Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Đấu tranh chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực quyền con người ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TẠ QUỐC UY

ĐẤU TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH
TRONG LĨNH VỰC QUYỀN CON NGƯỜI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TẠ QUỐC UY

ĐẤU TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH
TRONG LĨNH VỰC QUYỀN CON NGƯỜI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:



60 22 85

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VĂN OÁNH

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

Chƣơng 1. QUYỀN CON NGƢỜI VÀ ÂM MƢU DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH
TRONG LĨNH VỰC QUYỀN CON NGƢỜI CỦA CÁC THẾ LỰC
NHẰM CHỐNG PHÁ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ..................... 7

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta về quyền con người, chống diễn biến hòa bình bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa...................................................................... 7
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con người ............... 7
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người ...................................... 9
1.1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quyền con người ....... 11
1.1.4. Chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực quyền con người bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ............................................................... 14
1.2. Một số nội dung đấu tranh chống diễn biến hoà bình của các thế lực
về quyền con người ở Việt Nam hiện nay ....................................... 16
1.2.1. Quan điểm về quyền con người trong chiến lược diễn biến hoà
bình diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch ............................. 16
1.2.2. Nội dung chống diễn biến hoà bình về quyền con người trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội ...................................................... 24
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN HOÀ

BÌNH TRONG LĨNH VỰC QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ......................................................................................... 35

2.1. Bối cảnh quốc tế và Việt Nam tác động đến cuộc đấu tranh chống
diễn biến hoà bình trong lĩnh vực quyền con người ........................ 35
2.1.1. Bối cảnh quốc tế ............................................................................... 35
2.1.2. Bối cảnh Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986 đến nay .......................... 42
2.2. Thực trạng cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình trên một số lĩnh
vực .................................................................................................... 44
2.2.1. Thực trạng cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình về quyền con
người trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, chính trị................................ 44


2.2.2. Thực trạng cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình về quyền
con người trong lĩnh vực lĩnh vực kinh tế........................................ 47
2.2.3. Thực trạng cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình về nhân
quyền trong lĩnh vực lĩnh vực văn hóa xã hội ................................. 52
2.2.4. Từ diễn biến hòa bình đến tự diễn biến thủ đoạn mới của chủ
nghĩa đế quốc ................................................................................... 53
2.3. Những vấn đề đặt ra .................................................................................... 56
2.3.1. Chủ động phòng chống diễn biến hoà bình ..................................... 56
2.3.2. Giải quyêt đúng đắn những mâu thuẫn trong phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần với chính trị nhất nguyên và sự
đồng thuận của xã hội ...................................................................... 59
2.3.3. Giải quyết đúng mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế để phát
triển với phòng ngừa sự xâm nhập tư tưởng, đạo đức, lối sống
tư sản qua diễn biến hòa bình về quyền con người .......................... 61
2.3.4. Sự mâu thuẫn giã bản chất của đảng cộng sản là khoa học và
cách mạng, đảng là trí tuệ, là văn minh với một bộ phận không
nhỏ cán bộ đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức

lối sống ............................................................................................. 63
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH” TRÊN LĨNH
VỰC QUYỀN CON NGƢỜI BẢO VỆ CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM ......................................................................... 65

3.1. Quan điểm cơ bản ....................................................................................... 65
3.1.1. Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng ta về quyền con người trong
cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình......................................... 65
3.1.2. Đấu tranh phòng, chống diễn biến hoà bình về nhân quyền phải
gắn liền tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ............................ 68
3.1.3. Đấu tranh chống diễn biến hoà bình về nhân quyền là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn quân,toàn dân, là nhiệm vụ thường xuyên
lâu dài và phức tạp ........................................................................... 71


3.2. Giải pháp ..................................................................................................... 74
3.2.1. Tuyên truyền giáo dục nâng cao cảnh giác đối với âm mưu lợi
dụng nhân quyền để thực hiện "diễn biến hoà bình" của chủ
nghĩa đế quốc .................................................................................... 74
3.2.2. Xây dựng nhân sinh quan và quan niệm giá trị đúng đắn trong
bối cảnh Việt Nam đang đổi mới và hội nhập quốc tế..................... 78
3.2.3. Xây dựng luật pháp, thể chế hóa quyền con người về nhân
quyền phù hợp điều kiện Việt Nam và văn bản pháp luật quốc
tế mà Việt nam đã ký kết ................................................................. 81
3.2.4. Chủ động làm thất bại âm mưu thực hiện “diễn biến hoà bình”
về nhân quyền .................................................................................. 87
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 97



BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT
CNTB

:

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

DBHB

:

Diễn biến hòa bình

GDP

:

Tổng sản phẩm quốc nội

GNP

:


Tổng sản phẩm quốc dân

HDI

:

Chỉ số phát triển con người

IMF

:

Quỹ tiền tệ quốc tế

TBCN

:

Tư bản chủ nghĩa

TT-VH

:

Tư tưởng - Văn hóa

TW

:


Trung ương

VH - XH

:

Văn hóa - xã hội

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21, nước ta đang bước vào một thời kỳ
phát triển mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn
với phát triển kinh tế tri thức, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN), mở rộng hội nhập quốc tế với nhiều thuận lợi, khó khăn và thử
thách phải vượt qua.
Trong khoảng thời gian hai thập kỷ qua, tình hình kinh tế, chính trị thế giới
có nhiều biến động phức tạp, gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của nhiều
quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự thất bại của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô - thành trì của cách mạng vô sản thế giới và ở một loạt các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu làm thay đổi cục diện chính trị toàn cầu, đã tác
động lớn đến công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Đảng,

