PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG TẠI VIỆT NAM
VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN THÁCH THỨC ĐẶT RA
Vụ Kết cấu hạ tầng và đô thị
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng ở nước ta trong thời gian
vừa qua
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã dành sự
quan tâm lớn đến đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) kinh
tế - xã hội. Nguồn lực đầu tư phát triển CSHT ngày càng lớn và đa dạng.
Trong mười năm qua, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển CSHT chiếm khoảng
24,5% tổng đầu tư xã hội, bằng khoảng 9% GDP, trong đó vốn đầu tư
từ ngân sách nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước chiếm
65%. Cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa dạng, ngoài nguồn lực nhà nước,
đã và đang mở rộng sự tham gia của toàn xã hội, đặt biệt là sự tham gia
đóng góp tự nguyện của nhân dân với nhiều hình thức đa dạng trong
phát triển hạ tầng nông thôn. Nhiều hình thức đầu tư phát triển CSHT
cùng các mô hình, phương thức đầu tư, kinh doanh các dịch vụ hạ tầng
được đa dạng hóa, mở rộng, các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án giao
thông theo hình thức BOT, BTO và BT ngày càng nhiều. Nhờ có sự đầu
tư trên, hệ thống CSHT ở nước ta có bước phát triển mạnh cả về chiều
rộng và chiều sâu, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, góp
phần bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực
văn hóa, xã hội, giảm nhẹ thiên tai và bảo đảm an ninh quốc phòng,
nâng cao đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền.
Nhiều công trình hiện đại đã được đầu tư xây dựng đạt tiêu chuẩn quốc
tế, tạo diện mạo mới của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Năng lực công nghệ và chất lượng nguồn
nhân lực trên các lĩnh vực xây dựng, quản lý và vận hành kết cấu hạ
625
tầng được nâng lên. Sự phát triển của hệ thống CSHT được thể hiện trên
các mặt sau:
1.1 Hạ tầng giao thông
*) Về đường bộ
Trong giai đoạn 2000-2010, tổng chiều dài đường bộ tăng 39.300
km từ 217.100 km năm 2000 lên 256.500 vào năm 2020, trong đó,
đường cao tốc từ 24 km năm 2000 tăng lên khoảng 150 km năm 2010,
quốc lộ tăng từ 15.500 km lên 17.000 km. Trong mười năm, đã phát
triển thêm 16.700 km đường xã và 12.400 km đường huyện, hơn 5.000
km đường tỉnh. Mạng lưới đường bộ đã được cải thiện rõ rệt, mật độ
đường bộ tăng lên đáng kể từ 0,66 km/km năm 2000 lên 0,77 km/km
vào năm 2010. Hàng loạt các công trình giao thông quy mô lớn, nhiều
tuyến đường trục giao thông chính yếu, nhiều cầu lớn đã và đang được
nâng cấp, xây dựng mới, bước đầu thiết lập được mạng lưới đường
huyết mạch tương đối đồng bộ, nâng cao đáng kể năng lực vận tải phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và bảo đảm quốc phòng,
an ninh của đất nước.
*) Về đường sắt
Đã có bước cải thiện về chất lượng và tổ chức vận tải. Tổng chiều
dài đường sắt đạt 2.654 km gồm ba loại: đường khổ 1.000 mm chiếm
85%, đường khổ 1.435 mm chiếm 6% và đường lồng chiếm 9%. Một
số tuyến chính đã được cải tạo, nâng cấp, nâng cao an toàn và rút ngắn
thời gian chạy tàu (tuyến đường sắt Bắc - Nam đã rút ngắn từ 42 giờ
xuống còn 29 giờ).
*) Về cảng biển
Cả nước hiện có 49 cảng phân bố khắp chiều dài ven biển từ Bắc
vào Nam, trong đó có 17 cảng loại I, 23 cảng loại II, chín cảng loại III,
tổng cộng có 166 bến cảng các loại, khoảng 332 cầu bến với tổng chiều
dài 39.951 m. Hệ thống cảng biển với quy mô và loại hình khác nhau,
khai thác được lợi thế tự nhiên của quốc gia và các địa phương ven biển,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều cảng biển tổng hợp
như các cảng Cái Lân, Hải Phòng, Cửa Lò, Vũng Áng, Tiên Sa, Quy
626
Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ từng bước được đầu tư, nâng cấp.
Đang xây dựng hai cảng cửa ngõ quốc tế là Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa
- Vũng Tàu) và Lạch Huyện (Hải Phòng). Tổng lượng hàng qua cảng
tăng nhanh từ 82,4 triệu tấn năm 2000 lên 254,9 triệu tấn năm 2010,
tăng bình quân 11,2%/năm.
*) Về hàng không
Cả nước hiện có 22 cảng hàng không đang hoạt động, trong đó có
tám cảng hàng không quốc tế. Nhiều cảng hàng không đã được chuyển
đổi mục đích từ phục vụ quân sự sang khai thác lưỡng dụng. Đã và đang
đầu tư cải tạo, nâng cấp các cảng hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất,
Điện Biên Phủ, Cát Bi, Vinh, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai,
Phù Cát, Cam Ranh, Buôn Ma Thuột, Pleiku, Liên Khương, Cần Thơ và
Phú Quốc, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa ngày
càng tăng.
*) Về đường thủy nội địa
Hiện nay, đã quản lý và khai thác được 15.436 km trên tổng chiều
dài sông, kênh có thể khai thác được là 41.900 km. Vận tải đường thủy
nội địa đã duy trì và giữ vững được thị phần ở mức 22% về hàng hóa và
17% về hành khách. Đã hoàn thành nâng cấp hai tuyến đường thuỷ phía
Nam (thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh - Kiên
Lương); phát triển tuyến vận tải thủy phục vụ thủy điện Sơn La, tuyến
vận tải thủy Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên; kênh Chợ Gạo;
các tuyến sông chính yếu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng
bằng sông Hồng...
