Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn đảng bộ tỉnh nam định lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 2001 đến năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.22 KB, 105 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
THANH NIÊN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 ...................................................8
1.1. Chủ trương của Đảng về công tác thanh niên từ năm 2001 đến năm 2005 8
1.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên..............8
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Định về công tác thanh niên từ năm
2001 đến năm 2005 ....................................................................................................15
1.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định chỉ đạo công tác thanh niên từ năm
2001 đến năm 2005 ..................................................................................................25
1.2.1. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ ..................................................................25
1.2.2. Những kết quả đạt được .............................................................................31
Tiểu kết ................................................................................................................35
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CÔNG
TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2011 ........................................37
2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Định về công tác thanh niên từ năm
2006 đến năm 2011...................................................................................................37
2.1.1. Tình hình và yêu cầu mới về công tác thanh niên ở tỉnh Nam Định.........37
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ ............................................................................44
2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Nam Định .....................50
2.2.1. Quá trình chỉ đạo thực hiện .......................................................................50
2.2.2. Những kết quả đạt được .............................................................................59
Tiểu kết ................................................................................................................66
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU...69
3.1. Nhận xét chung ............................................................................................69
3.1.1. Kết quả đạt được ........................................................................................69
3.1.2. Hạn chế ......................................................................................................73
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ......................................................................77
3.2.1. Kinh nghiệm trong xác định chủ trương ...................................................78
3.1.2. Kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện ........................................................83
KẾT LUẬN ..............................................................................................................88


TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................90
PHỤ LỤC..................................................................................................................97

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, thanh niên luôn
được xem là rường cột và tương lai của đất nước. Thanh niên luôn là lực
lượng xung kích trong các cuộc đấu tranh cách mạng, có vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Thanh niên có trong mọi
giai cấp, mọi tầng lớp, mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Họ ở
trong độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động,
sáng tạo, muốn tự khẳng định mình.
Song, thanh niên cũng chứa đựng rất nhiều vấn đề phức tạp: do độ tuổi
còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, lại không phải là một khối thuần nhất; từ đó đòi
hỏi phải được quan tâm, định hướng và chăm lo giải quyết. Thanh niên rất
cần sự giúp đỡ của các thế hệ đi trước và toàn xã hội. Họ là lớp đối tượng
chưa từng trải nên dễ hoang mang dao động trước khó khăn, dễ bị kích động,
nhẹ dạ cả tin, tiếp nhận thông tin ít chọn lọc, tạo nên yếu tố tiêu cực trong
cuộc sống. Họ đang ở độ tuổi năng động, hăng hái, sôi nổi, nhiệt tình song
cũng dễ sa vào trạng thái cực đoan, chạy theo lối sống thực dụng.
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã
chứng minh rằng: không phải thời đại nào sức mạnh thanh niên cũng được
phát huy một cách cao nhất mà nó phụ thuộc vào sự tiến bộ trong nhận thức
và chính sách, chủ trương của lãnh đạo thời kỳ đó.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn đề cao vai trò, vị trí của
thanh niên, coi công tác thanh niên là nhiệm vụ sống còn của Đảng và dân
tộc. Đồng thời, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng,

tổ chức thanh niên thành lực lượng hùng hậu, kế tục sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Dù bất cứ hoàn cảnh nào các thế hệ thanh niên đều hoàn thành xuất sắc
sứ mệnh lịch sử của mình.

2


Thực tế, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách, quán triệt tới tận các cấp ủy địa phương
nhằm phát huy vai trò làm chủ to lớn của thanh niên.
Trên tinh thần chỉ đạo của Đảng, Đảng bộ tỉnh Nam Định bằng nhiều
hình thức, phương pháp khác nhau đã thu hút thanh niên đi đầu trong việc
thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Công tác thanh niên
của tỉnh đã có những chuyển biến rõ rệt về nội dung và hình thức sinh hoạt.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đạt được vẫn còn nhiều hạn chế:
Công tác thanh niên còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp bởi vì: thanh niên đi
làm ăn nhiều, ít tham gia vào các hoạt động của tổ chức; hình thức sinh hoạt
chưa được thường xuyên; đội ngũ cán bộ lãnh đạo ít được đào tạo về kỹ năng,
nghiệp vụ nên hoạt động của công tác thanh niên chưa đạt được hiệu quả cao.
Là một người con sinh ra trên mảnh đất Thành Nam, nhằm góp phần
làm cho công tác thanh niên thêm sôi động và phong phú, mặc dù còn
nhiều khó khăn trong công tác thu thập tài liệu nhưng tôi vẫn quyết định
chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác thanh niên từ
năm 2001 đến năm 2011" làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công tác thanh niên là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác
vận động quần chúng của Đảng ta. Do vậy, vấn đề lãnh đạo công tác thanh
niên đã được đề cập trong rất nhiều nguồn tài liệu khác nhau: sách, báo, tạp
chí, luận văn, luận án... Tiêu biểu có: “Đảng – Người tổ chức và lãnh đạo

