghe được. Giờ đây được Thị Nở làm cho tâm hồn hắn sáng tỏ, thì những âm thanh ấy bỗng
vọng sâu vào trái tim hắn như tiếng gọi tha thiết của sự sống.
- Cùng với sự cảm nhận bức tranh cuộc sống xung quanh, Chí Phèo cũng đã cảm nhận được một cách
thấm thía về tình trạng thê thảm của bản thân mình, với ba con số không tròn trĩnh, ko nhà cửa, ko vợ con,
7



Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

ko 1 tấc đất cắm dùi.
- Đoạn đối thoại của hai người đàn bà đã gợi nhắc cho hắn mơ ước về một gia đình hạnh phúc, bình dị.
Nhưng giờ đây, Chí chỉ thấy một thực tại buồn bã, cô đơn: “Chí Phèo dường như đã trông thấy trước tuổi
già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc, điều này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”.
b. Sau khi tỉnh rượu, Chí Phèo tỉnh ngộ và hi vọng.
Chí Phèo ăn bát cháo hành được trao từ bàn tay ấm nóng đầy tình thương của Thị Nở, hắn vô cùng cảm
động và thực sự phục sinh tâm hồn. Hắn “rất ngạc nhiên”, “mắt hắn hình như ươn ướt”, bởi vì “đây là lần
thứ nhất hán được người ta cho cái gì”.
Hắn nhận ra “Trời ơi, chào mới thơm làm sao!”. Hương vị của bát chào hành hay hương vị của tình yêu
chân thành và cảm động, hạnh phúc giản dị và thấm thía lần đầut tiên Chí Phèo được hưởng đã đánh thức
nhân tính vùi dập bấy lâu?
“Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho
hắn”, mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện. Chúng sẽ
làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng nhất định sẽ lấy nhau. Câu trả lời của Thị Nở lúc này sẽ quyết
định số phận của Chí: được kết nạp lại xã hội loài người hay vĩnh viễn bị đày đọa trong kiếp sống thú vật?
Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh của hi vọng vừa hé mở thì đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô
không cho Thị Nở “đâm đầu” đi lấy “thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Chí Phèo nghĩ ngợi một lát rồi bỗng nhiên “ngẩn người”. Hắn “sửng sốt”. Hắn lôi rượu ra uống. “Nhưng
càng uống càng tỉnh ra! Chao ôi! Buồn”. Hắn cứ thoảng lấy hơi cháo hành - hơi của tình yêu hạnh phúc
đang sắp tuột khỏi bàn tay cố níu kéo của Chí và “ôm mặt khóc rưng rức”. Đây chính là đỉnh điểm của bi
kịch tinh thần trong Chí Phèo.
c. Quằn quại trong đau khổ và tuyệt vọng.
Chí Phèo lại xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như đã dự định ban đầu (đến đâm chết
con đĩ Nở và con khọm già kia) mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn say, hắn càng thấm thía tội ác của
kẻ đã cướp đi hình người và hồn người của hắn. Chí Phèo đã vung lưỡi dao căm thù lên giết chết Bá Kiến
và quay lại tự kết liễu cuộc đời. Chí Phèo chết vì không tìm ra lối thoát, vì xã hội không cho hắn sống.

Gấp trang sách “Chí Phèo” lại, ta vẫn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi găy gắt đến tuyệt vọng của Chí:
“Ai cho tao lương thiện?”. Đó là “Một câu hỏi lớn. Không lời đáp” còn làm day dứt hàng triệu trái tim
người đọc: Làm thế nào để được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy?
Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.
Tác phẩm kết thúc, Chí Phèo Chết. Nhưng dường như hiện tượng Chí Phèo - hiện tượng hàng vạn người
nông dân lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa và khi ý thức nhân phẩm trở về
thì bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt vẫn chưa chấm dứt. Chi tiết cái lò gạch bỏ không, vắng người qua lại hiện
ra ở cuối tác phẩm khi Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng, bỗng tưởng tượng ra hình ảnh này đã nói với ta
điều gì đó.
3.Kết luận
Quá trình diễn biến tâm trạng nói trên của Chí Phèo đã làm nổi rõ bi kịch: “Sinh ra là người mà không
được làm người”. Qua đó, Nam Cao đã bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với khát vọng lương thiện trong con
người và sự bế tắc của hiện thực xã hội bấy giờ.
Đề: Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” của Nam Cao.
Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện thực phê phán
đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. Là người đến muộn, nhưng Nam Cao đã tự khẳng định mình bằng
những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến cho văn học đương thời một tiếng nói riêng đặc sắc. Hơn
8


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

năm mươi năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo ngày thêm được khẳng định, được khám phá từ những góc
độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn học Việt Nam như một tác phẩm ưu tú.
Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn nhẫn, lúc hài hòa bỡn
cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại đau đớn... cuộc sống cứ hiện lên với biết bao
tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn
sơ... mà hiện lên một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách... Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi

cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị ám ảnh không thôi bởi
tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm người. Một tiếng nói khát khao muốn trở về
lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo, và một kết thúc bi thảm đắng cay.
“Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người” đó là chủ đề xuyên suốt toàn bộ hình
tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân
đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo. Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm
Chí Phèo, Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ... của người nông
dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm
nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa,
một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng
máy thống trị bạo tàn. Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng
tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp, tập trung và
mãnh liệt hơn cả. Mở đầu tác phẩm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng
trên đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Hắn vừa đi
vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng
nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi
tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả.
Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào
không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ
hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy,
hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”. Đây là tiếng
chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức, con người lại thể hiện
chính mình nhiều hơn khi tỉnh. Qua tiếng chửi của Chí Phèo, người đọc cảm thấy như đang đối diện với
một con “người - vật” quái gỡ đơn độc ở tận cùng của sự khổ đau, đang trút lên cuộc đời - tất cả cuộc đời
- tiếng nói hằn học, phẫn uất, đầy thống khổ của mình. Và cũng qua tiếng chửi của Chí Phèo, cùng một lúc
người đọc nhận ra ba thái độ khác nhau: thái độ hằn học thù địch của Chí; thái độ khinh miệt dửng dưng
của người đời; thái độ phẫn uất thương cảm của tác giả thể hiện qua giọng văn vừa xót xa vừa tàn nhẫn.
Đằng sau một tiếng chửi vô thức của người say, hay rõ hơn, hòa nhập vào tiếng chửi vô thức ấy, là 1 tiếng
nói đầy ý thức nhân văn của nhà nghệ sĩ, tiếng nói phản kháng mãnh liệt đối với hiện thực, tiếng nói xót
xa đau đớn trước số phận bi thảm của con người. Và chính tiếng nói ấy, ngay từ trang đầu tiên đã thực sự