Nhà nước và nhân dân ta. Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên trì đi
theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đi lên chủ
nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ,
của Đảng ta, xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, lý tưởng của
Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà
là làm cho mục tiêu ấy thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về
chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp” [6, tr.8-9].
Qua thực tiễn đổi mới đất nước hơn 25 năm qua chứng minh đường lối đổi
mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, thể hiện đúng ý chí của Đảng, đáp ứng đúng
nguyện vọng của nhân dân và đã đem lại cho nhân dân ta nhiều thành tựu đáng kể.
Nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, đời sống của nhân dân được
nâng cao, vị thế của Việt Nam ngày càng có uy tín trên trường quốc tế. Nhân dân ta
ủng hộ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, không chấp nhận đa nguyên đa Đảng,
không chấp nhận xoá bỏ những thành quả của cách mạng để chạy theo con đường
tư bản chủ nghĩa. Những thành quả mà chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã đạt được là
không thể phủ nhận như ở Liên Xô “ Năm 1957 Liên xô là nước đầu tiên phóng
1


thành công vệ tinh nhân tạo của trái đất …”[43, tr.259], còn tại việt nam “những
thành công bước đầu của cuộc đổi mới ở Việt Nam xác nhận rằng, chủ nghĩa Mác
- Lênin và học thuyết về chủ nghĩa xã hội vẫn bảo toàn giá trị và sức sống của nó;
rằng, đó vẫn là thành tựu vĩ đại của tư tưởng loài người” [7]. Chủ nghĩa đế quốc
không muốn thấy một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa tồn tại và phát triển ở Đông
Nam Á. Mấy chục năm dùng chiến tranh xâm lược đã thất bại, nay xu thế hoà bình
hợp tác không cho phép chúng dùng vũ lực để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ nghĩa đế quốc đâu dễ dàng từ bỏ ý định áp đặt một trật tự thế giới theo ý đồ
của chúng, vì vậy chủ nghĩa đế quốc đã lợi dụng các vấn đề nhạy cảm như: Tôn
giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền để thực hiện “diễn biến hoà bình” ở các nước xã
hội chủ nghĩa. Chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc tấn công

trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, nhân quyền.v.v. đã
được chúng thực hiện có kết quả ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Nay
chúng lại hy vọng có thể thực hiện thành công chiến lược “diễn biến hoà bình” ở
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó có Việt Nam là một mục tiêu trọng điểm
của chúng.
Nhân quyền (quyền con người) là một trong những vấn đề mà các quốc gia,
dân tộc cần phải quan tâm hàng đầu. Nhân quyền là vấn đề nhạy cảm và phức tạp,
có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân quyền, thậm chí có quan điểm đối lập nhau.
Tuy có nhiều quan điểm lập trường đối lập nhau, nhưng đa số các quan điểm
đều có chung; quyền của mỗi cá nhân được sống trong hòa bình, độc lập, tự do
mang tính phổ biến toàn nhân loại; Quan điểm khác nhau ở chỗ: đối với chủ nghĩa
đế quốc tuyệt đối hóa tự do cá nhân con người, tính nhân loại. Đối với chúng ta,
mỗi cá nhân đều phải sống trong một quốc gia, dân tộc, trong một chế độ xã hội
xác định, do vậy quyền tự do cá nhân không thể tách rời độc lập với độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia, quyền lợi trách nhiệm của cá nhân gắn với quyền, nghĩa
vụ công dân, trong đó bao gồm quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá.. Vì vậy
mỗi quốc gia dân tộc tuỳ theo điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá quy định
những quyền cụ thể và đảm bảo quyền con người cho công dân trong phạm vi quốc
gia đó.
2


Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế thường vu cáo cho các
nước xã hội chủ nghĩa "vi phạm nhân quyền" nhằm bôi nhọ và cô lập các nước xã
hội chủ nghĩa. Chúng viện cớ "bảo vệ nhân quyền" để can thiệp vào công việc nội
bộ của các nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời tuyên truyền các quan điểm, giá trị tự
do, dân chủ, nhân quyền tư sản nhằm làm ảnh hưởng tới quan niệm về giá trị của
nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng ủng hộ, nuôi dưỡng các tổ chức và
phần tử phản động dưới danh nghĩa "bảo vệ nhân quyền", kích động các tổ chức,
phần tử phản động, gây rối làm mất ổn định bên ở các nước XHCN nhằm làm cho

các nước XHCN sụp đổ từ bên trong, biến đổi thành các nước tư bản chủ nghĩa
(TBCN), như chúng đã từng làm ở Đông Âu và Liên Xô.
Trên cơ sở quan điểm nhân quyền của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và của Đảng ta làm rõ tính chất nhân quyền mà chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản cách mạng; làm rõ âm mưu lợi dụng "nhân quyền" để thực hiện "diễn
biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản cách mạng, kế thừa
những thành quả của các công trình khoa học đi trước mà đề xuất giải pháp phòng
chống "diễn biến hoà bình" về quyền con người với ý nghĩa ấy tác giả chọn đề tài:
“Đấu tranh chống diễn biến hoà bình trong lĩnh vực quyền con người ở Việt
Nam hiện nay” để thực hiện luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều học giả nghiên cứu "Diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc,
trong đó có vấn đề diễn biến hoà bình về nhân quyền. Tác giả luận văn đã tham
khảo một số sách và bài viết sau:
- Bàn về chống diễn biến hoà bình. Nxb Chính trị quốc gia, 1993. Trong
cuốn sách này bàn đến nguồn gốc, bản chất của chiến lược diễn biến hòa bình và
việc chủ nghĩa đế quốc thực hiện diễn biến hòa bình trên các lĩnh vực trong đó có
lĩnh vực quyền con người.
- Chu Hồng Thanh, Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại, Nxb
Lao động Hà Nội 1996. Đây là cuốn sách bàn về quan niệm khác nhau trong thế
giới hiện đại , so sánh quyền con người ở một số quốc gia với Mỹ và đề cập tới các
công ước quốc tế về quyền con người.
3