*) Về giao thông nông thôn
Hệ thống đường giao thông nông thôn được chú trọng đầu tư
nâng cấp, là khâu đột phá trong xây dựng nông thôn mới. Đến đầu
năm 2010, cả nước có khoảng 272.900 km đường giao thông nông
thôn (gồm đường huyện, đường xã, đường thôn xóm, chưa tính đường
ra đồng ruộng) chiếm 82% tổng chiều dài mạng đường bộ, trong đó:
đường huyện 47.600 km, chiếm 14,30%; đường xã 148.300 km, chiếm
44,58%; đường thôn xóm khoảng 77.000 km, chiếm 23,16%. Tỷ lệ rải
627
mặt nhựa, bê - tông, xi - măng đạt 28,1% (tương đương 76.600 km, mục
tiêu đề ra đến hết năm 2010 là 30%).
1.2 Hạ tầng năng lượng
Hệ thống hạ tầng năng lượng đã được đầu tư phát triển nhanh, cơ
bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh năng
lượng quốc gia. Tiêu thụ năng lượng sơ cấp tăng từ 32 triệu tấn dầu quy
đổi vào năm 2000 lên khoảng 61 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2010.
Trong mười năm qua, đã đầu tư mới và đưa vào khai thác hơn
13.361 MW công suất nguồn điện, trong đó: thủy điện là 3.991 MW,
nhiệt điện là 4.723 MW, đưa tổng công suất lên 21.500 MW vào cuối
năm 2010, công suất khả dụng đạt 19.713 MW; đồng thời đầu tư và
đưa vào sử dụng khoảng 86.000 km đường dây truyền tải và 63.500
MVA công suất các trạm biến áp lưới truyền tải và phân phối trung cao
áp, đưa tổng công suất lên 21.500 MW, công suất khả dụng đạt 19.713
MW và tổng chiều dài lưới truyền tải và phân phối điện lên 377.000
km. Tổng lượng điện sản xuất tăng từ 26,6 tỷ kWh năm 2000 lên 100 tỷ
kWh năm 2010, tăng 3,76 lần, đáp ứng nhu cầu phụ tải điện tăng nhanh
với tốc độ bình quân 14,5%/năm.
Hệ thống năng lượng được phát triển theo hướng đa dạng hóa
nguồn cung cấp, từ chỗ phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thủy năng, than
sang cơ cấu nguồn đa dạng gồm năng lượng than, dầu khí, thủy năng
và các dạng năng lượng khác. Tỷ trọng năng lượng tái tạo đã được
khuyến khích phát triển, chiếm 3% vào năm 2010. Các nguồn năng
lượng sơ cấp đã và đang được thăm dò, nâng cao trữ lượng xác minh
nhằm bảo đảm yêu cầu phát triển. Việc đầu tư các công trình khai thác,
vận chuyển và chế biến dầu khí đã làm giảm đáng kể sự phụ thuộc vào
năng lượng nhập khẩu và đẩy nhanh quá trình đa dạng hóa các nguồn
cung cấp năng lượng.
Hệ thống khai thác, chế biến vận chuyển và phân phối khí có hai
mạng đường ống vận chuyển khí tự nhiên và đồng hành từ các mỏ khí
khu vực Nam Côn Sơn, Bạch Hổ (Bà Rịa - Vũng Tàu) và ở vùng biển
Tây Nam (Cà Mau), cung cấp khí đốt cho các cơ sở sản xuất, chế biến
628
khí, các cơ sở nhiệt điện khí, các nhu cầu phát triển công nghiệp và đáp
ứng một phần khí đốt cho dân dụng.
1.3. Hạ tầng thủy lợi
Tổng năng lực của các hệ thống hạ tầng thủy lợi đã bảo đảm tưới
trực tiếp 3,45 triệu ha đất canh tác, tạo nguồn cho 1,13 triệu ha, tưới tiêu
1,72 triệu ha, ngăn mặn cho 0,87 triệu ha và cải tạo chua phèn 1,6 triệu
ha; cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ khoảng 5,5-6 tỷ m3/
năm. Các công trình thủy lợi đã góp phần cải tạo môi trường, phát triển
các vùng chuyên canh, phát triển nhanh và ổn định diện tích canh tác,
năng suất, sản lượng lúa... đồng thời tạo điều kiện phát triển bền vững
nuôi trồng thủy sản. Đến nay, cả nước đã có gần 100 hệ thống thủy lợi
vừa và lớn, trong đó có 1.967 hồ chứa có dung tích trên 0,2 triệu m3,
10.000 trạm bơm (công suất 24,8 triệu m3/h), 1.000 km kênh trục lớn,
5.000 cống tưới tiêu lớn và 23.000 km đê bao các loại.
Các hệ thống công trình phòng chống lũ và ứng phó với nước biển
dâng, hiện có: 5.700 km đê sông, 3.000 km đê biển, 23.000 km bờ bao
và hàng ngàn cống dưới đê, hàng trăm km kè và các hồ chứa lớn tham
gia chống lũ cho hạ du. Hệ thống đê biển ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
có thể ngăn mặn và chịu được bão cấp 9 đồng thời với triều cường tần
suất 10%. Hệ thống đê Trung Bộ, bờ bao Đồng bằng sông Cửu Long
chống được lũ sớm và lũ tiểu mãn để bảo vệ sản xuất vụ Hè Thu và
Đông Xuân.
Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 7.000 km bờ bao chống lũ
bảo vệ cho vụ lúa Hè - Thu. Đang đầu tư củng cố, nâng cấp 450km đê
biển, 1.290 km đê sông và khoảng 7.000 km bờ bao ven các kênh rạch
nội đồng để ngăn mặn cho vùng ven biển. Có hơn 200 km đê bao giữ
nước chống cháy cho các khu rừng tràm tập trung.
Các công trình hồ chứa lớn và vừa ở thượng lưu đã từng bước
bảo đảm chống lũ cho công trình và tham gia cắt lũ cho hạ du. Các
công trình chống lũ ở Đồng bằng sông Hồng vẫn được duy tu, củng cố
thường xuyên bảo đảm chất lượng và an toàn trong hoạt động.