đánh thức tấm lòng nhân ái nơi người đọc. Và cứ thế, cuộc đời Chí Phèo, theo lời kể của nhà văn, hiện lên
dần như một cuộn phim bi thảm. Kể từ khi hắn là một đứa trẻ trần truồng và xám ngắt bên cái lò gạch cũ
bỏ không, cho đến khi hắn bơ vơ, đi ở cho người này đến người khác rồi làm canh điền cho Lý Kiến và
cuối cùng bị bắt giam vô cớ và tù tội oan uổng... Nhà văn không miêu tả thật chi tiết quá trình Chí Phèo bị
đối xử ra sao trong suốt chặng đường dài ấy, nhà văn chỉ tập trung miêu tả cái kết cục, cái hậu quả thảm
khốc của nó. Qua một kết cấu không theo trình tự thời gian - chủ yếu theo mạch dẫn dắt tâm lý của người
kể chuyện - người đọc hiểu ra: trước kia Chí vốn là người lương thiện. Chỉ sau khi ở tù về, hắn mới hoá
thành một người khác hẳn, bị tước mất cả nhân tính lẫn nhân hình với “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo
trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cong cong, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Với vẻ dường như lạnh
9


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

lùng, nhà văn viết: “Bây giờ thì hắn đã trở thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín?
Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt
người; nó là mặt một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?”. Sau khi ở tù về, hắn đã trở
thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say
triền miên. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới doạ
nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa
bao giờ hắn tỉnh táo để nhớ rằng hắn có ở đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỉ dữ của làng
Vũ Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao
nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương
thiện... Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”… Đoạn văn chất chứa biết bao nỗi
thống khổ của một thân phận đã không còn được sống cuộc sống của một con người. Những năng lực vốn
có của con người - năng lực cảm xúc, ý thức - hầu như bị tiêu hủy, chỉ còn lại một năng lực đâm chém,
phá phách. Bị đối xử tàn bạo. Chí Phèo đã phản kháng lại bằng sự bạo tàn. Đó là “sự phẫn nộ tối tăm” như
Lênin đã từng nói. Trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã chỉ ra rằng Chí Phèo không phải là một ngoại

lệ. Cùng với hắn còn có Binh Chức, Năm Thọ. Đó là kết quả tất yếu của một lôgic: một khi đã có Bá
Kiến, Lý Cường, Đội Tảo… thì ắt là sẽ có Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức. Đó không phải chỉ là sản
phẩm của sự thống trị mà thậm chí còn là một phương tiện tối cần thiết để thống trị. “Không có những
thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò”. Chính Bá Kiến đã rút ra kết luận quan trọng ấy. Như
thế, xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi dưỡng Chí Phèo, biến những con người như Chí
Phèo thành một công cụ thống trị của chúng. Nguy cơ và thảm hại thay, những người nông dân vốn lương
thiện, bị huỷ hoại về nhân cách, bị biến thành công cụ, phương tiện thống trị cho kẻ thù mà không tự biết.
Đúng như nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã nói: “Khi Chí Phèo ngất ngưởng bước ra từ những trang
sách của Nam Cao thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ tủi
nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị huỷ hoại, từ nhân tính đến
nhân hình. Chị Dậu bán chó, bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả
diện mạo và linh hồn của mình để thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại”. Chỉ ra hậu quả thảm khốc của sự
bạo tàn, lên tiếng chất vấn và tố cáo gay gắt sự thống trị bạo tàn, nhà văn đã soi sáng vào quá trình miêu tả
một cảm hứng nhân văn sâu sắc.
Nhưng điều đặc sắc và đáng quí hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa
đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần
một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị
Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy, kỳ diệu thay, lại là
nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo, thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí
Phèo, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao ngày tháng bị vùi dập, hắt hủi. Sau cuộc gặp gỡ ngắn
ngủi với Thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng
chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những
âm thanh ấy bao giờ chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn, trong cái phút tỉnh táo
ấy, Chí Phèo như đã thấy tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc - cái này còn sợ hơn đói rét và ốm
đau. Cũng may Thị Nở mang bát cháo hành tới. Nếu không, hắn đến khóc được mất…Nhìn bát cháo bốc
khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng. “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị
như làm nũng với mẹ…Ôi sao mà hắn hiền! Hắn thèm lương thiện - Hắn khát khao làm hòa với mọi
người”…Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ 2 tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở
lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có của con người: thương yêu, cảm xúc, ao ước…Té ra, chỉ
cần một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí…cũng

đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết
10


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

chừng nào! Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ - Nhà văn
như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí
Phèo… Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo.
Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính
người nơi Chí trỗi dậy, cũng là lúc Chí hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội
đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả
của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ… đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc
đời. Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi người được nếm trải chút ít hương vị làm người thì cái xúc cảm
người sẽ không thể mất… Đấy là mối bi thảm tột cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”.
Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về
quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con
người! Đó là giá trị nhân văn đặc sắc khiến cho tác phẩm Chí Phèo luôn luôn mới.
Đề: Anh (chị) hãy phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.
A. MỞ BÀI
1. Giới thiệu khái quát về Nam Cao (1915 - 1951)
2. Hoàn cảnh, xuất xứ của “Chí Phèo”
3. “Chí Phèo” trở thành một kiệt tác chính là nhờ ở giá trị nhân đạo vừa sâu sắc, vừa độc đáo, mới
mẻ của tác phẩm.
B. THÂN BÀI
1. Giải thích khái niệm
Giá trị nhân đạo là một trong hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình phát triển của văn học Việt
Nam, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ đau của con người, sự nâng niu, trân trọng

những nét đẹp trong tâm hồn con người; đồng thời tác phẩm cũng đã đứng về phía các nạn nhân mà lên án
những thế lực tàn bạo chà đạp lên hạnh phúc, quyền sống và phẩm giá của con người.
2. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chí Phèo”
Trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao đã dành cho người nông dân mà ông từng gắn bó những tình
cảm nhân đạo rất sâu sắc và rộng lớn.
1. Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở đây trước hết được biểu hiện ở chỗ đã khám phá ra nỗi khổ bị
đày đọa, lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người của người lao động lương thiện. Nam Cao bày tỏ niềm
cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đó.

11


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

2. Qua tấn bi kịch và số phận bi thảm của Chí Phèo, Nam Cao đã cất lên tiếng kêu cứu thảm thiết và
đầy phẫn uất cho người lao động lương thiện: Làm thế nào để cho con người được sống một cuộc sống
xứng đáng trong cái xã hội vùi dập nhân tính ấy; hãy tiêu diệt hoàn cảnh phi nhân tính, hãy làm cho hoàn
cảnh trở nên nhân đạo hơn.
3. Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao trong tác phẩm “Chí Phèo” còn thể hiện qua thái độ lên án gay
gắt những thế lực tàn bạo đã gây nên tấn bi kịch đau thương cho người lao động (bọn thống trị độc ác; nhà
tù thực dân; những thành kiến, định kiến vô nhân đạo).
4. Tư tưởng nhân đạo đặc sắc, độc đáo của Nam Cao ở đây còn được thể hiện ở thái độ trân trọng,
nâng niu những nét đẹp người nông dân. Cao hơn nữa, nhà văn còn khám phá ra những phẩm chất lương
thiện của họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng như u mê, cằn cỗi.
a. Những vẻ đẹp ở Chí Phèo
- Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện. Dù nghèo khổ nhưng sống trong tình yêu thương sự
chắt chiu, đùm bọc của dân làng vũ đại.
+ Khỏe mạnh về thể xác (anh canh điền khỏe mạnh).