Đoàn thanh niên chúng ta” (1975) do TW Đoàn thanh niên cứu quốc xuất
bản, “Vấn đề rèn luyện tư tưởng của thanh niên” (1961) của tác giả Hoàng
Tùng do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành, “Thanh niên học tập và cải tạo tư
tưởng” (1951) do Đoàn thanh niên cứu quốc xuất bản...

3


Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
Ban Tuyên giáo tỉnh Nam Định đã kết hợp với các ban ngành, các địa
phương, cơ sở cho ra đời một số cuốn lịch sử Đảng bộ xã, Đảng bộ huyện.
Với sự ra đời cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định (1930 - 1975)” đã ghi
lại đầy đủ những dấu mốc và bước chuyển quan trọng của tỉnh Nam Định.
Ngoài ra, ở một số báo, tạp chí như báo Nhân dân, báo Pháp luật, báo
Thanh niên, báo Nam Định cũng có một số bài nghiên cứu về Nam Định
trên các lĩnh vực như tình hình phát triển kinh tế xã hội, một số vấn đề
chính trị xã hội diễn ra trên địa bàn, công tác Đoàn và phong trào thanh
niên của Đảng bộ tỉnh Nam Định.
Ngoài việc tham khảo các văn kiện Đảng, các tác phẩm của Mác –
Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, các nghị quyết, các báo cáo tổng kết công tác
thanh niên của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguồn tư liệu chủ yếu
của Luận văn là các nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Nam Định, các bản báo cáo
về công tác Đoàn và phong trào thanh niên của Tỉnh ủy từ năm 2001 đến năm
2011. Bên cạnh đó, Luận văn còn sử dụng tư liệu của Ban Chấp hành Tỉnh
Đoàn về các phong trào hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh Nam Định từ năm 2001 đến năm 2011.
Những nguồn tư liệu nêu trên dưới nhiều cách tiếp cận, trình bày
khác nhau đã làm sáng tỏ thêm các vấn đề cụ thể về vai trò của thanh niên
đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, đối với tỉnh Nam
Định nói riêng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.

Nhưng nhìn chung chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống và chuyên sâu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định đối với
công tác thanh niên từ năm 2001 đến năm 2011. Kết quả của những công
trình này là tài liệu tham khảo giúp tôi có sự đối chiếu, so sánh, liên hệ
trong quá trình làm luận văn.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở khảo sát thực tế làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo công tác
thanh niên của Đảng bộ tỉnh Nam Định từ năm 2001 đến năm 2011.
- Góp phần làm sáng rõ những hoạt động về công tác thanh niên từ năm
2001 đến năm 2011
- Đánh giá kết quả và hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam
Định đối với công tác thanh niên từ năm 2001 đến năm 2011. Từ thực tiễn rút
ra một số bài học kinh nghiệm về lãnh đạo công tác thanh niên ở Nam Định.
Đồng thời nêu lên những giải pháp thiết thực, kiến nghị cụ thể để nâng cao
hơn nữa hiệu quả công tác thanh niên, có ý nghĩa tham khảo cho Đảng bộ tỉnh
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sưu tầm, tập hợp các tài liệu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến công
tác thanh niên tỉnh Nam Định từ năm 2001 đến năm 2011, đồng thời khai thác
triệt để các thông tin lịch sử có trong các tài liệu này để phục vụ cho đề tài
nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề công tác thanh niên.
- Phân tích chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định đối
với công tác thanh niên từ năm 2001 đến năm 2011.
- Làm rõ những hoạt động của công tác thanh niên Nam Định dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh từ năm 2001 đến năm 2011.

- Rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu về lãnh đạo công tác thanh
niên ở Đảng bộ Nam Định. Từ đó đề xuất một số giải pháp thiết thực với cấp
ủy Đảng chính quyền, các cấp bộ đoàn nhằm nâng cao chất lượng công tác
thanh niên trên địa bàn tỉnh Nam Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh Nam Định về công
tác thanh niên từ năm 2001 đến năm 2011.

5


- Thực tiễn hoạt động công tác thanh niên tỉnh Nam Định từ năm 2001
đến năm 2011.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Những nội dung nghiên cứu trên đây được giới hạn trong phạm vi tỉnh
Nam Định. Các vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Nam Định đối với công tác thanh niên từ năm 2001 đến năm 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện chủ yếu bằng hai phương pháp: phương pháp
lịch sử và phương pháp lôgíc. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các
phương pháp cụ thể khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê ...
5.2. Nguồn tư liệu
Luận văn khai thác chủ yếu từ các nguồn tư liệu như:
- Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh
Nam Định về công tác thanh niên từ năm 2001 đến năm 2011.
- Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Nam Định
qua từng thời kỳ.

- Các báo cáo chung về việc thực hiện công tác Đoàn và phong trào
thanh niên của Tỉnh ủy; các báo cáo tổng kết năm, nhiệm kỳ của Tỉnh Đoàn
Nam Định về công tác thanh niên
- Nguồn tài liệu thành văn trên các sách báo, tạp chí có liên quan đến
nội dung của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Đề cập đến quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Nam
Định lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 2001 đến năm 2011.
- Những kinh nghiệm bước đầu về phát huy vai trò thanh niên có ý
nghĩa lý luận và phương pháp luận cũng như chỉ đạo hoạt động thực tiễn cho

6


công tác thanh niên của tỉnh Nam Định trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước .
- Góp phần tổng kết công tác thanh niên ở tỉnh Nam Định.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu cho việc biên soạn lịch sử truyền
thống của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Nam Định.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác thanh niên từ
năm 2001 đến năm 2005
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo đẩy mạnh công tác thanh
niên từ năm 2006 đến năm 2011.
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu.

7



CHƯƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
THANH NIÊN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Chủ trương của Đảng về công tác thanh niên từ năm 2001 đến
năm 2005
1.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên
Trong bất kỳ thời đại nào, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao
vị trí và vai trò của thanh niên đối với sự phát triển đi lên của đất nước. Thanh
niên là lực lượng xã hội to lớn, là một bộ phận nòng cốt trong sự nghiệp cách
mạng dân tộc, là chủ nhân tương lai của đất nước. Nhìn lại chiều dài lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, thanh niên đều là những người
làm nên lịch sử. Đặc biệt, từ khi có Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng
nhiệt huyết của tuổi trẻ, thanh niên đều là những người đi tiên phong châm
ngọn lửa nhiệt huyết cho cuộc cách mạng của dân tộc. Khi đất nước lâm
nguy, thanh niên là lực lượng xung kích tiến về phía trước đánh đuổi giặc
ngoại xâm, giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Bước vào thế kỷ XXI,
trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chủ động hội nhập
quốc tế sâu rộng thanh niên Việt Nam cũng đang thể hiện rõ khả năng của
mình, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của toàn dân tộc trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thanh niên là một trong những nội dung công tác rất quan trọng. Trước
khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh đã thành lập tổ chức thanh niên cách mạng là
tổ chức nền móng cho quá trình tiến tới xây dựng Đảng Cộng sản. Liên tục
trong suốt mấy chục năm qua, Đảng ta đã rất quan tâm đến công tác thanh
niên. Ngày 28 tháng 11 năm 2005, Quốc hội khóa XI đã chính thức thông qua
Luật Thanh niên sau hơn 20 năm chuẩn bị. Luật Thanh niên quy định: “Công
tác thanh niên là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội nhằm giáo