- Tổng cục II - Bộ Quốc Phòng, Cuộc đọ sức giữa hai chế độ xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994. Trong cuốn sách này tác giả luận giải về sự đối
lập giữa chủ nghĩa Mác-Lênin và những quan điểm đối lập với tư cách là hình thái
ý thức xã hội, luận giải về sự đối lập giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
trên lĩnh vực chính trị trong đó bàn về các vấn đề như : dân chủ, quyền con người,

đạo đức..., luận giải về sự đối lập giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên
lĩnh vực kinh tế, luận giải về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và những diễn biến
mới của chủ nghĩa tư bản, cùng những mâu thuẫn bản chất của nó.
- Nhận dạng các quan điểm sai trái thù địch. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung
ương, Hà Nội 2005. Đây là cuốn sách tập hợp các chuyên đề trong đề tài cấp nhà
nước - 2003/17: Nghiên cứu, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới. Trong đó có một
số chuyên đề bàn về âm mưu thủ đoạn mới chống phá Việt Nam trên lĩnh vực
quyền con người nhưng chưa đưa ra các giải pháp chống diễn biên hòa bình về
quyền con người.
- Phòng chống diễn biến hoà bình ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội 2009. Đây là cuốn sách bàn về chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam trong đó
bàn đến các biện pháp mà các thế lực thù địch lợi dụng quyền con người để chống
phá Việt Nam và đưa ra một số nội dung cần thực hiện trong đấu tranh làm thất bại
âm mưu lợi dụng quyền con người thực hiện diễn biến hòa bình.
Bên cạnh đó, còn có luân án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, các bài viết, các
chuyên đề nghiên cứu được đăng trên các báo, tạp chí đề cập nhiều đến vấn đề
Chống diễn biến hòa bình;
Doãn Tiến với đề tài Chống diễn biến hòa bình Luận án tiến sỹ Triết học,
chuyên nghành chủ nghĩa xã hội khoa học.
Phạm Văn Khánh, Nhân quyền Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 1 (1/1996)
trang 37.
Nước Mỹ đằng sau tấm bình phong tự do. Tạp chí Cộng sản, số 11 (6/2000).
Nguyễn Chí Dũng, Một đạo luật thiếu khách quan khoa học, Tạp chí Cộng
sản, số 22 (11/2001).
4


Cao Đức Thái Quyền con người với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia,
số 22 (11-2001);

Tạ Quốc Uy, Vấn đề nhân quyền và chống diễn biến hoà bình trong vấn đề
nhân quyền, khoá luận tốt nghiệp đại học 2003 tại trường Đại học KHXH &NV. Ở
khoá luận này tác giả tập trung ở mức độ hẹp về chất và lượng trong việc nghiên
cứu vấn đề nhân quyền và phê phán một số quan điểm thù địch với Việt Nam.
Trên cơ sở đó luận văn sẽ phát triển cao hơn cả về chất và lượng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
Vạch rõ âm mưu hoạt động diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản cách mạng trong lĩnh vực nhân quyền. Từ đó đề xuất giải pháp phòng,
chống "diễn biến hoà bình" về quyền con người ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ những quan điểm về quyền con người của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước ta.
- Làm rõ những khái niệm về chiến lược “diễn biến hoà bình”, bản chất của
chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc. Làm rõ thực trạng “diễn
biến hoà bình” và “diễn biến hoà bình” trong lĩnh vực quyền con người ở nước ta.
- Đề xuất những giải pháp đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc lợi dụng quyền
con người để thực hiện “diễn biến hoà bình” ở nước ta.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Bản chất và thủ đoạn DBHB trong lĩnh vực quyền con người
của chủ nhĩa đế quốc và các thế lực thù địch và cuộc đấu tranh chống diễn biến hòa
bình trong lĩnh vực quyền con người của Đảng và Nhà nước ta là một trong những
nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp giữa CNXH và CNTB.
* Phạm vi và giới hạn nghiên cứu Quyền con người và thực trạng cuộc đấu
tranh chống “diễn biến hoà bình” trong lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam từ
1986 đến nay.

5



5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người và cuộc
đấu tranh chống ”diễn biến hoà bình” (DBHB) nhằm bảo vệ Tổ quốc XHCN.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận văn nghiên cứu toàn bộ hoạt động thực tiễn : Địch thực hiện “diễn biến
hoà bình” và ta chống “diễn biến hoà bình” về quyền con người từ 1986 đến nay.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật
lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic và lịch sử,…
gắn lý luận với thực tiễn chính trị - xã hội của vấn đề.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Xác định tính chất nhân quyền mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
cách mạng tuyên truyền, đồng thời làm rõ âm mưu lợi dụng "nhân quyền" để thực
hiện "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản cách mạng.
- Xác định quan điểm và một số giải pháp chống “diễn biến hoà bình” về
quyền con người ở nước ta, nhằm bảo vệ vững chắc chế độ XHCN ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.

6


Chƣơng 1
QUYỀN CON NGƢỜI VÀ ÂM MƢU DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH
TRONG LĨNH VỰC QUYỀN CON NGƢỜI CỦA CÁC THẾ LỰC
NHẰM CHỐNG PHÁ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM


1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta về quyền con ngƣời, chống diễn biến hòa bình bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con người
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin (CNM-LN), nhân quyền là quyền
của con người với tư cách là thành viên của xã hội. Vì vậy nội dung và tiêu chuẩn
của nó được quyết định bởi chế độ kinh tế và chính trị của một xã hội nhất định nào
đó, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm về văn hoá và giá trị truyền
thống của một quốc gia, dân tộc. Vì một quốc gia là một thực thể chính trị, trên cơ
sở quan hệ sản xuất nhất định, mang chế độ kinh tế chính trị và truyền thống văn
hoá khác nhau. Con người phải sống trong một xã hội xác định không thể sống bên
ngoài thế giới con người như Mác đã nói "Con người quyết định không phải là cái
trừu tượng bám đậu bên ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người,
chính là quốc gia xã hội" [8, tr.13-14]. Do vậy nhân quyền phải là quyền lợi của
con người trong một chế độ xã hội xác định có truyền thống, văn hoá, có luật
pháp... hình thức luật pháp của một đất nước thể hiện rõ nhất nhân quyền của nước
đó, thông qua mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước. Từ mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội được pháp luật quy định Mác đã vạch trần nhân quyền tư sản. Ông nói
"Sự thành lập của quốc gia chính trị và sự phân giải xã hội thị dân thành cá nhân
độc lập - mối quan hệ của những cá nhân này được biểu hiện ra thông qua quyền
lợi, cũng giống như mối quan hệ giữa con người của chế độ đẳng cấp được biểu
hiện thông qua đặc quyền" [9, tr.442]. Như vậy muốn nói nhân quyền của xã hội tư
sản giống như đặc quyền của xã hội phong kiến, đều là mối quan hệ giai cấp được
biểu hiện dưới hình thức quyền lợi. Điều khác nhau là giai cấp tư sản gọi quyền lợi
của mình là nhân quyền, nó biểu hiện ra thành loại quyền lợi “phổ biến siêu giai
7


cấp” biểu hiện thành quyền lợi của con người với tư cách "loài", quyền lợi thuộc
tất cả mọi người. Còn đặc quyền biểu hiện thành một loại quyền lợi không phổ biến

thuộc về giai cấp đặc biệt. Nhân quyền tư sản là một loại đặc quyền được che đậy
bằng nhân quyền - đặc quyền của giai cấp tư sản, được tô vẽ thành quyền lợi phổ
biến che đậy bản chất của nó. Như vậy thì nhân quyền trong chế độ xã hội nào thì
sẽ mang bản chất của giai cấp thống trị ở đó.
Con người sống trong một quốc gia, dân tộc, một xã hội nhất định, một thể
chế Nhà nước, một chế độ chính trị. Do vậy nhân quyền cao nhất là phải độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, chủ quyền và nhân quyền không thể tách rời nhau.
Trong một giai đoạn lịch sử nhất định đều có một phương thức sản xuất nhất
định. Ở đó, ai sở hữu về tư liệu sản xuất thì người đó sẽ được hưởng quyền lợi cao
nhất. Chế độ tư bản giai cấp tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp tư
sản có quyền lợi cao nhất. Chỉ có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mới đảm bảo
được nhân quyền một cách công bằng. Nhân quyền là quyền công bằng cho tất cả
mọi người, không phải là đặc quyền cho một số ít người. Vì vậy Mác viết "... đặc
quyền và áp bức phải nhường chỗ cho chân lý vĩnh cửu, cho bình đẳng sinh ra từ
giới tự nhiên và cho những quyền không thể tách rời của con người [9, tr.544] nó
không phải là quyền bình đẳng theo kiểu tư sản như Mác đã nói về bình đẳng tư sản
là "bình đẳng rút cục lại chỉ là bình đẳng tư sản trước pháp luật: Rằng những quyền
chủ yếu nhất của con người mà người ta tuyên bố chỉ là quyền sở hữu tư sản” [9,
tr.546]. Do đó chỉ có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mới đảm bảo phân phối
lợi ích cho mọi người lao động trong xã hội. Lênin cho rằng “ không thể có bình
đẳng giữa bọn bóc lột và người bị bóc lột...” [30, tr.319], vì vậy chỉ khi nào xóa bỏ
giai cấp, xóa bỏ áp bức bất công thì xã hội mới có công bằng.
Như vậy nhân quyền theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin: là nhân quyền
trong một chế độ xã hội xác định, có thể chế độ chính trị, có truyền thống văn hoá,
có sự quy định luật pháp, biểu hiện nhân quyền trong một quốc gia là quan hệ giữa
cá nhân với nhà nước do luật pháp quy định: Nhân quyền được đảm bảo trong chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất và gắn với chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc,
quyền tự quyết của các dân tộc.
8



1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) về quyền con người
Tư tưởng về quyền con người, quyền công dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
sự thể hiện cao nhất chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa yêu nước chân chính vì mục
đích giải phóng con người một cách toàn diện. Người khẳng định "chỉ có thể giải
phóng dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp vô sản, cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới" [33,
tr.62]. Người đi từ giải phóng dân tộc đó là quyền cơ bản đầu tiên, tiến tới giải
phóng toàn bộ giai cấp vô sản. Nhưng muốn giải phóng được giai cấp vô sản thì
phải xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
Theo Hồ Chí Minh cơ sơ nền tảng đầu tiên của quyền con người phải là độc
lập dân tộc, Người đi đến khẳng định tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc xác
lập vai trò làm chủ của nhân dân lao động, mang lại quyền lợi cho mọi người mang
tính phổ biến. Người nói "chúng ta đã hi sinh làm cách mạng thì nên làm cho đến
nơi, nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người, thế mới khỏi hi sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được
hạnh phúc" [34, tr.242]. Quyền tự do bình đẳng của nhân dân cũng chỉ có thể giành
được bằng cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và bằng chính nỗ lực
của quần chúng nhân dân.
Trong tư tưởng của người quyền con người không tách khỏi quyền độc lập
dân tộc, quyền công dân và quyền độc lập dân tộc là điều kiện cơ bản kiên quyết để
mang lại hạnh phúc cho dân. Người nói "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột
bực là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [37, tr.100]. Đó là
những "ham muốn" cơ bản nhất cho quyền tối thiểu của người dân, dân tộc chưa
giành độc lập thì các thành viên của nó không thể có tự do, hạnh phúc, tự do của
dân tộc và tự do của mỗi cá nhân là sự gắn bó chặt chẽ, sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người. Do vậy chỉ khi nào đông
đảo nhân dân được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập mới có ý nghĩa. Vì lẽ đó
Người đã nói "Ngày nay chúng ta xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.