+ Lành mạnh về tâm hồn: “Một thằng hiền như đất”. Giàu lòng tự trọng, biết “không thích cái gì
người ta khinh”; biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và cảm giác nhục dục thấp hèn. Những lần “bà
ba, cái con quỷ cái” bắt hắn làm những việc không chính đáng “hắn thấy nhục, chứ yêu đương gì”.
+ Hắn đã từng mơ ước rất bình dị: “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải”, nuôi một con lợn để làm vốn liếng. “Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
- Bị nhà tù xã hội thực dân phong kiến biến Chí thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, nhưng dưới đáy
sâu tâm hồn hắn vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm.
+ Khát khao tình yêu hạnh phúc lứa đôi: biết yêu thương, biết “say sưa”, “rưng rưng” và “bẽn lẽn”
nhận ra hương vị cháo hành “Trời ơi mới thơm làm sao!”. Đó là hương vị của tình người, của tình yêu
chân thành, của hạnh phúc giản dị và thấm thía lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng. Chí Phèo muốn được
sống với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Và khi bị “cắt đứt mối tình”, Chí biết tiếc, biết
buồn, biết khóc vầ uất ức, giận dữ.
+ Khát khao được làm người lương thiện. Chí Phèo “muốn được làm người lương thiện”! “Trời ơi!
Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. “Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn
thì sao người khác lai không thể được. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng… của những người
lương thiện”. Điều đó đã có lúc khiến Chí Phèo hồi hộp hi vọng.
12


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

+ Có tinh thần phản kháng: Khi bị Thị Nở cự tuyệt và nhận ra mọi ngỏe đường trở lại xã hội loài
người bị chặn đứng, Chí Phèo đã đến thẳng nhà Bá Kiến, vung lưỡi dao căm hờn lên giết chết Bá Kiến kẻ thù khủng khiếp đã cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính của Chí để đòi quyền làm người lương thiện của
mình. Sau đó Chí Phèo đã tự sát vì tuyệt vọng, vì Chí không muốn sống tăm tối, tủi nhục như kiếp sống
thú vật nữa.
Dựng lên một hình tượng người nông dân bị tha hóa, “một con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, Nam Cao
không hề có ý định bôi nhọ người nông dân, trái lại đã dõng dạc khẳng định nhân phẩm của họ, trong khi
họ đã bị rách nát cả hình hài lẫn tâm hồn. Điều đó chứng tỏ con mắt nhân đạo của Nam Cao rất sâu sắc,

mới mẻ và “tinh đời”.
b. Những vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở
- Tư tưởng nhân đạo độc đáo và mới mẻ của Nam Cao trong tác phẩm “ Chí Phèo” còn được biểu
hiện ở việc phát hiện ra vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở.
+ Dưới ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành người phụ nữa rất giàu tình thương. Đằng sau cái
bề ngoài xấu xí và tính khí “dở hơi” còn ẩn chứa một trái tim nhân hậu. Khi Chí Phèo bị ốm, Thị Nở đã
chăm sóc tận tình… Với bàn tay dịu dàng, ấm nóng nhân tình của người phụ nữa, Thị đã mang đến cho
Chí một bát cháo hành còn “bốc khói”. Chính bát cháo hành ấm nóng tình người ấy đã đánh thức dậy nhân
tính của Chí Phèo.
+ Cũng như những người phụ nữ khác, Thị Nở rất khao khát tình yêu và hạnh phúc. Cuộc gặp gỡ của
hai kẻ khốn khổ đã tạo nên sự đồng cảm và Thị Nở đã yêu Chí Phèo, ước ao được sống chung với Chí.
Tình yêu đã làm cho người đàn bà “xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn” ấy biến đổi một cách kì diệu: “Trông thị
thế mà có duyệt. Tình yêu làm cho có duyên”. Phát hiện ra điều đó chứng tỏ cái nhìn nhân đạo của Nam
Cao có chiều sâu hiếm có.
C. Kết luận
“Chí Phèo” là một tác phẩm có giá trị nhân đạo vừa sâu sắc, vừa độc đáo, mới mẻ. Giờ đây, nền văn học
Việt Nam đã bước sang thiên niên kỉ mới, nhìn lại chặng đường đã qua, “Chí Phèo” của Nam Cao vẫn
được xếp và hàng kiệt tác trước hết là ở giá trị nhân đạo sâu sắc, độc đáo đó.

Đề: Phân tích giá trị nhân đạo của Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo.
Nam Cao được biết đến trong lịch sử văn học VN là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Ổng để lại
nhiều tác phẩm văn học có giá trị trên cả hai đề tài về người trí thức tiểu tư sản và người nông dân nghèo.
13


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

Nhưng tên tuổi của ông vẫn gắn liền với tác phẩm Chí Phèo- Một kiệt tác của NC, một tác phẩm mang

đậm giá trị nhân đạo sâu sắc, đồng thời cũng phê phán cái xã hội thối nát bấy giờ.
Xây dựng nên hình tượng người nông dân bị tha hóa trong xã hội thực dân trước Cách mạng tháng
Tám là một sáng tạo mới trong nền văn xuôi nước nhà nói chung và của Nam Cao nói riêng. Nhà văn đã
cảm nhận được cái vẻ đẹp chất phác, bình dị ẩn chứa trong cái vẻ bề ngoài thô ráp, xù xì của họ, mà tiêu
biểu là nhân vật Chí Phèo- một điển hình nghệ thuật về người nông dân bị xô đẩy chà đạp đến mức tha
hóa. Chí không may mắn khi được sinh ra trong một gia đình không đàng hoàng, không cha không mẹ,
không một tấc đất cắm dùi. Có một hoàn cảnh sống tội nghiệp, nhưng Chí lớn lên khá khỏe mạnh, hiền
lành, lương thiện,… Có một ước mơ giản dị như bao người nông dân khác: một gia đình nhỏ, chồng cày
cấy, vợ dệt vải… Vốn từng mang trong mình bản chất của một con người đúng nghĩa, Chí phân biệt được
đúng sai, tốt xấu qua hành động bóp chân cho bà Ba- “Hắn cảm thấy nhục hơn là thích”. Sống ở một cái
xã hội bình thường, người như Chí hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện yên ổn. Nhưng cuộc đời
nào có hai chữ “bình lặng”…Bằng ngòi bút lạnh lùng nhưng đa cảm, Nam Cao đã cho thấy tất cả nỗi
thống khổ ghê gớm của nhân vật Chí Phèo . Nỗi thống khỏ đó không phải là không cha không mẹ, không
nhà không của, không họ hàng thân thích… mà chính là Chí Phèo bị xã hội vằm nát của cả bộ mặt người,
cướp đi lình hồn người phải sống kiếp sống tối tăm của con vật lạ. Đó là nỗi thống khỏ của cá thể sinh ra
là hình hài của một con người nhưng lại không được làm người và bị xã hội từ chối, xua đuổi. Tình trạng
bi thảm này được tác giả mình chứng cho đoạn mở đầu giới thiệu một chân dung, một tính cách “hấp
dẫn”, vừa hé cho thấy một số phẩn bi đát. Dù say rượu đến điên khùng, Chí Phèo vẫn như cảm nhận thấm
thía”nông nỗi” khốn khổ của thân phận mình. Anh chửi trời, chửi đời rồi chuyển sang chửi tất cả làng Vũ
Đại, cuối cùng ảnh chửi cái thằng cha con mẹ nào đẻ ra thằng Chí Phèo. Không ai chửi lại vì rất đơn giản
là không ai coi anh như là một con người. Nam Cao có vài cái nhìn đầy chìu sâu nhân đạo khi đi vào nội
tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của những con người khốn khổ. Chí Phèo
đến với Thị Nở trong một đêm say rượu. Như điều kì diệu là TN không phải chỉ khơi dậy bản năng ở gã
đàn ông say, mà lòng yêu thương mộc mạc, chân thành, sự chăm sóc giản dị của người đàn bà xấu xí, vô
duyên và ngớ ngẩn ấy đã làm thức tỉnh Chí Phèo. Trong tâm hồn tưởng chừng như đã chai sạn, thậm chí
bị hủy hoại của Chí Phèo, phần lương thiện ngày thường bị lấp đi vẫn le lói một ánh sáng lương tri, sẽ
bừng sáng lên lúc gặp cơ hội. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, anh bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng đập
mái chèo đuổi cá , tiếng cười nói của những người đi chợ, thì niềm ao ước một gia đình nhỏ lại trỗi dậy
trong lòng anh sau những tháng ngày dài chìm trong cơn say khướt. Nam Cao đã phát hiện ra ngọn đóm
đỏ đăng hắt hiu le lói, việc cuối cùng là cho nó chút mồi để nó bùng lên. Nhưng còn đường đời của Chí lại