Cấp nước sinh hoạt và bảo vệ môi trường cho khu vực nông thôn
đã có bước tiến bộ. Tính đến cuối năm 2010 đã có 85% dân số nông
629
thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, hầu hết nhà trẻ, trường
học, trạm xá và các công trình công cộng khác ở nông thôn có đủ nước
hợp vệ sinh; giảm thiểu ô nhiễm môi trường các làng nghề. Quy mô,
công nghệ cấp nước cũng được cải thiện, chuyển dần từ các công trình
cấp nước nhỏ lẻ theo hộ gia đình thành các công trình cấp nước tập
trung. 15% số xã, 6% số thôn có hệ thống thoát nước thải chung.
Hạ tầng thuỷ sản được đầu tư xây dựng các cảng cá, bến cá, khu
neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, các vùng sản xuất giống thuỷ sản, hạ
tầng các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, các cơ sở nghiên cứu, đào
tạo phát triển nguồn nhân lực, các công trình quan trắc và cảnh báo môi
trường, cơ sở khảo nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm soát chất
lượng thuỷ sản…, tạo điều kiện cho tăng trưởng bền vững ngành thuỷ
sản. Việc hình thành hệ thống cảng cá, bến cá dọc 28 tỉnh ven biển đã
phát huy được đầu mối hậu cần nghề cá, đặc biệt là các cảng cá khu vực
đã thu hút được nhiều lượt tàu cá ra, vào cập cảng. Đến hết năm 2010,
đã hoàn thành sáu khu neo đậu tránh trú bão cấp vùng gồm khu neo đậu
tránh trũ bão Lạch Hới (Thanh Hóa), Thọ Quang (Đà Nẵng), Tam Quan
(Bình Định), Hòn La (Quảng Bình), Hòn Rớ (Khánh Hòa), Ninh Trữ
(Ninh Thuận) và nhiều khu neo đậu của các địa phương. Các khu neo
đậu tránh trú bão đã bảo đảm an toàn cho tàu thuyền hoạt động nghề cá,
nhiều nơi còn kết hợp là khu dịch vụ hậu cần nghề cá bảo đảm tiện ích
cho ngư dân.
1.4. Hạ tầng đô thị
Hơn mười năm qua, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, nhiều công
trình hạ tầng kỹ thuật đô thị như giao thông, cấp nước, thoát nước, chiếu
sáng, cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn… đã được cải tạo, nâng
cấp và xây dựng mới. Tỷ lệ đô thị hoá tăng từ 24,1% năm 2000 lên 30%
vào năm 2010. Mô hình khu đô thị mới hiện đại, đồng bộ hơn về hạ tầng
góp phần làm thay đổi diện mạo đô thị theo hướng văn minh, hiện đại,
nhất là tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Về giao thông đô thị, hệ thống giao thông đô thị từng bước được
cải thiện, nhiều công trình hạ tầng giao thông như các trục giao thông
630
chính, các tuyến hướng tâm, tuyến giao thông đối ngoại, các cửa ô, các
nút giao cắt, các đường vành đai được tập trung đầu tư nâng cấp, mở
rộng và xây dựng mới tương đối đồng bộ với hệ thống thoát nước, hè
đường, chiếu sáng và cây xanh, trong đó có một số dự án trọng điểm tại
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh như: cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy,
vành đai III, cầu vượt ngã tư Sở, ngã tư Vọng, hầm Kim Liên, đại lộ
Thăng Long; đại lộ Đông Tây, hầm Thủ Thiêm... Đã khởi công một số
dự án đường sắt đô thị như Hà Nội - Hà Đông, Nhổn - Ga Hà Nội, Bến
Thành - Suối Tiên. Tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang triển
khai xây dựng giao thông vận tải công cộng khối lượng lớn như tàu điện
ngầm, tàu điện trên cao, xe buýt nhanh.
Về cấp nước, đến năm 2010, cả nước có 420 hệ thống cấp nước tập
trung với tổng công suất thiết kế cấp nước đô thị đạt 6,2 triệu m3/ngàyđêm, tăng gấp ba lần năm 1998 (2,1 triệu m3/ngày-đêm); tỷ lệ dân số
đô thị được cung cấp nước đạt khoảng 76%; mức sử dụng nước sạch đô
thị đạt 90 lít/người/ngày; tất cả các thành phố, thị xã đều đã có các dự
án đầu tư cải tạo mở rộng hệ thống cấp nước; 45% thị trấn có hệ thống
cấp nước tập trung với quy mô từ 500 - 5.000 m3/ngày-đêm. Tỷ lệ nước
cấp cho sinh hoạt chiếm khoảng 60 - 70%, cho nhu cầu sản xuất công
nghiệp từ 20 - 25% và cho các dịch vụ khác khoảng 10 - 15% lượng
nước sản xuất.
Về thoát nước đô thị, có bước phát triển, tỷ lệ chiều dài tuyến cống
trên đầu người các đô thị lớn đạt 0,2 - 0,25 m/người, các đô thị nhỏ khác
đạt từ 0,05 - 0,08 m/người. Hầu hết các thành phố, thị xã là tỉnh lỵ cơ
bản đã có hệ thống thoát nước. Tại các khu công nghiệp và các khu đô
thị mới đều đã và đang xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải
tập trung. Đến 2010 đã có 8 đô thị xây dựng trạm xử lý nước thải tập
trung với tổng công suất xử lý đạt khoảng 315.000 m3/ngày-đêm, hơn
30 đô thị đang xây dựng hoặc chuẩn bị xây dựng trạm xử lý nước thải.
Nhiều dự án thoát nước lớn tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ bước đầu đã phát huy hiệu quả, góp phần
làm giảm mức độ ngập úng vào mùa mưa. Tính đến hết năm 2010, cả
631
nước có 47 dự án ODA về thoát nước và xử lý rác thải với tổng mức đầu
tư khoảng 42.000 tỷ đồng.