8



dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu và trưởng
thành, đồng thời phát huy vai trò xung kích, sức sáng tạo và tiềm năng to lớn
của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhận thức được “thanh niên là rường cột của nước nhà”, là lực lượng
xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, liên tục trong suốt mấy chục
năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác thanh niên
như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII (1993) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác thanh niên; Chỉ
thị số 145-TTg ngày 6/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thanh niên
tham gia thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội; Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ ngày 13/2/1998 thành lập Uỷ ban Quốc gia về thanh niên
Việt Nam; Quyết định số 70/2003/QĐ-TTg ngày 29/4/2003 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển Thanh niên Việt Nam đến năm
2010; Chỉ thị số 06/2005/CT-TTg ngày 21/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về phát huy vai trò của thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội trong
giai đoạn mới; Luật Thanh niên được ban hành ngày 29/11/2005 tạo cơ sở
pháp lý vững chắc nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác thanh niên
trong cả nước... Trước sự biến động nhanh chóng và phức tạp của tình hình
trong nước và thế giới thì những chỉ thị, nghị quyết trên góp phần quan trọng
trong việc xây dựng chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng (khóa VII) (1993)
về công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi
mới có thành công hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con
đường XHCN hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào
việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên”. Nghị quyết đã bàn sâu về thanh
niên, tạo ra một bước chuyển biến quan trọng trong công tác thanh niên của
Đảng ta thời kỳ CNH, HĐH. Nghị quyết là sự tiếp tục suy nghĩ, đánh giá cao

9



của Đảng ta về trọng trách đối với thanh niên, tầm quan trọng của công tác
thanh niên.
Đảng đặt niềm tin sâu sắc vào thanh niên, phát huy vai trò làm chủ
và tiềm năng to lớn của thanh niên để thanh niên thực hiện được sứ mệnh
lịch sử, đi đầu trong cuộc đấu tranh chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây
dựng và bảo vệ đất nước giàu mạnh, xã hội văn minh, nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Để phát huy tiềm năng to lớn đó, Đảng ta
luôn luôn chú ý “Thường xuyên chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và tạo điều
kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu để hình thành một thế hệ con người
mới có lý tưởng cao đẹp, có ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, có
sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước
và tinh thần quốc tế chân chính”.
Công tác thanh niên luôn được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị. Trong đó, “Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh... Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh
niên; thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng về thanh niên và công tác
thanh niên thành pháp luật, chính sách, chiến lược, chương trình hành động và
cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh hàng năm của các cấp, các ngành… Phát huy vai trò
của MTTQ và các đoàn thể, tổ chức kinh tế - xã hội nhân dân trong công tác
thanh niên và gia đình, phối hợp giáo dục, bồi dưỡng, phát huy thanh
niên”[28, tr.83-84].
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nắm chắc và vận dụng đúng đắn,
sáng tạo các quan điểm của Đảng là yếu tố quan trọng đầu tiên để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ công tác thanh niên nói chung và xây dựng chiến lược
phát triển thanh niên nói riêng nhằm hình thành một lớp thanh niên ưu tú,

10



vững vàng về chính trị, kiên định con đường XHCN, có phẩm chất đạo đức,
có tài năng đi đầu trong lực lượng thanh niên thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Đảng ta đã phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Cuộc vận
động này đã được sự hưởng ứng tích cực của đông đảo thanh niên cả nước.
“Tháng Thanh niên” đã được duy trì và phát triển hằng năm với tinh thần:
“Tuổi trẻ hành động vì cộng đồng và xã hội, chăm lo bồi dưỡng thanh niên”.
Với mục tiêu này đã khơi dậy được tính tích cực chính trị – xã hội của đoàn
viên và đã có sự liên kết, phối hợp hiệu quả trong hoạt động giữa các thành
phần thanh niên trong nhiều lĩnh vực như: các cơ quan hành chính Nhà nước;
các đơn vị xí nghiệp, nhà máy; thanh niên nông thôn; thanh niên thành thị.
Bước vào thế kỷ XXI, nhằm tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Đại
hội IX của Đảng (tháng 4/2001) nêu rõ: Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục,
bồi dưỡng, đào tạo và phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối
sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng
và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh
và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, phải đổi mới và
hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân
tộc, các tôn giáo... Đồng thời “hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng
nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội, trang bị cho
thanh niên những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động” [17, tr. 81]. Đặc biệt,
Đảng chủ trương thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục như: có chính
sách hỗ trợ những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tuyển chọn bồi
dưỡng học sinh giỏi, có năng khiếu ...
Nhằm trẻ hóa đội ngũ cán bộ của Đảng, Hội nghị Trung ương 6, khóa
IX (tháng 2/2002) xác định: tăng cường công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo


11


và quản lý. Đặc biệt quan tâm nguồn cán bộ lãnh đạo và quản lý trẻ có thành
tích xuất sắc, những cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ. Trong điều 44 Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX ghi rõ: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự
bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là trường học
XHCN; đại diện quyền lợi cho thanh niên. Cấp ủy Đảng lãnh đạo trực tiếp tổ
chức Đoàn cung cấp về phương hướng nhiệm vụ, tư tưởng, tổ chức, cán bộ.
Đảng có kế hoạch cử cán bộ và thanh niên ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài với
sô lượng và cơ cấu ngành nghề phù hợp; đồng thời khuyến khích phong trào
tự học, tự nâng cao trình độ cán bộ bằng nhiều hình thức.
Hội nghị TW 7 khóa IX (tháng 11/2002) tiếp tục nhấn mạnh một số nội
dung về công tác thanh niên như: “đẩy mạnh giáo dục nhận thức chính trị,
giáo dục truyền thống và đạo đức cách mạng, nâng cao giác ngộ lý tưởng và
hoài bão cho thanh niên, động viên thanh niên xung kích trong sự nghiệp
CHN, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực tạo việc làm cho thanh
niên. Khuyến khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm.
Tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên có tài năng đi học ở nước ngoài đề trở về
phục vụ đất nước”.
Nhằm giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ thanh niên Việt Nam phát
triển toàn diện, trở thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao và phát huy
vai trò xung kích, sáng tạo của thanh niên trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, ngày 29/4/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 70/2003/QĐTTg phê duyệt và ban hành Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến
năm 2010. Để đạt được các mục tiêu đề ra, Chiến lược đã đưa ra các giải pháp
chủ yếu như:
Về các chính sách đối với thanh niên, Chiến lược xác định: Đổi mới
việc xây dựng và thực hiện chính sách đối với thanh niên, chú trọng phát huy


12


vai trò của thanh niên và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong quá
trình xây dựng và thực hiện chính sách thanh niên. Lồng ghép các mục tiêu
phát triển thanh niên trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Xây
dựng lộ trình bổ sung, hoàn chỉnh các chính sách đối với thanh niên, trong đó
có chính sách phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, trình độ
khoa học và công nghệ cho sinh viên; chính sách về dạy nghề, hướng thanh
niên vào các ngành nghề mũi nhọn; chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện, cơ hội
thuận lợi cho các đối tượng thanh niên lầm lỗi, sai phạm được hòa nhập với
cộng đồng.
Về việc đầu tư xây dựng môi trường xã hội thuận lợi cho sự phát triển
toàn diện của thanh niên, Chiến lược nêu rõ: Phát triển phong trào thanh niên và
nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn Thanh niên các cấp. Tổ chức tốt các
hoạt động văn hóa - tinh thần cho thanh niên, quan tâm đến các đối tượng thanh
niên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và các vùng đặc biệt khó khăn.
Về việc xã hội hóa công tác thanh niên, Chiến lược khẳng định:
“Nhiệm vụ công tác thanh niên là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Vì vậy phải phối hợp chặt chẽ với
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cấp chính quyền, các tổ chức kinh tế, xã hội,
lực lượng vũ trang trong công tác giáo dục, bồi dưỡng, phát huy vai trò của
thanh niên.
Về việc hợp tác quốc tế trong thanh niên, Chiến lược nêu rõ: tăng
cường công tác đối ngoại nhà nước trong lĩnh vực thanh niên, mở rộng quan
hệ giao lưu, quan hệ hợp tác quốc tế với các tổ chức thanh niên trong khu vực
và trên thế giới. Phát huy vai trò của tổ chức Đoàn trong quan hệ đối ngoại
thanh niên, tranh thủ nguồn lực và sự hỗ trợ quốc tế cho công tác thanh niên.
Chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền vận động thanh niên và người Việt
Nam ở nước ngoài.