bị chắn đứng lại. Bà cô của TN – Nhân vật đại diện cho suy nghĩ của dân làng Vũ Đại đã nhất quyết
không cho cháu mình đi lấy một “thằng chỉ có nghề là rạch mặt ăn vạ”. Cánh cửa quay về lương thiện đã
đóng xập trước mặt Chí. Đau khổ CP phải cất lên tiếng thét “Tao muốn làm người lương thiện…”, “Ai
cho tao lương thiện?..” Chí đã nhận thức được bản chất con người của mình thì không còn nguyên cớ nào
lại có thể biến anh sống trở lại kiếp quỷ dữ, không thể tiếp tục rạch mặt ăn vạ, giết người đốt nhà. Chí đã
đâm chết bá kiến và tự kết thúc cuộc đời mình. Đó là một kết cục bi thảm nhất, đồng thời cũng là chiếc
chìa khóa giải thoát CP khỏi kiếp đời trớ trêu, cái kiếp số muốn sống như một con người nhưng không thể
được. Chính cái xã hội thối nát thời bấy giờ đã tạo ra những sản phẩm như Chí Phèo-hình ảnh tiêu biểu
của người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tôi lỗi dần dần bị tha hóa về thể xác lẫn
tâm hồn. Mà đại diện cho giai cấp thống trị chính là Bá Kiến-một tên cường hào cáo già trong nghề thống
trị dân đen, được khắc họa qua những chi tiết ngoại hình độc đáo, từ “giọng nói rất sang”, lối nói ngọt
ngào đến cái cười Tào Tháo…Vì sự hờn ghen vớ vẩn của hắn đã đẩy Chí vào con đường tù tội. Chốn lao
ngục ấy của bọn thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào thâm độc để giết chết phần người trong Chí Phèo,
14


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

biến Chí thành Phèo, biến người nông dân lương thiện thành quỷ dữ. Sự tha hóa ấy không chỉ có Bá Kiến,
nhà tù thực dân gây ra, mà còn những người dân sống ở làng Vũ Đại mà tiêu biếu nhất là bà cô của TNCon người đã tạo ra bức tường vô hình ngắn cách Chí đến với cuộc sống đích thực của một người lương
thiện. Kết thúc câu truyện là một tình tiết đầy ngụ ý, biết đâu lại chẳng có một “CP con” bước ra từ cái lò
gạch cũ vào đời để “nối nghiệp bố”. Hiện tượng Chí Phèo chưa thể hết khi xã hội tàn bạo vẫn không cho
con người được sống hiền lành, tử tế, vẫn còn những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu
manh, tội lỗi. Sức mạnh của tác phẩm là vạch ra được cái quy luật tàn bạo, bi thảm này trong cái xã hội tối
tăm của nông thôn nước ta thời đó.
Tác phẩm Chí Phèo mạng đậm giá trị nhân đạo đặc sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương của NC đối
với những người khốn khổ. Chí Phèo còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh. Hãy bảo vệ
và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện.

Đề: Cảm nhận của anh (chị về) tấn bi kịch của nhân vật chí phèo trong truyện ngắn cùng tên của
nhà văn Nam Cao
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học
hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh
Pha,... Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phấm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng. Trong đó nối lên hình tượng Chí Phèo trong tác phấm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã đế lại
trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo.
Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi
mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không
chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể
đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hon nữa, đây không phải là lần đầu tiên
hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của
Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không
tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa - hắn anh ta phải có nỗi niềm
khố đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng
nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian
này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi
thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói
trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc
cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy
đụp thì những người nông dân nghèo khố đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một
bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí
phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khố và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng
khác chi một thử cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người
nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người
buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hon phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đấy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng
kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỉ cái” của lí Kiến cứ

bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt
được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị
15


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người
nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị
Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân
vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ
của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.
Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho
tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỉ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỉ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo
trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị - bản chất của hắn năm xưa
đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để
bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với nhũng người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu
manh của Chí thể hiện cụ thế ngay trong nhừng hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt
quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng... Hắn càng ác và đáng sợ hon khi rơi vào tay bá Kiến rồi
trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm
tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người
nông Việt Nam trước Cách mạng. Neu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đòi sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực
nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,... Nhưng cái mới của Nam
Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà,
lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại
làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi

con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết
hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi
bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt
trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy
đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng
khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh
dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại
và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thế khôi phục,
chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau
khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tụ’ ý thức về mình. Chí Phèo sống
lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn
nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng
những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có?
Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống.
Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ưót nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn
muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông,
Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật
hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mất và
nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở:
“Cứ thế này mãi thì thích nhỉ... hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về
thế giói người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị
Nở sẽ mở đường cho hắn".
16


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI


Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đòi trôi nổi,
tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế.
Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời
mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có
thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó
hơn.
Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị
không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô
Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỉ
dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi
kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng
tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi,
còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn
cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến.
Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và họp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để
lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức
sâu xa như một tất yếu. Đen nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ
ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai
cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là
“Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm
thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm
tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.
Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thế hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện
thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân
nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa
là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác.
Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của
Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.
Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân

tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong
kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan bởi bản thân nhũng người nông
dân cùng cảnh ngộ lại quay lung vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu
biếu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuối, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự
chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hon?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao
còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Ket
thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ”
hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo
được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt
bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong
miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông
sâu sắc đối với nhũng kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha,
lão Hạc,... hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và
cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân

17


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn hạnh phúc
mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.
Dàn ý: PHÂN TÍCH BI KỊCH BỊ CỰ TUYỆT QUYỀN LÀM NGƯỜI CỦA CHÍ PHÈO
1. Giới thiệu chung về tác phẩm: ( như các dàn ý trên)
2. Phân tích tâm trạng bi kịch của Chí Phèo sau khi bị cự tuyệt
-Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã đưa Chi trở về kiếp người một cách tự nhiên. Chí hi vọng bàn tay nhăn nhúm
của người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, nhưng giàu tình thương ấy sẽ là cầu nối đưa Chí trở về kiếp người

một cách tự nhiên. Nhưng Thị Nở vốn tính dở hơi, sau năm ngay yêu nhau, Thị nhủ hãy tạm ngừng yêu đi
để về hỏi ý kiến cô Thị đã.
- Nguyên nhân : vì bị bà cô cấm đoán nên Thị ruồng bỏ Chí, người đàn bà xấu đến thế còn có thể từ chối
Chí thì dường như con đường quay lại kiếp người của Chí đang ngày càng trở nên mơ hồ, mong manh, có
lẽ xã hội ko còn ai đón nhận linh hồn vừa trở về của Chí (Định kiến của bà cô cũng là định kiến của cả xã
hội đương thời, ko cho Chí cơ hội đc lm người).
* Diễn biến tâm trạng CP sau khi bị cự tuyệt:
- Chí ngạc nhiên, thừ người ra, thất vọng trước những lời lẽ cay nghiệt của bà cô phát ra từ miệng Thị, bởi
lẽ trước đó họ còn yêu nhau lắm. Chí cũng nhận ra con đường trở về vs kiếp người của mình đang trở nên
mong manh quá. Nhưng Chí vẫn chưa tuyệt vọng. Chí dung hi vọng cuối cùng để níu lấy tay Thị, nhưng
Thị lại đẩy hắn ngã dúi, bỏ lại hắn một mình trong cái hố sâu thăm thẳm của bong tối và cô đơn.
- Chí đau đớn và tuyệt vọng:
+ Nhưng hắn vẫn hít đc hơi cháo hành. Hắn muốn uống rượu cho thật say để rạch mặt, để ăn vạ, nhưng
“càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn!”
+ “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” càng thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. - Phẫn uất, Chí xách dao
đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đam chết con “khọm già”, con “đĩ nở” nhưng sự
thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của CP dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến.
Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi
khốn cùng này chính là BK.
+ Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyến làm
người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. - Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức
tỉnh, đòi quyền làm người:
+ “ Tao muốn làm người lương thiện”
+ “ Ai cho tao lương thiện?” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất
chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.
• Chí giết Bá Kiến và tự sát trên con đường trở về làm người lương thiện.
3. NDTT và ĐSNT:
- Cái chết của Chí Phèo là bản án tố cáo xã hội thực dân nửa phong , một cuộc sống mà trong đó, con
người muốn sống lương thiện cũng không được.
18



Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

- Xây dựng và điển hình hoá nhân vật.
- Miêu tả , phân tích tâm lí nhân vật.
- Ngôn ngữ sống động, gắn với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
- Giọng điệu phong phú, có sự đan xen lẫn nhau.
- Cốt truyện hấp dẫn, kịch tính và đầy bất ngờ.
- Kết cấu truyện độc đáo
Đề bài: Phân tích bức chân dung những nhân vật biếm họa trong đoạn trích Hạnh phúc của một
tang gia trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. Ông vua phóng sự đất Bắc liền cho ra đời năm tác
phẩm lừng danh: "Giông tố", "Số đỏ". "Làm đĩ", “ Vỡ đê”, “Số đỏ”. Trong đó nổi bật nhất là tác phẩm
“Số đỏ” với đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”. Tác giả đã phơi bày sự đồi bại, lố lăng trong cái gia
đình thượng lưu ở Hà Thành và vạch trần những quái thai của cái xã hội dở Ta dở Tây buổi trước CMT8.
Bố chết, ông chết "bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thỏa thích". Đây là dịp hiếm có để khoe
của, kheo giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. "Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi
phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân… Niềm vui tràn ngập:” tang gia ai cũng vui vẻ cả”.
Người con trai cả – cụ cố Hồng – hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt.
Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 cậu gắt: "Biết rồi, khổ
lắm, nói mãi”. Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ "nhắm nghiền mắt lại để mơ màng " đến cái giờ
phút hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải
trầm trồ:" một cái đám ma như thế một cái gậy như thế”, rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: “úi giời, con giai nhớn đã
già đến thế kia kìa.,.". Con trai đã "báo hiếu" cha như vậy! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa
đọa, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.
Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng, Văn Minh đi
Tây du học 6-7 năm mà chẳng có môt "mảnh bằng nào cả" về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò

"Âu hóa" nhằm "phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp". Ông nội chết, đứa cháu quý hóa này nhăm
nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài, thích thú ra mặt vì "cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không
còn là lí thuvết viển vông nữa". Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách "mấy cái
máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến". Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn
cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách "chống gậy", "gục đầu", "cong lưng”, "lau mắt",
như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y "luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng" như một tên hề!
Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt kê, châm biếm sâu cay cái rởm đời của
bọn thượng lưu tha hóa. Một đám ma to tát "một đám ma gương mẫu" nhưng chẳng qua là một đám rước
xách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoẻng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối,
vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù "theo cái lối Ta Tàu, Tây”. Bởi thế nên bầy con
cháu thì hạnh phúc, còn "người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật cái
đầu…". Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kì sắc sảo, độc đáo trong nghệ
thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng. "Có bao đám quan khách" quý phái và “ sang trọng" đến đưa ma
cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là '"giai thanh gái lịch", là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan… Họ đến đưa
ma là để "cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau…". Bọn mày râu, bạn của cụ cố
19


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

Hồng đến đưa tang để khoe mẽ "ngực đầy những huy chương" của "nước mẹ" hay của bọn bù nhìn ban
phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả "Số đỏ" đã sáng tạo nên những chi tiết, những
ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thần tình. Trên mép và cằm các
ông trưởng giả khoe tài khoe đức ấy "đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung hoặc
lún phún hay rầm rạp, loăn quăn,…". Người đọc phải ôm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu
ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hóa vô luân!
Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp "phục bút" khi tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ
“ ngây thơ” để đi mời trầu và thuốc lá quan khách với "vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám".