Về xử lý rác thải rắn, tổng lượng rác thải sinh hoạt phát sinh tại các
đô thị khoảng 29.000 - 30.000 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom và xử lý trung
bình đạt khoảng 83%. Nhiều thành phố đã có quy hoạch xây dựng các
cơ sở xử lý rác thải, nhưng chủ yếu vẫn áp dụng các biện pháp truyền
thống (tập trung, chôn lấp…).
Về truyền tải, phân phối điện và thông tin liên lạc, các hệ thống
truyền tải, phân phối điện và thông tin liên lạc được đầu tư nâng cấp và
đang ngầm hóa, cải thiện bộ mặt đô thị tại các thành phố lớn như Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh.
1.5. Hạ tầng thông tin và truyền thông
Hệ thống CSHT thông tin được xây dựng rộng khắp, tương đối
hiện đại. Hệ thống mạng viễn thông, thông tin quốc gia phát triển nhanh,
với công nghệ tiên tiến, bao phủ rộng khắp cả nước, kết nối với thông
lượng lớn tới các nước trong khu vực và thế giới. Đến năm 2010, số
thuê bao internet/100 dân đạt 30 và số máy điện thoại/100 dân đạt 180,
vào loại cao trên thế giới. Hệ thống kết nối với quốc tế phát triển đa
dạng cả về phương thức truyền dẫn và tốc độ kết nối, bao gồm các hệ
thống cáp quang dưới biển, trên đất liền và các trạm thông tin vệ tinh
mặt đất, hình thành siêu xa lộ thông tin trong nước và liên kết quốc tế.
Việc phóng thành công vệ tinh viễn thông Vinasat-1 đã đưa Việt Nam
trở thành nước thứ 93 trên thế giới và nước thứ sáu trong khu vực có
vệ tinh riêng. Vinasat-1 giúp hoàn thiện hơn CSHT thông tin liên lạc,
không còn phụ thuộc địa hình, đồng thời nâng cao năng lực mạng lưới,
chất lượng dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin, phát thanh, truyền
hình của Việt Nam. Lĩnh vực viễn thông và Internet băng rộng phát
triển mạnh, cung cấp nhiều loại hình dịch vụ với chất lượng ngày một
tốt hơn, giá cước giảm mạnh, tạo được thị trường cạnh tranh.
Ứng dụng công nghệ thông tin đã trở thành hoạt động thường
xuyên, được triển khai tích cực ở các ngành, lĩnh vực kinh tế và trong
632
các cơ quan quản lý nhà nước, gắn kết chặt chẽ với cải cách thủ tục
hành chính, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất lao động
xã hội. Một số hệ thống thông tin chuyên ngành có quy mô quốc gia đã
được triển khai và đưa vào sử dụng như hệ thống dự báo thời tiết, thông
tin tài chính, thuế, hải quan và hệ thống thanh toán điện tử liên ngân
hàng. Các dịch vụ công cộng (giáo dục, đào tạo từ xa, chẩn đoán bệnh
từ xa, thư viện điện tử...) đã đạt nhiều thành tựu. Nhiều doanh nghiệp
đã đầu tư công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh
tranh. Thương mại điện tử phát triển nhanh đã hỗ trợ kinh doanh và mở
rộng thị trường. Công nghệ thông tin cũng được ứng dụng nhiều trong
các hoạt động của xã hội.
1.6. Hạ tầng khu công nghiệp
Phát triển khu công nghiệp tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng
công nghiệp mới, hiện đại, có giá trị lâu dài. Tại các khu công nghiệp,
hệ thống CSHT kinh tế - kỹ thuật nói chung khá hoàn chỉnh, một số đạt
tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá, kho bãi, điện, nước, giao thông,
thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Tại các địa phương có các khu công nghiệp đã hoàn thành đầu tư cơ
bản và đi vào hoạt động, kết cấu hạ tầng được đầu tư tương đối đồng bộ
và hoàn thiện thực sự góp phần thay đổi diện mạo của địa phương, điển
hình là một số tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như Đồng
Nai, Bình Dương, Long An...
Đến năm 2010, có 267 khu công nghiệp được thành lập, trong đó
176 khu công nghiệp đã hoàn thành, hoặc cơ bản hoàn thành xây dựng
CSHT và đi vào hoạt động. Số khu công nghiệp còn lại được thành lập
trong thời gian gần đây còn đang trong quá trình đầu tư xây dựng cơ
bản. Tổng lượng vốn đăng ký của các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng
khu công nghiệp (lũy kế) đạt 2,7 tỷ USD và khoảng 120.000 tỷ đồng.
Các khu công nghiệp đã thu hút được 4.041 dự án đầu tư nước ngoài
với tổng vốn đăng ký là 56,5 tỷ USD; 4.521 dự án đầu tư trong nước với
tổng vốn đăng ký là 365.000 tỷ đồng; đóng góp khoảng 35% giá trị sản
633
xuất toàn ngành công nghiệp và 20% giá trị xuất khẩu của cả nước; tạo
được 1,616 triệu việc làm.
1.7. Hạ tầng thương mại
Hạ tầng xuất - nhập khẩu được đầu tư phát triển tại các cảng cửa
khẩu, các khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu, các đô thị lớn. Đến 2010, cả
nước có khoảng 800 - 900 doanh nghiệp kinh doanh logistics đáp ứng
được khoảng 1/4 nhu cầu cung cấp dịch vụ xuất nhập khẩu.
Hạ tầng bán buôn hàng hoá phát triển mạnh loại hình chợ truyền
thống, thường ở vị trí trung tâm ở các đô thị.
Hạ tầng bán lẻ tiếp tục phát triển trên các loại hình bán lẻ truyền
thống, chiếm tới 70 - 80% thị phần tổng mức bán lẻ trên thị trường cả
nước. Đang phát triển mạnh các hình thức bán lẻ hiện đại như siêu thị,
cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, nhất là ở Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh. Đến nay, cả nước đã có khoảng 450 siêu thị. 14 tỉnh, thành
phố có trung tâm hội chợ triển lãm thương mại.