9


Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì" [34, tr.555].
Nhưng nếu mới chỉ có độc lập tự do thì quyền con người cũng chưa thực sự
đảm bảo, giành được độc lập tự do rồi dân tộc ta phải không ngừng xây dựng một
xã hội đảm bảo quyền tự do và các quyền cơ bản khác cho toàn thể nhân dân mà
nhân dân ta đã hi sinh hàng triệu người mới giành được. Đó là xây dựng một nhà
nước "của dân, do dân và vì dân" tạo ra nền kinh tế phát triển phục vụ cho hiện
thực hoá quyền con người như chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: "Chế độ
kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân,
trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, các hình thức bóc lột của
chủ nghĩa tư bản được xoá bỏ dần, đời sống văn hoá nhân dân ngày càng được cải
thiện" [11, tr.6].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người còn thể hiện toàn diện trong bản
Tuyên ngôn độc lập (1945) khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một bản
tuyên ngôn kiệt xuất trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam, thể hiện tư
tưởng giải phóng con người và hiện thực hoá quyền con người. Bản tuyên ngôn
mang giá trị thời đại, bởi nó kế thừa những tư tưởng nhân văn trong lịch sử, trong
Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789 của
Pháp. Khẳng định "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng... có quyền
được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. suy rộng ra, câu ấy nghĩa là tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do” [34, tr.555].
Những khẳng định khoa học của Người đã nâng quyền con người lên một
tầm cao mới, đặt nó trong điều kiện hoàn cảnh mới về mối quan hệ giữa giải phóng
cá nhân với giải phóng xã hội, giai cấp và dân tộc. Trong đó Người nhấn mạnh vai
trò giải phóng con người về mặt cá nhân. Nhưng muốn giải phóng toàn bộ những

lực lượng xã hội, giải phóng toàn diện cá nhân - con người thì phải giải phóng dân
tộc. Từ đó Người khẳng định "Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc
lập" và "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững tự do và độc lập" [34, tr.557]. Dân tộc Việt Nam sẽ
10


bảo vệ độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ, là quyền dân tộc cơ bản đầu tiên để đảm
bảo cho quyền con người, quyền công dân trong đất nước ta.
Tuyên ngôn độc lập của Người đã kết tinh những gì tinh tuý, tiến bộ nhất của
thế giới về quyền con người và phát triển lên về chất, lượng mới. Từ đó khẳng định
quyền độc lập, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, phát triển con người Việt nam toàn
diện. Tuyên ngôn độc lập đã kết hợp giá trị dân tộc và thời đại, đã khẳng định rõ
ràng rằng các quyền cơ bản của con người luôn gắn liền với quyền dân tộc thiêng
liêng có trong lịch sử mỗi dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các dân tộc,
các quốc gia.
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã tuyên bố quyền của dân tộc ta trong
thời đại mới là đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa thực dân giành lại quyền
sống, quyền tự do, dân chủ để nhân dân Việt Nam sánh vai với các cường quốc
năm châu.
Những quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam còn được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói cụ thể hơn, Người viết "Chúng ta phải ra sức đấu tranh làm cho nhân dân
ai cũng ăn no, mặc ấm, có việc làm, có giờ nghỉ ngơi, được học tập" [35, tr.161].
Đó là sự cụ thể hoá quyền con người của nhân dân Việt Nam, quyền của nhân dân
Việt Nam cho tất cả mọi người, mọi đối tượng như: quyền được bảo trợ xã hội của
người già và quyền chăm sóc y tế, giáo dục.
Đảm bảo quyền con người của nhân dân Việt Nam là trách nhiệm nghĩa vụ
của Đảng và Nhà nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói "Hễ còn một người Việt
Nam bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn
nhiệm vụ" [38, tr.587]. Đồng thời "tất cả những việc Đảng và chính phủ đề ra đều

nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân làm gì mà không nhằm mục đích ấy là không
đúng" [38, tr.415].
1.1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) về quyền con người

Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập, đưa đất nước ta từ
một nước phải chịu sự thống trị trên 80 năm của thực dân Pháp, thành lập nên nước
Việt Nam có quyền độc lập, tự do đó là nhân quyền lớn nhất mà đất nước ta có
được. Một dân tộc đã gần một thế kỷ bị thống trị của đê quốc thực dân, một dân
11


tộc đã bị mất tự do, thì việc giành độc lập, tự do cho dân tộc là nhân quyền lớn
nhất mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được.
Nhưng để thực sự được độc lập tự do nhân dân ta đã phải trải qua hai cuộc
kháng chiến đổ bao xương máu của hàng triệu người hi sinh mới giành được, thì
quyền độc lập tự do là thiêng liêng nhất.
Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng đất nước trong hoà bình mang lại cơm
no áo ấm, hướng tới xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh dân
chủ, công bằng, và văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc có
điều kiện phát triển toàn diện". Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
mà "quyền lực thuộc về nhân dân" trong đó "các dân tộc có quyền dùng tiếng nói
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán, truyền
thống và văn hoá tốt đẹp của mình" [23, tr.14].
"Quyền của công dân gắn bó chặt chẽ với quyền và lợi ích quốc gia; công
dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng tham gia công việc của Nhà
nước và xã hội; có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân" [23, tr.17]... Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện rõ quyền và nghĩa vụ
của công dân, thể hiện rõ tư tưởng của Đảng ta về quyền con người, mỗi công dân
Việt Nam được pháp luật bảo vệ đồng thời quyền và nghĩa vụ của công dân gắn bó
chặt chẽ bảo sự vệ của Nhà nước. Như quyền và nghĩa vụ học tập, quyền tự do tín

ngưỡng, quyền lao động, kinh doanh, nghỉ ngơi,... tất cả mọi quyền và nghĩa vụ đó
được quy định cụ thể và rõ ràng. Điều đó cho thấy Đảng và Nhà nước ta luôn chú
trọng tới phát triển đảm bảo quyền con người về mọi mặt "Từ năm 1988 - 1994 nêu
cao quan điểm bảo vệ quyền con người và phát triển quyền con người và quyền
công dân nhà nước ban hành 55 luật, 64 pháp lệnh, 251 nghị định" [28, tr.37]. Nhận
định của Ban Chấp hành Trung ương khoá VII: Chúng ta nhận thức rằng, quyền
con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại, của nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Qua đó quyền con người là
thành quả chung của nhân loại... Đối với chúng ta, vấn đề quyền con người được
đặt ra xuất phát từ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ ta và bao