13


Về lãnh đạo, tổ chức quản lý công tác thanh niên, Chiến lược nêu rõ:
Tăng cường và đổi mới quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Tăng cường
trách nhiệm của các cấp chính quyền, các bộ, ngành và có sự phối hợp chặt
chẽ để giải quyết các nhiệm vụ liên ngành về công tác thanh niên. Tăng
cường công tác nghiên cứu, thông tin về thanh niên.
Đảng đã chủ trương đưa ra các đề án, chương trình giải quyết việc làm
cho thanh niên; chương trình nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghề
nghiệp của thanh niên; chương trình phát triển nguồn nhân lực trẻ về khoa
học công nghệ; chương trình phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội trong
thanh niên; chương trình bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, lối
sống cho thanh niên.
Đại hội lần thứ X của Đảng (tháng 4/2006) nhấn mạnh: Đối với thế hệ
trẻ thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối
sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ...
khuyến khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm. Thu
hút rộng rãi thanh niên vào các tổ chức do Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh làm nòng cốt và phụ trách.
Đặc biệt, ngày 25/7/2008, Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khóa X
đã dành thời gian trong chương trình nghị sự để quyết định những vấn đề
quan trọng trong đề án "Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH". Đề án khẳng định một trong
những thành tựu của công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đã xây dựng được
một thế hệ thanh niên thời kỳ mới có tri thức, có sức khỏe tốt và tư duy phát
triển mới, tiếp nối được truyền thống hào hùng của dân tộc, của Đảng ta, nêu
cao ý thức yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, sẵn sàng hy sinh, tình nguyện vì lợi
ích cộng đồng, có trách nhiệm với gia đình và xã hội. Một lần nữa Đảng ta

khẳng định việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người

14


"vừa hồng, vừa chuyên" theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời có sự đòi hỏi tự thân
vận động và sự nỗ lực rèn luyện, phấn đấu không ngừng của thanh niên góp
phần vào mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” [27, tr. 162].
Ngày 11 tháng 9 năm 2009, Chính phủ ra Nghị quyết số 45/NQ-CP về
ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện địa hóa
đã xác định rõ mục tiêu: Chú trọng xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu
lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, có lối sống
văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức
khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Rõ ràng ở bất kể giai đoạn nào, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đều
quan tâm lãnh đạo công tác thanh niên. Thực tế cho thấy, thông qua các Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đại hội IX và Đại hội X, những chủ trương
của Đảng về công tác thanh niên đã phù hợp và đáp ứng được nhu cầu mới
của phong trào thanh niên. Tư duy của Đảng ta về công tác thanh niên liên tục
không ngừng đổi mới để phù hợp với đối tượng tuổi trẻ qua từng thời kỳ cách
mạng. Theo quan điểm tư tưởng về thế hệ trẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng ta ngày càng nâng tầm nhận thức gắn lý luận với thực tiễn để lãnh đạo,
định hướng công tác thanh niên, tổ chức Đoàn ngày càng toàn diện, thật sự
"bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau".

1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Định về công tác thanh
niên từ năm 2001 đến năm 2005
* Vài nét về tỉnh Nam Định:

15


Nam Định nằm ở phía Nam vùng châu thổ sông Hồng, phía Bắc giáp
tỉnh Hà Nam, phía Đông giáp tỉnh Thái Bình, phía Đông Nam và Nam giáp
với biển Đông và phía Tây giáp tỉnh Ninh Bình. Năm 1965, hai tỉnh Hà Nam
và Nam Định sáp nhập thành tỉnh Nam Hà. Năm 1975, hai tỉnh Nam Hà và
Ninh Bình sáp nhập thành tỉnh Hà Nam Ninh. Từ ngày 6-11-1996 lại quay trở
về là tỉnh Nam Định. Tỉnh có 9 huyện và 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 230 xã,
phường, thị trấn. Ngày 29-9-1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
183/1998/QĐ-TTG công nhận thành phố Nam Định là đô thị loại 2. Ngày 2811-2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2106/QĐ-TTG công
nhận thành phố Nam Định là đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh Nam Định. Thành
phố Nam Định là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá của tỉnh, cách thủ đô
Hà Nội 90 km. Nơi đây từng là một trong những trung tâm công nghiệp dệt
của cả nước và trung tâm thương mại - dịch vụ, cửa ngõ phía Nam của đồng
bằng châu thổ sông Hồng.
Nam Định là vùng đất có nhiều di tích lịch sử và văn hoá được nhà
nước xếp hạng như: quần thể di tích Đền Trần - Bảo Lộc, tượng đài Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, quần thể di tích Phủ Giầy thờ bà chúa Liễu
Hạnh, chùa Keo Hành Thiện, chùa Cổ Lễ, nhà thờ Bùi Chu, đền Thánh Phú
Nhai, khu tưởng niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh…
Từ Triều Lý nền giáo dục quốc gia chính thức được xác lập có hệ thống
lấy Khổng Giáo làm nền tảng khẳng định qua việc xây Văn Miếu và Quốc Tử
Giám tại Kinh đô Thăng Long. Đến nhà Trần nền giáo dục càng được quan
tâm hơn nữa. Nam Định là kinh đô thứ hai, quê hương, đất phát tích vương
triều Trần nên giáo dục được ưu tiên đầu tư phát triển. Theo "Đại Nam nhất