Cô vô cùng sung sướng khi thấy "anh Xuân" đã đến bèn "liếc mắt đưa tình … để tỏ ý cảm ơn” Xuân Tóc
Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với 6 chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, với sư cụ Tăng Phú,
hai vòng hoa lớn… đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: "Ấy, gía mà không có món ấy thì là thiếu chưa
được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!". Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám
ma cụ cố Tổ trở nên "danh giá nhất tất cả”.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán "mọc sừng" vốn đã nhờ "đôi sừng hươu" ấy mà được bố vợ chia
cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: "Hứt!… Hứt!.. Hứtỉ…" để báo hiếu vẫn không quên
giữ chứ "tín" với ân nhân. Ông ta đã "dúi vào tay" Xuân “ một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư". Cuộc mua bán
hay trả nghĩa diễn ra song phẳng và kín đáo quá! Xuân và ông Phán "mọc sừng" như một cặp bài trùng,
hai diễn viên hài siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch "đám ma
gương mẫu". Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn "thượng lưu", đã lên tới độ vô liêm
sỉ quá ghê tởm. Những con người ‘ chó đểu" trong cái xã hội “chó đểu" là như thế đó!
Tóm lại. qua chương "Hạnh phúc của một tang gia", Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể
chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả "Số đỏ" là đã phóng đại những bức chân
dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho người ta cười mà
thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó. Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã
lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả ! Tiếng cười trong "Số đỏ" là tiếng cười châm biếm có giá trị tố
cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con
cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc "Âu
hóa” kệch cỡm.
Đề: Phân tích chân dung những nhân vật biếm họa trong đoan trích Hạnh phúc của một
tang gia trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Ở đời, có mấy ai là “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, huống chi đó lại là
cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng sinh thành, thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được?
Thế mà kỳ lạ và mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh
phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…! Viết về cái “tang gia” “hạnh
phúc” trong tiểu thuyết của mình, nhà văn của “rừng cười nhiệt đới” đã dùng ngòi bút sắc sảo của mình để
vẽ nên chân dung những nhân vật biếm họa – lố lăng, hợm hĩnh nhưng cũng thật đồi bại, bất nhân.
Quả thật, chỉ riêng sáu chữ Hạnh phúc của một tang gia thôi cũng đã cô đặc trong đó những cái bất
thường và những mâu thuẫn trào phúng của toàn bộ màn hài kịch hoành tráng mà các nhân vật Số đỏ đang

diễn trong chương này. Mất người thân là mất mát không gì bù đắp được, nỗi buồn của tang gia thường
20


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

được xem là nỗi buồn sâu sắc nhất – thành ngữ dân gian thường ví von “buồn như cha chết”, “buồn như
nhà có đám”; còn chủ nhân những nhà có đám tang thường được xem là “khổ chủ” – cho nên, hai chữ
tang gia thường gợi lên cả một cộng đồng gia đình khổ đau, bất hạnh. Nhưng cái tang gia này thì lại
không thế: Cả tang gia ai cũng hạnh phúc, vui sướng. Niềm hạnh phúc, vui sướng toát ra từ không khí và
bức tranh toàn cảnh của đám tang, đặc biệt là những nhận xét, những lời bình, lời kể hài hước của tác giả,
kiểu như “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm” hay “tang gia ai cũng vui vẻ cả”, “người ta
tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê kèn đám ma”,… được sử dụng khá dày đặc trong đoạn trích.
Niềm hạnh phúc, vui sướng của tang gia, khi thì lộ liễu, khi lại kín đáo, toát ra từ từng khuôn mặt
khôi hài, tạo thành những bức biếm họa độc đáo. Ông Phán-mọc-sừng, ông cháu rể “quý hóa” của “người
chết” thì sung sướng vì với sự giúp đỡ của Xuân Tóc Đỏ, kế hoạch tận dụng sự hoang dâm tai tiếng của
vợ ông làm vũ khí “đào mỏ”, đã thành công mỹ mãn không ngờ. Nhờ có cái “chết thật” của ông nội vợ mà
ông cháu rể này “đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là
vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng “không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại
to đến như thế”. Cụ cố Hồng, ông con trai trưởng “chí hiếu” của “người chết” thì sung sướng đến ngây
ngất, vì nhờ cái “chết thật” của cha mình, nhờ có đám tang này mà cái danh giá sang trọng của ông sẽ
được nâng lên nhiều bậc. Cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ
chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: – Úi kìa, con giai nhớn đã già đến
thế kia kìa!”. Và, “cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái
gậy như thế…”. Văn Minh (chồng), ông cháu đích tôn “chí hiếu” của “người chết” thì chỉ nóng lòng “mời
luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi”. Ông sung sướng, vì nhờ cái “chết thật” của ông nội
mình mà “cái chúc thư” chia của kia sẽ có hiệu lực thật sự “chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”.
Rồi, cậu Tú Tân sung sướng vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mà sắp được dùng đến mấy cái máy ảnh

mới mua; Văn Minh (vợ) sung sướng bởi sắp được chưng diện mốt tang phục mới; ông Typn sung sướng
bởi được báo chí lăng xê các mẫu thời trang mà ông dày công thiết kế cho đám tang, v.v. Con cháu trong
nhà, mỗi người một niềm hạnh phúc riêng đã đành, ngay đến các ông cảnh sát Min Đơ, Min Toa cũng nhờ
cái “chết thật” của cụ tổ mà được thơm lây: họ “sung sướng cực điểm”, “vì được có đám thuê”, “đã trông
nom rất hết lòng”. Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng
trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội
Phật giáo…” Cụ bà thì “sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đám, phúng viếng đến
thế, và đám ma như thế kể đã là danh giá nhất tất cả”. Đó là chưa kể, các “giai thanh gái lịch” Hà thành,
nhờ có đám tang mà được “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông
nhau, hẹn hò nhau,…”; các quý ông “tai to mặt lớn” thì được dịp phô diễn râu ria đủ kiểu trên cằm trên
mép, khoe huân chương, huy chương đủ hạng trên ngực, trên mình v.v. Thậm chí, đến cả “cụ tổ” cũng nhờ
cái “chết thật” của chính mình mà được sung sướng: “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người
chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”
Nỗi sung sướng, hạnh phúc bất thường, kỳ dị, thậm chí quái gở này, qua ngòi bút Vũ Trọng Phụng,
như có sức lây lan rất rộng, rất sâu: từ người bề trên đến người bề dưới, từ người trong tang gia đến người
ngoài tang gia, từ “khổ chủ” đến khách “đi đưa” đám, từ người sống đến “người chết”. Nó lại được duy trì
bền bỉ đậm đặc từ hết trang nọ tới trang kia theo diễn biến của đám tang, từ lúc “phát phục” đến khi “cất
đám”, “đưa đám”, và đến cả khi “hạ huyệt”. Xem thế đủ thấy niềm hạnh phúc mà cái chết kia mang lại
thật là vô bờ bến và niềm sung sướng đúng là không còn bỏ sót ai. Vũ Trọng Phụng quả là người thích
đùa và rất biết đùa.