12


quát nhiều lĩnh vực, từ chính trị, tư tưởng, văn hoá đến kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng, pháp chế.
Tuy nhiên đất nước ta đã phải trải qua chiến tranh lâu dài với hậu quả nặng
nề, nền kinh tế còn lạc hậu, dân trí chưa cao, hậu quả chiến tranh còn kéo dài thì
việc xây dựng nền dân chủ đảm bảo quyền con người sẽ rất khó khăn và vất vả đòi
hỏi phải có thời gian làm từng bước cùng với sự phát triển của đất nước.
Quan điểm về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta dựa trên nền tảng
tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hoá
dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu chuẩn về quyền con người được thế giới
thừa nhận rộng rãi.
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhiều
năm qua, Đảng và Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách đảm bảo quyền con
người và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất nước ta tiến dần đến mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần vào cuộc đấu
tranh chung của nhân loại vì mục tiêu hoà bình và tiến bộ xã hội. Việt Nam đã tham
gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người như: Công ước quốc tế về xoá

bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (1979), xoá bỏ các hình thức phân biệt
chủng tộc (1966), về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội (1966), về các quyền dân
sự (1966), về quyền trẻ em; Nghị định thư bổ sung Công ước Giơ-ne-vơ về bảo vệ
nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế… và tham gia các công ước của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) với tư cách là thành viên của tổ chức này. Ở trong nước,
các chính sách kinh tế - xã hội đã đem lại nhiều quyền lợi và điều kiện để người
dân thực hiện các quyền con người, đặc biệt là thành quả trong sự nghiệp xoá đói
giảm nghèo, y tế, giáo dục, văn hoá, tự do báo chí, tự do tôn giáo, chính sách đoàn
kết dân tộc, chính sách an sinh xã hội, an ninh con người… được quốc tế thừa
nhận.
Chúng ta kiên quyết bác bỏ quan điểm sai lầm của các thế lực thù địch đang
lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để can thiệp vào
công việc nội bộ của nước ta. Chúng ta khẳng định tính đặc thù của quyền con
người, chống lại quan điểm cho rằng quyền con người chỉ là giá trị chung không
13


phụ thuộc vào pháp luật hay đạo đức của bất kỳ xã hội nào và phải được áp dụng
với những chuẩn mực và phương thức đồng nhất ở mọi quốc gia, không phân biệt
chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử và văn hoá. Chúng ta kiên quyết bảo vệ quan điểm
“nhân quyền gắn với chủ quyền”, chống lại quan điểm tuyệt đối hoá quyền tự do cá
nhân, đặc quyền của cá nhân cao hơn chủ quyền của cộng đồng dân tộc. Chúng ta
phải tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu
“diễn biến hoà bình” .
1.1.4. Chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực quyền con người bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa
Trước âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch bằng DBHB
trong lĩnh vực quyền con người , Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ động trong các
hoạt động sau:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ, đảng viên và các

tầng lớp nhân dân thấm nhuần sâu sắc lập trường, quan điểm, chính sách của Đảng
và Nhà nước về vấn đề nhân quyền, nâng cao ý thức cảnh giác trước luận điệu sai
trái và âm mưu của các thế lực thù địch và các nước bảo trợ chúng lợi dụng vấn đề
“dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để chống phá ta.
Đẩy mạnh thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các
chương trình và chính sách phát triển vùng, trong đó ưu tiên phát triển vùng sâu,
vùng xa, vùng núi, biên giới và vùng căn cứ cách mạng gắn với chương trình xoá
đói, giảm nghèo, chính sách với người có công và chính sách dân tộc, tôn giáo; xây
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam
có đủ 5 đức tính đã được Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) xác định; chiến
lược phát triển nguồn nhân lực và giáo dục - đào tạo; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân…, làm cho mọi người Việt Nam đều được hưởng thành quả của công
cuộc đổi mới. Đồng thời phải khắc phục những hạn chế về quyền con người trong
truyền thống và hiện tại nhằm hoàn thiện quyền con người ở Việt Nam trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong giải quyết vấn đề quyền con người, tiếp
tục xây dựng hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế. Các cơ quan tham mưu của
14


Đảng và cơ quan chức năng của Nhà nước cần chủ động phối hợp nghiên cứu dự
báo những vấn đề mà quốc tế quan tâm xung quanh lĩnh vực “dân chủ”, “nhân
quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc”, chuẩn bị lý lẽ để trả lời kịp thời, đầy đủ, chính xác,
đồng thời đập tan luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch. Tranh thủ sự
ủng hộ của các quốc gia, các tổ chức quốc tế (nhất là phong trào không liên kết,
Ủy ban nhân quyền, Tiểu ban nhân quyền và Ủy ban kinh tế - xã hội của Liên hợp
quốc). Kiên quyết đấu tranh không để các tổ chức phản động lưu vong có tư cách
tư vấn tại Liên hợp quốc.
Giải quyết các vấn đề cụ thể về quyền con người phải kết hợp giữa tính phổ
biến và tính đặc thù. Thừa nhận tính phổ biến của quyền con người với những giá