thống chí" dưới triều Nguyễn, Nam Định có các trường học tỉnh Nam Định,
phủ Thiên Trường, phủ Nghĩa Hưng, huyện Nam Chấn, huyện Chân Ninh,
huyện Thiên Bản và Trường học huyện Phong Doanh. Ngoài trường do Nhà

16


nước phong kiến thành lập, Nam Định còn nhiều loại hình trường do các vị đỗ
đại khoa nhưng không ra làm quan, hoặc từ quan về quê lập ra. Sĩ tử khắp
vùng đều tìm đến, học trò lên tới hàng nghìn người.
Làng Hành Thiện (huyện Xuân Trường) nổi tiếng đất học. Dưới triều
Nguyễn, làng Hành Thiện có số người khoa mục đứng đầu cả nước: 3 tiến sĩ,
4 phó bảng, 87 cử nhân và tới hơn 200 tú tài. Không chỉ nhiều khoa bảng,
làng Hành Thiện còn nổi tiếng về đức kiên trì, không hề nản chí quyết tâm
theo đuổi nghiệp học hành, thi cử. Cùng với Xuân Trường, Ý Yên cũng là
huyện nổi tiếng "đất học", có số lượng đông nhất những người đỗ đệ nhị giáp
tiến sĩ cập đệ. Miệt mài với đèn sách, thi cử cốt để khẳng định mình chứ
người Nam Định hiếu học hoàn toàn không nhằm mục đích làm quan to hay
phô trương bằng cấp với thiên hạ. Người Nam Định học mong để hiểu đạo,
hiểu luật, hiểu đời sống cho có nghĩa.
Theo bia "Nam Định trấn Văn Miếu" thì từ năm 1822, một khu thờ
Khổng Tử được xây dựng tại địa phận xã Gia Hòa, tổng Mỹ Trọng, huyện Mỹ
Lộc (nay thuộc thành phố Nam Định). So với Văn Miếu ở Thăng Long về quy
mô và hình thức không thua kém mấy. Khi Pháp đánh chiếm Nam Định, Văn
Miếu hư hại nặng và tới năm 1946, trong cuộc toàn quốc kháng chiến thì bị
phá hoàn toàn nay chỉ còn vết tích.
Nam Định còn nhiều đền thờ các vị khoa bảng đức cao vọng trọng như
Trạng nguyên Nguyễn Hiền, Đào Sư Tích, Lương Thế Vinh… Tên tuổi
những người trong làng, trong họ đỗ đạt được khắc lên bia đá dựng ở nơi
trang trọng. Nhờ việc tôn sùng sự học như thế mà số người học giỏi, đỗ đạt

tăng lên. Những người đỗ đại khoa vinh quy bái tổ về làng đều được các chức
sắc và nhân dân nô nức đi đón rước. Bằng nhiều cách làm như thế đã tạo môi
trường giáo dục sôi động, sâu rộng, làm cho người người hiếu học, nhà nhà