Hạ tầng thương mại điện tử có bước phát triển nhanh cả về CSHT
công nghệ, nguồn nhân lực và các giao dịch thương mại. Các doanh
nghiệp đã ngày càng quan tâm và đầu tư nhiều hơn vào phát triển CSHT
thương mại điện tử trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Phương thức
thanh toán và giao hàng cũng được các doanh nghiệp thực hiện rất linh
hoạt, đáp ứng hầu hết các yêu cầu của người mua từ thanh toán trực
tuyến, chuyển khoản sau khi đặt hàng cho đến thanh toán khi nhận
hàng. Chi phí đầu tư cho thương mại điện tử và công nghệ thông tin chỉ
chiếm khoảng 5% tổng chi phí, nhưng trung bình 33% doanh thu của
doanh nghiệp là từ các đơn đặt hàng qua phương tiện điện tử và doanh
nghiệp cũng dành bình quân 28% chi phí mua hàng cho việc đặt hàng
qua các kênh điện tử.
1.8. Hạ tầng giáo dục, đào tạo
Cơ sở vật chất - kỹ thuật cho giáo dục, đào tạo được cải thiện nhiều.
Nhà nước đầu tư nhiều hơn cho giáo dục, đào tạo, kể cả đầu tư từ ngân
sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ. Thông qua chương trình kiên
634
cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên cùng các chương
trình khác đã làm đổi thay căn bản cơ sở vật chất giáo dục phổ thông
trên phạm vi cả nước. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh,
huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội. Đến năm 2010, cả nước
có trên 41.000 trường và 620.000 phòng học, trong đó có 11.930 trường
mầm non (tăng 1,5 lần sau 10 năm), 15.400 trường tiểu học, 10.800
trường trung học cơ sở và 2.900 trường trung học phổ thông. Số trường
mầm non đạt chuẩn quốc gia là 15,8%; tiểu học là 36,6%, trung học cơ
sở 17,7% và trung học phổ thông là 9,5%. Hơn 80.000 phòng học các
cấp, gần 25.000 nhà công vụ đã được xây dựng kiên cố, đáp ứng yêu
cầu kiên cố bền vững và các tiêu chuẩn về diện tích, ánh sáng theo quy
định hiện hành, tạo điều kiện cho các trường phấn đấu đạt chuẩn quốc
gia và hoàn thiện dần mạng lưới trường học ở các địa phương. Hệ thống
các trường ngoài công lập phát triển mạnh.
Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng phát triển nhanh. Đến nay
cả nước có 414 trường đại học, cao đẳng, tăng 261 trường so với năm
2000, trong đó, có 2 đại học cấp quốc gia, 6 đại học cấp vùng, 22 trường
khối quân sự, 8 trường khối công an, 19 đại học địa phương, 80 đại học
và 22 học viện. Số đại học dân lập, tư thục là 56 trường, 4 trường dự bị
đại học và 190 trường cao đẳng.
Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển nhanh, đến năm 2010, cả nước
có trên 2.300 cơ sở dạy nghề (tăng 2,71 lần so với năm 2000), trong đó
có 123 trường cao đẳng nghề, 300 trường trung cấp nghề, 864 trung
tâm dạy nghề và hơn 1.000 cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có dạy
nghề. Năng lực đào tạo nghề tăng trên 2,2 lần so với năm 2000. Một
số trường đã xây dựng được các phòng thí nghiệm, thực hành hiện đại,
đáp ứng được nhiệm vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học; 100%
trường được đầu tư, trang bị phòng máy vi tính và nối mạng internet;
69,4% số trường có sử dụng phần mềm ứng dụng trong công tác giảng
dạy và học tập; 66,3% trường có website riêng; nhiều trường đã đầu tư
xây dựng được thư viện điện tử hiện đại, đạt tiêu chuẩn thư viện trong
635
nước và thế giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ trên 16% năm 2000
lên 40% năm 2010.
1.9. Hạ tầng y tế
Mạng lưới cơ sở khám chữa bệnh và y tế dự phòng được đầu tư mở
rộng. Tỷ lệ xã có trạm y tế tăng từ 96% năm 2000 lên 99% năm 2010.
Trong đó đạt chuẩn quốc gia là 79%, tất cả các huyện đều có bệnh viện
đa khoa. Tại các tỉnh, thành phố ngoài bệnh viện đa khoa, một số nơi đã
có thêm bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện y học cổ truyền, sản - nhi,
ung bướu,… Các bệnh viện tuyến trung ương được đầu tư, nâng cấp mở
rộng và nâng cao năng lực khám chữa bệnh. Nhiều cơ sở y tế ngoài công
lập đã được phát triển (hiện có 90 bệnh viện tư/5.600 giường). Tổng số
giường bệnh năm 2010 là 246.300 giường, tăng thêm 54.400 giường so
với năm 2000, chủ yếu tăng thêm là số giường bệnh viện. Số giường
bệnh trên 1 vạn dân tăng từ 24,7 giường năm 2000 lên 27 giường năm
2010, cao hơn trung bình của nhiều nước. Đã đầu tư xây dựng ba trung
tâm y tế chuyên sâu ở Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh.
Trong mười năm đã tăng thêm 300 cơ sở y tế, trong đó có 210 bệnh
viện, các bệnh viện đều tăng mạnh về quy mô khám, chữa bệnh. Nhiều
kỹ thuật, thiết bị tiên tiến trong chẩn đoán và điều trị bệnh được đầu tư,
kể cả việc nhập khẩu và sản xuất trong nước. Đến nay sản xuất trong
nước đã đáp ứng được 50% nhu cầu về thuốc chữa bệnh. Một số loại
thuốc, vaccine có thương hiệu đã được xuất khẩu.