trị chung của nhân loại, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh khi giải
quyết vấn đề nhân quyền phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ngoài những giá
trị phổ biến, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia tuỳ theo chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử,
văn hoá dân tộc, tôn giáo có những giá trị riêng không ai có thể xâm phạm được .
Nhà nước ta tôn trọng những giá trị đã được quốc tế thừa nhận, như: Tất cả các
quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và
liên quan đến nhau; trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc,
khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hoá và tôn giáo.
Quyền con người mang tính giai cấp. Lịch sử đấu tranh giải phóng con
người, cải tạo xã hội trong xã hội có giai cấp gắn liền với lịch sử các cuộc đấu tranh
giai cấp. Quyền con người là thành quả của các cuộc đấu tranh đó. Vì vậy, quyền
con người không thể không mang tính giai cấp. Chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thủ tiêu chế độ
người bóc lột người là nhằm đem lại quyền lợi cho toàn thể nhân dân lao động.
Quyền con người ở Việt Nam được thể hiện trong quyền và nghĩa vụ công
dân, thực hiện quyền con người gắn liền với quá trình thực hiện dân chủ hoá xã hội.
Cương lĩnh của Đảng chỉ rõ, dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thể
hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng hình thức dân
chủ trực tiếp; dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hoá bằng
15


pháp luật và được pháp luật đảm bảo. Quyền con người là sự thống nhất giữa
quyền và nghĩa vụ công dân, giữa quyền, lợi ích cá nhân với quyền và lợi ích cộng
đồng. Các quyền và lợi ích của công dân nước ta luôn được gắn với nhau, được quy
định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật. Công dân Việt Nam được thực hiện
các quyền tự do cá nhân mà pháp luật không cấm, nhưng quyền tự do cá nhân
không được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và cộng đồng,
không được thực hiện các hành vi gây nguy hại đến an ninh quốc gia và trật tự luật

pháp xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương giải quyết vấn đề quyền con người bằng đối thoại hoà
bình và mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và
luận điệu lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ
của nước ta.
1.2. Một số nội dung đấu tranh chống diễn biến hoà bình của các thế lực
về quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay
1.2.1 Quan điểm về quyền con người trong chiến lược diễn biến hoà bình
diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch
1.2.1.1 Về diễn biến hòa bình
Chiến lược "diễn biến hoà bình" có manh nha từ cuối thập kỷ 40 của thế kỷ
XX do Ngoại trưởng Mỹ Akisơn đề xuất. Ngoại trưởng Mỹ thập kỷ 50 thế kỷ XX Ađalét đã phát triển chính sách của Akisơn. Ông ta cho rằng "Đối với công cuộc
giải phóng nhân dân bị nô dịch ở các nước XHCN cần phải dùng "phương pháp phi
chiến tranh" tức là dùng "thủ đoạn hoà bình" để giành thắng lợi" [6, tr.11]. Ông ta
khẳng định "phương pháp hoà bình" có nghĩa là lấy "uy hiếp quân sự" làm hậu
thuẫn và tập trung sức tiến hành xâm nhập kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá đối
với các nước XHCN. Khiến cho các nước này "tan rã từ bên trong" và rút ngắn tuổi
thọ của chủ nghĩa cộng sản" [6, tr.14].
Trong thập kỷ 60 và 70, các thế lực phản động quốc tế vẫn duy trì chính sách
"diễn biến hoà bình" của Ađalét.
16


Bước vào thập kỷ 80 trào lưu cải cách để hoà nhập vào thế giới "đã lôi cuốn
hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa và một số nước đã thu được những kết quả nhất
định" . Nhưng quá trình hội nhập của các nước XHCN đã gặp phải nhiều khó khăn
sai lầm, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế cho rằng cơ hội thực
hiện "diễn biến hoà bình" đã đến.
Dưới thời Rigân năm 1982 các thế lực phản động quốc tế bắt đầu thực hiện

chiến lược "diễn biến hoà bình" đối với Liên Xô. Tổng thống Mỹ Rigân kêu gọi
triển khai "phong trào tranh thủ dân chủ toàn cầu", "khuyến khích tự do hoá ở Liên
Xô và các nước phụ thuộc" [6, tr.15]. Cuối năm 1983, chính phủ Mỹ triệu tập hội
nghị “dân chủ hoá các nước Cộng Sản”. Bộ trưởng ngoại giao Mỹ lúc đó là George.
P Shultz đã công khai tuyên bố tại hội nghị là cần phải thông qua tuyên truyền dư
luận, nhân quyền : và các tổ chức phí chính phủ chi viện cho các thế lực dân chủ ở
các nước Cộng Sản, ủng hộ họ trong cuộc đấu tranh giành tự do, nhằm mục tiêu
phát triển phương hướng tự do ở các nước Xã hội chủ nghĩa.
Đầu năm 1988, trong cuốn sách “1999 chiến thắng không cần chiến tranh”
Nich sơn cựu tổng thống Mỹ đã tổng kết kinh nghiệm thực hiện chiến lược “diễn
biến hoà bình” đối với các nước Xã hội chủ nghĩa. Ông ta đã trình bày toàn diện
mục tiêu chiến lược, sách lược và thủ đoạn để thực hiện “diễn biến hoà bình” để
giành chiến thắng mà không cần chiến tranh. Ông ta cho rằng các nước Xã hội chủ
nghĩa đang gặp khó khăn, sai lầm trong cải cách là thời cơ tốt nhất để nước Mỹ
thực hiện chiến lược diễn biến Hoà Bình. Nước Mỹ lắm lấy “thời cơ lịch sử” này
tác động cuộc tiến công chính trị và hình thái ý thức để đẩy nhanh “diễn biến hoà
bình” đối với các nước Xã hội chủ nghĩa.
Cuộc tiến công của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bằng chiến
lược “diễn biến hoà bình”, cùng với sai lầm của Đảng Cộng sản Liên xô dã làm cho
Liên Xô rơi vào khủng hoảng trầm trọng, tình trạng xã hội hỗn loạn kéo dài dẫn
đến sụp đổ Liên bang Xô viết vào tháng 9 năm 1991.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế tuyên truyền chính trị,
tư tưởng, hình thái ý thức, nhân sinh quan tư sản nhằm thẩm thấu vào các nước xã
hội chủ nghĩa để tạo ra làn sóng phản cách mạng trong các nước XNCH. Đối với
17