21


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

Trong đám ma, niềm vui là thật, nỗi buồn là giả, cũng có nghĩa rằng cái đám ma kia tất cả là giả.
Cái khó của nhà văn là phải lật tẩy sao cho người ta thấy rõ cái giả ấy đã đành mà còn phải thấy cả tính

chất lập lờ giữa cái giả với cái thật. Nhưng rốt cuộc thì rồi chân tướng thật, giả cũng đến lúc phải tự phơi
bày. Một đám ma mà thiếu sự buồn đau và lòng thương tiếc chân thành, thì dù “to tát”, “danh giá” đến
đâu, cũng chỉ là thứ trò diễn nhố nhăng, không thể gọi là đám ma đã đành mà cũng không thể gọi là đám
rước đám hội. Mâu thuẫn thật-giả được nhà văn khai thác khá triệt để nhằm phóng to cái bất thường, kỳ dị
làm bật ra tiếng cười phê phán. Quả thật, trong cái xã hội “số đỏ” đầy rẫy những thứ rởm đời bấy giờ,
không có cái gì là không làm giả, làm rởm được. Tuy nhiên, dưới ngòi bút tinh tường, sắc sảo của nhà
văn, tất cả, cuối cùng, sự thật đã trở lại đúng với bản chất của nó. Câu văn mở đầu đoạn trích hàm chứa
một sự đối chiếu thật – giả rất thâm thúy: “Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.”. Nhìn từ phía tác giả, câu
văn này ẩn giấu một nụ cười châm biếm (chết mà cũng có “chết thật”, chết giả?). Nhìn từ phía nhân vật
(đám cháu con chí hiếu) nó ẩn giấu một tiếng reo mừng. Cụ tổ hẳn đã có những phen “chết giả” làm cho
đám cháu con kia hụt hẫng thất vọng, và cả tang gia đã chờ đợi cái “chết thật” này quá lâu rồi. Cho nên,
khi ông cụ “chết thật” thì người ta tất phải vui sướng hạnh phúc tột cùng. Và, tang gia “ai cũng” “hạnh
phúc”, “vui vẻ cả”…, nhận xét này đã vang lên trong chương truyện như là một điệp khúc đầy mỉa mai.
Mỉa mai hơn, trong khi “đưa đám” người ta cũng thoáng thấy đây đó những gương mặt buồn, nhưng buồn
hoàn toàn là vì những cớ khác. Ông Văn Minh có vẻ mặt “đăm chiêu” buồn là vì ông mải nghĩ đến việc
“thực hành” cái “chúc thư kia”. Tuyết buồn “lãng mạn” là vì “không thấy bạn giai đâu cả”. Các quí ông
“tai to mặt lớn” cảm động không phải vì nghe “tiếng kèn Xuân nữ ai oán não nùng”, mà vì trông thấy “làn
da trắng thập thò” trên cánh tay và trên ngực tuyết,… Lúc hạ huyệt, người ta cũng nghe thấy có tiếng
khóc. Nhưng chỉ là tiếng khóc nhằm thu hút sự chú ý của mọi người, không phải xuất phát từ trái tim, cất
lên từ đáy lòng. Cụ Hồng khóc là cốt để người ta phải chú ý đến và khen cái gậy trong tay cụ và trầm trồ
khen rằng “con giai nhớn đã già đến thế kia”. Ong Phán mọc sừng khóc “Hứt…! Hứt…! Hứt…!”, “oặt cả
người đi” là cốt để người ta phải tưởng rằng, ông là một chàng cháu rể “quý hóa”. Trong khi kể về “hạnh
phúc” của “tang gia”, một mặt, tôn trọng hiện thực, Vũ Trọng Phụng cố tình tạo ra sự mập mờ giữa cái
thật và cái giả đúng như cái hiện thực xã hội vốn có: vàng thau lẫn lộn, đen trắng mập mờ. Cả đám tang
thực ra chỉ là một màn kịch, một trò diễn lớn, được dàn dựng theo đúng ý của người nọ người kia. Các
cụm từ “đúng với ý muốn…”, “như ý…” trong đoạn văn sau được dùng rất ý vị nhằm lật tẩy tính chất trò
diễn ấy của đám ma: “Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố
Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu hoá như ý ông Typn và bà
Văn Minh.”,… “Ý muốn của cụ cố Hồng”, “ý ông Typn và bà Văn Minh” gợi nhớ đến ý của cậu Tú Tân
qua hành vi: “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau nước mắt

như thế này, như thế nọ,… để cậu chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt.”. Vũ Trọng Phụng như nhà nhiếp ảnh đã
“bấm nút’ đúng lúc- và lật tẩy được tất cả.
Từ cách bố cục kếu cấu đến cách sử dụng ngôn từ của ông đều đậm chất muối trào phúng. Việc kết
hợp tả viễn cảnh với cận cảnh mang tính nghệ thuật cao nhất là đoạn kể về việc “cất đám”, “đưa đám” và
“hạ huyệt”. Ở đó, sự kết hợp tự nhiên giữa cận và viễn rất hài hòa, tự nhiên: “Đám ma đưa đến đâu làm
huyên náo đến đấy….”, “Đám cứ đi…”, “Đám cứ đi…”- thường làm cho người ta có cái cảm giác là đám
ma rất to tát, linh đình, “gương mẫu”. Trong khi đó, các câu, đoạn tả cận cảnh và đôi khi đặc tả, thì lại làm
cho người ta có thể soi vào từng góc khuất, hay hành vi, chi tiết nhỏ nhất để thấy hết cái giả dối, rởm đời,
nhố nhăng, kỳ quặc và “vô nghĩa lý” của cái đám tang này: “Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le
sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới
may.”, hoặc: “Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm
đồng gấp tư…”. Vậy là, nhìn từ cự ly gần, thật gần nhà văn đã lật tẩy cái giả, cái thực chất chứa đựng và
22


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

được che đậy ở bên trong của nó: sự bất hiếu, bất nghĩa và thói đạo đức giả. Tiếng cười đã bật ra, rất tự
nhiên, từ mâu thuẫn thật- giả này. Bên cạnh việc kết hợp giữa miêu tả viễn và cận cạnh, nhà văn còn sử
dụng hợp lý kỹ thuật tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện. Chẳng
hạn, sau khi ông già “chết thật”, đã “được quan trên khám đã qua loa”, niềm vui của đám cháu con tưởng
đã có thể nở rộ, thì vì một lý do nào đó, sự sung sướng có nguy cơ bị hoãn lại. Lập tức có bao nhiêu phản
ứng chỉ trích lẫn nhau giữa “phái trẻ” với “phái già”: Vậy đấy, người trong tang gia đã phải “la ó lên…”,
“điên người lên…”, sốt cả ruột”, “rất bực mình”, “đổ lỗi cho…”, “kêu khổ lắm”,… Câu chuyện trở nên
căng thẳng và giàu kịch tính hẳn lên. Lệnh phát phục chỉ mới trì hoãn có một ngày mà người ta đã bực
dọc, sốt ruột, đau khổ như vậy, giả sử ông già tám mươi này cứ “sống mãi” thì họ còn bực dọc, sốt ruột,
đau khổ đến mức nào. Thế mới biết, có được niềm “hạnh phúc” như của “tang gia” này cũng không dễ
dàng gì.