1.10. Hạ tầng văn hóa, thể thao, du lịch
Các thiết chế văn hoá, hạ tầng thể thao từ Trung ương đến địa
phương có sự đổi mới, cơ sở vật chất được tăng cường; một số công
trình văn hoá, thể thao như nhà văn hóa, rạp hát, sân vận động, nhà thi
đấu đa năng, công viên… có quy mô khá lớn, hình thức kiến trúc đẹp
đã được đầu tư xây dựng. Các thiết chế văn hoá như: thư viện, bảo tàng,
nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng, điểm bưu điện văn hóa xã, các
điểm vui chơi giải trí, các đơn vị biểu diễn nghệ thuật và các hoạt động
dịch vụ văn hoá khác từng bước được đầu tư phát triển. Hệ thống các
636
trường văn hoá nghệ thuật, các cơ sở đào tạo vận động viên thể thao từ
Trung ương đến địa phương được chú trọng đầu tư.
Hạ tầng du lịch phát triển mạnh, đến năm 2010 đã có 12.000 cơ sở
lưu trú với 235.000 phòng, trong đó có 388 cơ sở lưu trú du lịch được
xếp hạng 3 sao trở lên với 40.052 phòng. Đã hình thành nhiều khu du
lịch cao cấp tại các bãi biển miền Trung, Phú Quốc và một số bãi biển
phía Bắc. Lượng khách du lịch tăng nhanh từ 14 triệu lượt năm 2001
(khách quốc tế 2,33 triệu) lên 33 triệu lượt năm 2010 (khách quốc tế 5
triệu); sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng, phong phú.
2. Những khó khăn, thách thức đặt ra
Một là, hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ,
chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mạng lưới giao thông chưa kết nối giữa các loại đường, giữa đường
với cảng, giữa các vùng, nên chưa có khả năng phát triển vận tải đa
phương thức. Tình trạng kỹ thuật của hệ thống đường bộ chưa cao, chất
lượng đường bộ còn thấp và lạc hậu. Đường cấp I, II, II chiếm 48,3%;
đường cấp IV chiếm 31,3% và đường cấp V chiếm 20,4%. Năng lực
thông qua hạn chế, đường bốn làn xe chỉ chiếm gần 4%, đường 2 làn xe
chiếm 36%. Tỷ lệ quốc lộ có tiêu chuẩn kỹ thuật cao và trung bình mới
chiếm 47%, tỷ lệ đường cao tốc mới chỉ đạt 0,1% trong khi ở Thái Lan
là 13,3%, Malaysia là 2,1% và Hàn Quốc là 3,3%. Chất lượng đường
giao thông nông thôn thấp, giao thông vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn. Công tác quản lý, bảo trì đường bộ còn chưa được coi trọng đúng
mức. Cơ cấu đầu tư cho xây dựng cơ bản và vốn bảo trì chưa hợp lý,
vốn đầu tư cho công tác bảo trì mới chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu
cầu bảo trì của hệ thống đường bộ.
Đường sắt chủ yếu là đường đơn khổ 1.000 mm, lại hạn chế về
kỹ thuật nên tốc độ chạy tàu thấp, kém an toàn, khai thác mới chỉ đạt
60-70% năng lực. Năng lực vận chuyển thấp, chưa có tuyến nào vượt
quá 25 đôi tàu/ngày-đêm, trong khi đó ở các nước tiên tiến con số này
là 40-45 đôi tàu/ngày-đêm. Trong tổng số trên 2.600 km đường sắt, chỉ
637
có 237 km khổ 1.435 mm. Đường sắt nối vào các cảng biển chưa được
chú trọng đầu tư. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên
chưa có đường sắt.
Hệ thống cảng biển quy mô, công nghệ kỹ thuật thấp, số cầu cảng
tiếp nhận được tàu 50.000 DWT chỉ chiếm có 1,4%, tỷ lệ bến chuyên
dùng cho hàng container còn thấp trong khi nhu cầu vận tải hàng này
tăng rất nhanh. Chưa có cảng trung chuyển quốc tế lớn, hiện đại, mặc dù
đã có những hải cảng quốc tế như Cảng Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng
đón nhận các tàu lớn, song dịch vụ của các cảng này chưa đáp ứng yêu
cầu. Quy hoạch bến bãi chưa tốt, không gian bến chưa hợp lý, quản lý
khai thác thiếu tính chuyên nghiệp nên hiệu quả bốc xếp container tại
các cảng Việt Nam thấp hơn mức trung bình của các cảng trong khu
vực. Hệ thống cảng sông còn rất lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hệ thống logistics còn yếu, tuy đã có một số cảng cạn (ICD) cho
hàng container song chưa phát huy được vai trò trung tâm tiếp nhận phân
phối, trung chuyển hàng hóa. Phí dịch vụ hàng hóa qua cảng cao, thời
gian thông quan kéo dài, chưa có cảng container trung chuyển quốc tế.
Trong 22 cảng hàng không, chưa có cảng hiện đại tầm cỡ quốc tế,
chưa có sân bay đạt tiêu chuẩn loại 4F hiện đại. Nhiều cảng hàng không
chưa đủ khả năng tiếp nhận máy bay vào ban đêm hoặc khi thời tiết xấu,
40% số cảng hàng không chỉ có khả năng khai thác máy bay nhỏ. Năng
lực vận tải hành khách và hàng hóa bằng đường hàng không còn thấp
so với các nước trong khu vực.
Công nghệ của hệ thống các nhà máy điện chỉ đạt trình độ trung
bình so với trình độ công nghệ của một số quốc gia trong khu vực và
trên thế giới. Hệ thống lưới điện chất lượng thấp, tổn thất điện năng lớn
so với các nước trong khu vực và trên thế giới (của Việt Nam là 9,6%,
trong khi đó bình quân của thế giới là 8,4%).
Nhiều công trình thủy lợi chưa đồng bộ, hiệu quả thấp, nhiều công
trình xây dựng đã lâu ít được duy tu, bảo dưỡng, đang bị xuống cấp
nghiêm trọng, chỉ có 19% kênh mương được kiên cố hoá.
Hạ tầng các khu công nghiệp chưa đồng bộ, còn thiếu các công
638
trình hạ tầng xã hội thiết yếu, chậm đầu tư các công trình xử lý chất
thải.
Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển nhanh nhưng chưa
thực sự bền vững, độ phủ sóng của mạng viễn thông không đồng đều,
chất lượng và mạng lưới dịch vụ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của người
sử dụng. Mật độ băng rộng vẫn còn thấp so với nhiều nước trên quốc
tế và trong khu vực. Công nghệ thông tin chưa được phát triển như một
ngành hạ tầng phục vụ cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Mức độ
tin học hóa trong các ngành, lĩnh vực còn rất thấp, công nghệ thông tin
chưa thấm sâu vào từng sản phẩm của mỗi ngành, đóng góp của công
nghệ thông tin cho giá trị gia tăng trong cấu thành sản phẩm còn ít. Quy
mô công nghiệp công nghệ thông tin còn nhỏ, năng lực hoạt động và
khả năng cạnh tranh còn yếu. Công nghiệp phần mềm còn manh mún,
năng lực nghiên cứu và phát triển chưa cao, đội ngũ nhân lực còn thiếu
về số lượng và yếu về các kỹ năng chuyên sâu cũng như ngoại ngữ. Tỷ
lệ nội địa hoá và hàm lượng giá trị gia tăng của công nghiệp phần cứng,
điện tử không cao, chỉ chiếm khoảng hơn 10% tổng doanh thu. Công
nghiệp nội dung số và công nghiệp dịch vụ vẫn còn mang tính sơ khai.
Công trình kết cấu hạ tầng đa mục tiêu còn ít, hiệu quả đầu tư thấp
do thiếu sự phối hợp trong quy hoạch và quản lý quy hoạch giao thông
với thủy lợi, thủy điện, kinh tế biển, dịch vụ, du lịch…
Hai là, hạ tầng đô thị thiếu đồng bộ, chất lượng kém và quá tải.
Giao thông đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tỷ lệ đất dành
cho giao thông quá thấp (Hà Nội mới chỉ đạt 6-7%, thành phố Hồ Chí
Minh 8%, trong khi tiêu chí quy định là 20-25%). Mật độ đường tại
các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng chỉ đạt 4-5 km/km2. Trong mạng lưới, các đường giao thông
chính, đường xuyên tâm, các tuyến vận tải công cộng khối lượng lớn
như hệ thống đường sắt ngầm, đường sắt trên cao và đường vành đai
chưa được xây dựng hoàn thiện, khép kín, ảnh hướng lớn đến tổ chức
và giải quyết các vấn đề giao thông. Vận tải công cộng chưa đáp ứng
kịp nhu cầu (xe buýt Hà Nội chỉ đáp ứng khoảng 15%; thành phố Hồ
639
Chí Minh 10%, Đà Nẵng và Hải Phòng khoảng 3%). Tỷ lệ đất dành cho
giao thông tĩnh rất thấp, chỉ khoảng dưới 1%, Hà Nội chỉ có 0,23% và
thành phố Hồ Chí Minh 1% so với diện tích đất xây dựng đô thị (yêu
cầu là 3-5%). Hệ thống bến bãi, điểm đỗ xe thiếu về số lượng, kém về
chất lượng phục vụ.
Thiếu hệ thống đường vành đai liên kết vùng và hệ thống giao
thông công cộng liên vùng. Hệ thống giao thông kết nối giữa các đô
thị lớn với các đầu mối giao thông liên vùng và quốc tế còn hạn chế, tổ
chức vận tải chưa hợp lý. Việc tin học hóa tổ chức vận tải đa phương
thức chưa được áp dụng.
Chất lượng cấp điện khu vực đô thị còn kém, thiếu ổn định. Tỷ lệ
đường dây được ngầm hóa còn thấp.
Cấp nước chưa đáp ứng được nhu cầu. Tỷ lệ thất thoát nước sạch
đô thị ở mức cao khoảng 30%, riêng ở thành phố Hồ Chí Minh là 39%;
tỷ lệ dân cư đô thị được cấp nước của Hà Nội mới đạt khoảng 88,5% và
thành phố Hồ Chí Minh khoảng 87%.
Hệ thống thoát nước còn hạn chế, lạc hậu. Phổ biến nhất ở các đô
thị là hệ thống thoát nước chung cho cả ba loại nước thải sinh hoạt,
nước thải sản xuất và nước mưa. Hầu hết các đô thị đều không có trạm
xử lý nước thải tập trung, nước thải sinh hoạt, bệnh viện, công nghiệp
không qua xử lý mà xả thẳng vào hệ thống cống thành phố, hồ ao, kênh
rạch, sông ngòi… gây ô nhiễm nặng nề. Tại các khu công nghiệp và các
khu đô thị mới đều đang xây dựng hệ thống thoát nước riêng, tuy vậy
vẫn chưa triệt để.
Tình trạng ngập úng đang là vấn đề lớn cần phải giải quyết của các
thành phố lớn. Các dự án cải tạo và xây dựng hệ thống thoát nước của
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua chưa giải
quyết một cách tổng thể cho hệ thống thoát nước thành phố. Ở Hà Nội,
các dự án mới dừng ở cải tạo hệ thống nước mưa cho 4 quận nội thành
cũ, hệ thống hồ điều hòa, các tuyến mương, cống chưa hoàn chỉnh theo
640
quy hoạch được duyệt. Triển khai các dự án chống ngập cho thành phố
Hồ Chí Minh còn chậm.
Chất thải rắn hầu hết đang sử dụng biện pháp chôn lấp, tốn nhiều
diện tích đất, không có khả năng tái chế, thu hồi và sử dụng lại nguồn
nguyên liệu từ rác thải phát sinh (Hà Nội khoảng 5.000 tấn/ngày, thành
phố Hồ Chí Minh khoảng 6.300-7.200 tấn/ngày).
Ba là, hạ tầng xã hội chưa đồng bộ, chất lượng thấp, hiệu quả sử
dụng chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu.