các phần tử chống đối nhà nước XHCN chúng tiến hành mua chuộc, ủng hộ bằng
vật chất. Khuyến khích các phần tử này hoạt động chống phá bên trong các nước
XHCN. Chúng ra sức xây dựng đào tạo, nuôi dưỡng các tổ chức phản động là

người của các nước XHCN sống ở nước ngoài mà chúng gọi là "chiến sĩ đấu tranh
cho dân chủ" khuyến khích các tổ chức phản động hoạt động chống phá các nước
XHCN. Chúng còn dùng các thế lực này tung về nước bằng nhiều con đường khác
nhau như đi du lịch hoặc với danh nghĩa nhà khoa học vào hợp tác hoặc thông qua
con đường kinh tế... Để thực hiện kế hoạch đó "Năm 1989 Nghị viện Mỹ đã phê
chuẩn cấp cho quỹ "Tranh thủ dân chủ" 25 triệu đôla chuyên dùng vào việc giúp đỡ
các tổ chức đấu tranh giành độc lập, dân chủ trong các nước Cộng sản" [6, tr.2930].
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế dùng đài phát thanh,
truyền hình và báo chí tuyên truyền tư tưởng dân chủ, tự do hoá tư sản và nhân
quyền tư sản ... nhằm thẩm thấu dần vào các nước XHCN tạo ra sự nhiễu loạn nghi
ngờ trong nội bộ các nước XHCN. Khi xảy ra khủng hoảng, bạo loạn ở các nước
XHCN các đài phát thanh này lập tức chĩa mũi nhọn vào khiêu khích, kích động
nhân dân các nước XHCN chống lại chính phủ. Cựu tổng thống Mỹ Nicsơn từng
đánh giá rằng "Đài tiếng nói Hoa Kỳ và các cơ quan khác cần phải khơi dậy tình
cảm chống đối của các nước "sau bức màn sắt" và làm cho họ tin tưởng vững chắc
rằng chúng ta sẽ ủng hộ về mặt đạo nghĩa" [6, tr.25]. Chúng muốn thông qua các
đài phát thanh tuyên truyền bằng những lời hoà mỹ, làm cho thế giới tư bản như là
một thiên đường, hòng lừa bịp những người nhẹ dạ cả tin, lôi kéo họ đi theo chúng
chống lại nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế lợi dụng sức mạnh về
kinh tế và quân sự để kiềm chế kinh tế đối với các nước XHCN.Chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực phản cách mạng quốc tế lợi dụng Quỹ tiền tê quốc tế (IMF) và các tổ
chức quốc tế, lấy danh nghĩa giúp các nước nghèo khắc phục khủng hoảng kinh tế,
đưa ra phương án cải cách để xây dựng cơ chế điều hành kinh tế vĩ mô theo mô
hình Mỹ. Thông qua các công ty xuyên quốc gia mua các doanh nghiệp của các
nước Xã hội chủ nghĩa đang có nguy cơ bị phá sản dần dần thâu tóm nền kinh tế
18


của các nước Xã hội chủ nghĩa. Chúng dùng viện trợ kinh tế, tài chính và kỹ thuật

để gây ảnh hưởng hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của các nước XHCN.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế lợi dụng các nước
XHCN tiến hành cải cách mở cửa phát triển kinh tế hội nhập với nền kinh tế thế
giới. Chúng cho vay về tài chính, kinh tế và kỹ thuật, đồng thời với việc cho vay
chúng muốn các nước XHCN dần dần phụ thuộc vào nền kinh tế của chúng. Dùng
kinh tế mồi chài khống chế các nước XHCN, khi cần thiết chúng đòi nợ. Nếu các
nước XHCN không trả được nợ thì phải làm theo các điều kiện của chúng. Không
tuân theo các điều kiện của chúng, chúng sẽ tiến hành bao vây cấm vận, trừng phạt
kinh tế làm cho các nước xã hội chủ nghĩa bị cô lập và sẽ rơi vào khủng hoảng. Các
thủ đoạn này chúng đã sử dụng đối với Đông Âu "chính sách kinh tế mậu dịch là
thủ đoạn có hiệu quả ảnh hưởng đến sự thay đổi của các nước Đông Âu. Trở thành
lực kích thích quan trọng trong việc thúc đẩy sự thay đổi của Đông Âu" [6, tr.28].
Các biện pháp trừng phạt về kinh tế bao vây cấm vận chúng cũng đã sử dụng với
Việt Nam, Cuba trong nhiều năm.
Cùng với cho vay, viện trợ kinh tế và chuyển giao kỹ thuật công nghệ đồng
thời chủ nghĩa đế quốc cũng tuyên truyền quan niệm nhân sinh, quan niệm giá trị
của CNTB. Chúng cho rằng "cần khẳng khái viện trợ kinh tế để ép buộc các nước
Cộng sản ngả dần theo phương Tây về mặt chính trị, kinh tế và tư tưởng" [6, tr.34].
Chúng muốn thông qua viện trợ kinh tế để thúc đẩy cho sự phát triển tự do hoá về
kinh tế theo kiểu tư bản và đa nguyên hoá về chính trị ở các nước XHCN.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế lợi dụng các tổ chức
quốc tế xuyên tạc tình hình tại các nước Xã hội chủ nghĩa . Hàng năm bộ ngoại
giao Mỹ thường có báo cáo xuyên tạc về tình hình dân chủ, nhân quyền trong các
nước Xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng Uỷ ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc để đưa ra
những kết luận sai lệch về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng lợi dụng các
tổ chức quốc tế tiến hành các cuộc điều trần, xuyên tạc bóp méo sự thật về tự do
dân chủ ở các nước Xã hội chủ nghĩa. Từ đó kích động mâu thuẫn dân tộc trong các
nước XHCN, kích động, xúi dục đòi ly khai, đòi nhân quyền, dân chủ, dân sinh hợp

19



×