Đến đây, có thể kết luận rằng: Từ cái “chết thật” của “ông cụ già” đến đám ma giả của tang gia, và
từ cái đám ma giả tang gia đến niềm vui thật của bọn người hám danh, hám lợi, đạo đức giả được kể trong
chương truyện này là cả một hành trình sáng tạo của một tài năng lớn – tài năng trào phúng Vũ Trọng
Phụng. Quá đó, thể hiện sự căm phẫn, lên án sâu sắc của tác giả đối với xã hội thối nát đương thời. Đồng
thời, thể hiện niềm cay đắng, xót xa trước sự xuống cấp về đạo đức của một lớp người.
Đề: Phân tích vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử
tù”
A. Yêu cầu:
- Làm nổi rõ của hình tượng của nhân vật Huấn Cao, nghệ thuật xây dựng nhân vật và ý nghĩa tư tưởng
của hình tượng ấy.
- Biết cách phân tích một nhân vật văn học. Bố cục mạch lạc, kết cục chặt chẽ, văn phong trong sáng.
B. Ý chính cần có:
1. Giới thiệu đôi nét về tác phẩm và hình tượng:
- Chữ người tử tù là tập truyện ngắn rút từ tập vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1940).
- Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về tư tưởng nghệ thuật của tác
phẩm bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao – Con người hòa quyện giữa cái tâm, cái tài vả
thiên lương trong sáng.
2. Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài ba.
- Huấn Cao có tài viết chữ đẹp. Mà các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí.
- Huấn cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. “Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” của ông nổi tiếng
khắp một vùng tỉnh sơn.. Ngay cả viên quan quản ngục của một huyện nhỏ cô danh cũng biết “Chữ ông
Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (…) có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời”. Cho
nên “Sở nguyện của viên quan cai ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông
Huấn Cao viết”. Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn
nhục mà còn phải liều mạng. Bởi vì biệt đãi Huấn Cao một kẻ tử tù là việc làm nguy hiểm có khi phải trả
giá bằng tính mạng của mình.
3. Huấn Cao mang vẻ đẹp của khí phách hiên ngang, bất khuất
- Huấn Cao dám chống lại triều đình mà ông căm ghét, khinh bỉ.
23



Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

- Dù chí lớn không thành tư thế của Huấn Cao lúc nào cũng hiên ngang, buất khuất. Bị dẫn vào huyện
ngục ông không chút run sợ trước những kẻ nắm giữ vận mệnh của mình (thái độ của Huấn Cao đối với
quản ngục, chi tiết nói về việc Huấn Cao thúc gông xuống nền nhà có thể xem là dẫn chứng cho ý này).
- Là tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường vậy mà Huấn Cao vẫn giữ phong thái ung dung, đường hoàng.
4. Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp.
- Trong truyện Chữ người tử tù “thiên lương” được Nguyễn Tuân sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Với quản ngục và thơ lại thì “thiên lương” là ý thức trong việc sử dụng cái tài của mình.
- Huấn cao có tài viết chữ nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì
vàng ngọc hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu quý cái đẹp, cái tài… Ông tỏ thái độ khinh
bạc vì tưởng quản ngục có ý đồ đen tối gì khi thấy viên quan ấy biệt đãi mình. Rồi ông “cảm cái lòng biệt
nhởn liên tài” của quản ngục và thơ lại, khi biết họ thành tâm xin chữ. Ông quyết không phụ tấm lòng của
họ, nên mới diễn ra cảnh cho chữ trong tù được tác giả gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
5. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao.
- Trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm Nguyễn Tuân đã để cho vẻ đẹp của cái tâm, của “thiện lương”
chiếu rọi, làm cho cái đẹp của cái tài của khí phách anh hùng bừng sáng, tạo nên nhân cách chói lọi của
Huấn Cao. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng là lí tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân
là chuẩn mực để ông đánh giá nhân cách của con người. Nguyễn Tuân đặt nhân vật dưới ánh sáng của lí
tưởng ấy để các hình tượng bộc lộ vẻ đẹp với những mức độ khác nhau. Trên cái nền đen tối của nhà tù,
quản ngục và thơ lại là hai điểm sáng bên cạnh cái vần sáng rực rỡ của Huấn Cao. Cũng chính lý tưởng
thẩm mĩ ấy chi phối mạch vận động của truyện, tạo thành cuộc đổi ngôi kì diệu kẻ tử tù trở thành người
làm chủ tình huống, ban phát cái đẹp, dạy dỗ cách sống, quan coi ngục thì khúm núm sợ hãi. Hình tượng
Huấn Cao vì thế trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái
cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ.
6. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao
- Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo

cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thơ lại. Đó là cuộc gặp gỡ của tử tù với viên quan cai ngục
nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”
- Miêu tả Huấn Cao để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài cái đẹp cái tâm và khí phách ngang tàng
Nguyễn Tuân triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạng đối
lập giữa ánh sáng và bóng tối giữa cái đẹp cái cao cả với cái phàm tục dơ bẩn. Có sự tương phản ở những
chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ (bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ
rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên vẹn…). Có sự đối lập tương phản giữa sự cho chữ (công việc
tạo ra cái đẹp “nói lên hoài bảo tung hoành của một đời người”). Với hoàn cảnh cho chữ (nơi hôi hám, bẩn
thỉu, nơi giam cầm cùm trói tự do). Có sự đối lập phong thái của người cho chữ (đường hoàng) với tư thế
của kẻ nhận chữ (khúm núm).
- Ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân giàu chất tạo hình. Ông sử dụng nhiều từ lời ăn tiếng nói
mang khẩu khí của người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp của một thời vang bóng ở hình tượng Huấn Cao.
7. Kết luận
- Nhân vật Huấn Cao thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đó là biểu tượng cho sự chiến thắng
của cái tài, cái đẹp, cái tâm trước cái phàm tục, dơ bẩn của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ.
Đây là lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn, là ý tưởng tư tưởng của hình tượng.
- Hình tượng Huấn Cao được xây dựng trên cơ sở nguyên mẫu Cao Bá Quát một nhà nho có tài văn thơ,
viết chữ đẹp nổi tiếng một thời và cũng là người từng tham gia lãnh đạo khởi nghĩa nông dân chống lại
triều đình nhà Nguyễn. Xây dựng nhân vật Huấn Cao Nguyễn Tuân bộc lộ tình cảm yêu nước và tinh thần
dân tộc thầm kín của mình.
24


Trường THPT An Thới

Đề cương ôn tập Ngữ văn_HKI

Đề: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong “ Chữ người tử tù”của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân- một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông có những sáng tác xoay
quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà

sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác
phẩm “Chữ người tử tù”.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo
nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy
từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách
ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài,
cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà
còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản
ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ
nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung
hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến
“mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên
đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi
thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của
Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn
toàn.
Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì
đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống
lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái
bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn
bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé
họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng
không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô
tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ
ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có
tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có
trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong
lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang,

kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái
gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của
tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ
của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị
chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của
mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn
làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì
25


×