Hạ tầng giáo dục, đào tạo vẫn còn thiếu về số lượng, kém về chất
lượng chưa đáp ứng yêu cầu dạy và học tích cực, nhất là hệ thống
trường mầm non, mẫu giáo. Số trường đạt chuẩn quốc gia chiếm tỷ
trọng thấp (cao nhất là đối với tiểu học, đạt 36,6%). Thiếu các cơ sở đào
tạo đại học chất lượng cao đạt trình độ quốc tế. Phòng thí nghiệm, cơ sở
thực nghiệm, thư viện, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học
còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường đại học. Ký túc xá cho học
sinh, sinh viên còn thiếu. Hệ thống giáo dục đào tạo chưa đồng bộ, liên
thông, chưa cân đối giữa giáo dục nghề nghiệp với giáo dục trung học
phổ thông và giáo dục đại học.
Hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng yêu cầu, cơ
sở khám chữa bệnh còn thiếu, nhất là ở các vùng đông dân cư và vùng
sâu, vùng xa. Tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến
tỉnh chậm được khắc phục. Đầu tư cho y tế còn thấp, tỷ lệ chi ngân sách
nhà nước đạt khoảng 8,5%. Xã hội hóa trong lĩnh vực y tế còn nhiều hạn
chế. Tỷ lệ giường bệnh khu vực bệnh viện tư còn thấp, mới chỉ chiếm
3,8% tổng số giường bệnh. Trang bị của các cơ sở y tế còn thiếu và chưa
hiện đại, đặc biệt là đối với các cơ sở y tế tuyến địa phương, làm tăng
áp lực, quá tải đối với các cơ sở tuyến Trung ương. Vẫn chưa có những
cơ sở y tế chất lượng cao tầm cỡ khu vực và thế giới.
Hạ tầng văn hóa, thể thao, du lịch phát triển chưa đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của nhân dân. Chất lượng công trình và hiệu quả khai
thác, sử dụng còn thấp.
Bốn là, hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển còn chưa đồng đều,
641
nhất là ở các tỉnh miền núi và Đồng bằng sông Cửu Long.
Gần 20% số xã ở Tây Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long chưa có
đường ô tô đến trung tâm xã. Kết cấu hạ tầng các dịch vụ xã hội cơ bản
như y tế, giáo dục, đào tạo còn thiếu và yếu. Nhiều vùng còn thiếu nước
sinh hoạt gay gắt vào mùa khô, tỷ lệ dân nông thôn được sử dụng nước
hợp vệ sinh mới chỉ đạt 83% vào năm 2010, chất lượng nước sinh hoạt
mới được khoảng 30% đạt tiêu chuẩn y tế. Điện dùng cho nông nghiệp,
nông thôn chưa được bảo đảm ổn định, tỷ lệ hộ nông dân được cung cấp
điện mới chỉ đạt 95,4%. Tính đến năm 2011 cả nước vẫn còn 1,7 triệu
hộ dân chưa có điện, trong đó có 0,7 triệu hộ nông dân.
Năm là, nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội là
rất lớn, xong tiềm lực tài chính của đất nước còn nhiều hạn chế.
Việt Nam đang tiến hành thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH
năm năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển KT-XH mười năm 20112020 với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một
nước công nghiệp, có hệ thống CSHT tương đối hiện đại và đồng bộ.
Ngày 16/01/2012, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thông qua Nghị quyết số 13-NQ/TW về xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng đồng bộ nhằm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết này đã phác thảo bức
tranh tổng thể của CSHT Việt Nam vào năm 2020, với nhiều dự án hạ
tầng quan trọng có tính chất đột phá. Trong giai đoạn từ nay đến năm
2020, Việt Nam phấn đấu hoàn thành đường cao tốc Bắc - Nam, các
tuyến cao tốc kết nối đến các cảng hàng không, cảng biển lớn, phát
triển hệ thống đường sắt đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh;
nâng cấp hệ thống lưới điện, xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Ninh
Thuận và nhiều nhà máy điện khác; xây dựng và nâng cấp hệ thống
thủy lợi, đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; hiện đại hoá
và mở rộng công suất các bệnh viện tuyến Trung ương… Ước tính nhu
cầu vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng của Việt Nam trong giai
đoạn 2011-2020 là rất lớn, khoảng 400 tỷ USD, trong đó cho hạ tầng
giao thông là 154 tỷ USD, cho hạ tầng y tế là 8 tỷ USD, cho hạ tầng
642
thủy lợi là 11 tỷ USD, cho hạ tầng cấp điện là 45 tỷ USD, cho hạ tầng
đô thị khoảng 20 tỷ USD, cho hạ tầng cấp thoát nước và vệ sinh môi
trường là 16 tỷ USD, cho hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông là
14 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện nay quy mô của nền kinh tế Việt Nam còn
nhỏ bé. Khả năng cân đối vốn từ nguồn ngân sách nhà nước cho đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng là rất hạn chế, chỉ đáp ứng được khoảng 50%
nhu cầu.
2. Một số khuyến nghị nhằm phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
ở Việt Nam
Một là, cần tránh đầu tư dàn trải, tập trung đầu tư cho các công
trình quan trọng có tính chất đột phá.
Hai là, sớm ban hành Luật Đầu tư công để tăng hiệu quả đầu tư,
tránh thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng CSHT.
Ba là, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong
và ngoài nước cho đầu tư phát triển CSHT. Thực hiện đa dạng hóa
phương thức đầu tư, đặc biệt đẩy mạnh đầu tư theo hình thức PPP.
Bốn là, tiếp tục tranh thủ các nguồn vốn ODA cho đầu tư phát triển
CSHT nhất là các công trình giao thông quy mô lớn.
Năm là, đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ mới trong đầu tư
xây dựng và quản lý vận hành công trình CSHT nhằm rút ngắn trình độ
phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Sáu là, tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành trong đầu tư
xây dựng CSHT nhằm bảo đảm sự đồng bộ của cả hệ thống.
Bảy là, đẩy mạnh huy động sự đóng góp của nhân dân trong phát
triển hệ thống giao thông nông thôn./.
643