17


hiếu học, cả dòng họ, cả làng xã, phủ huyện hiếu học… Điều đó phần nào lí
giải, vì sao Nam Định được coi là "Đất khoa bảng".
Nằm giữa hạ lưu hai con sông lớn của đồng bằng Bắc Bộ là sông Hồng
và sông Đáy, Thành Nam xưa vốn là một trung tâm thương nghiệp. Các phố
phường nổi tiếng buôn bán sôi động chẳng kém Thăng Long, phố Hiến. Cộng
đồng dân cư sinh sống, lập nghiệp ở Thành Nam đã hình thành nên hai loại
phố cơ bản là: những phố chuyên buôn bán, hoạt động thương mại và những
phố có nghề thủ công truyền thống với những sản phẩm mang đậm bản sắc
văn hoá bản địa độc đáo, đa dạng, phong phú. Nhiều con phố được đặt tên
theo các phường nghề như: Phố Hàng Cấp, phố Hàng Tiện, phố Hàng Khay,
phố nghề Hàng Nón, Mải Màn, Hàng Thiếc, Hàng Đàn, Hàng Giầy, Hàng Sắt,
Hàng Đàn, phố Hàng Mành… Cùng với đó là những làng nghề như làng Vị
Hoàng, làng Phụ Long, làng Năng Tĩnh. Chính điều này đã góp phần tạo nên
mảnh đất Thành Nam giàu truyền thống văn hóa và mang đặc điểm của một
vùng đất đậm nét “làng cổ, phố nghề”. Bên cạnh đó, Thành Nam xưa còn có
các khu chợ “đầu mối” là nơi giao thương nổi tiếng, thu hút các thương lái
giỏi giang từ các tỉnh trong cả nước tiêu biểu có: Chợ Rồng, chợ Đò Chè, chợ
Vị Hoàng, chợ Cửa Trường, chợ Năng Tĩnh…
Trải qua nhiều thế kỷ, cũng như Hà Nội, Huế, Thành Nam xưa phát
triển theo mô hình từ “Làng” lên “Đô” rồi lên “Thị”. Khi thực dân Pháp xâm
lược, làng cổ đất Thành Nam dần dần bị “đô thị hóa” mọc lên nhiều xí
nghiệp, nhà máy, công sở nhưng nhân dân bị áp bức, làm thuê cơ cực. Dưới
chế độ thực dân, phong kiến, với dã tâm cướp nước, kẻ thù đã thực hiện nhiều

chính sách mị dân tiêu cực. Đây là nguyên nhân làm mất dần đi vẻ đẹp và các
phong tục truyền thống cũng như giá trị văn hóa cổ truyền của các làng quê.
Nằm ở vị trí cửa ngõ của miền Bắc, giữa một miền đồng bằng rộng lớn,
phì nhiêu, vùng đất Thiên Trường xưa có vị trí quân sự và là một hậu cứ hết

18


sức lợi hại. Nhà Trần đã cho xây dựng ở đây các đồn binh, kho lương, căn cứ
chiến thuyền. Trong các lần quân Mông Nguyên đánh chiếm kinh thành
Thăng Long (1258, 1285, 1288) thì Thiên Trường là vị trí được nhà Trần
chọn để lui quân về. Thời Lê đã xây dựng thành Vị Hoàng ở Nam Định. Đến
thời Nguyễn, xác định vị trí quan trọng đó, thành Nam Định tiếp tục được gia
cố. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), xác định vị trí quan
trọng của Nam Định nên quân Pháp đã dời “trung tâm chỉ huy phía nam đồng
bằng Bắc bộ” từ Hà Nội về đóng ở Nam Định. Điều này càng khẳng định vị
trí quân sự quan trọng của Nam Định trong khu vực.
Với truyền thống yêu nước từ ngàn xưa, Nam Định được coi là cái nôi
của phong trào công nhân và là một trung tâm cách mạng của cả nước. Từ khi
Đảng ra đời, tinh thần yêu nước, cách mạng của người dân nơi đây càng được
nhân lên gấp bội. Ngay sau khi nhà máy Dệt được xây dựng đã thu hút đội
ngũ công nhân đông đảo tới 1,5 vạn người, có tinh thần đấu tranh cách mạng
mạnh mẽ. Những năm 1929 - 1930 nhiều cán bộ cách mạng của Đảng đã
được cử về Nam Định, đi vào các nhà máy, xí nghiệp để tiến hành “vô sản
hóa”. Đảng bộ tỉnh Nam Định được thành lập năm 1930 là một sự kiện quan
trọng đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của phong trào thanh niên Nam
Định. Đồng thời khẳng định sự trưởng thành và phát triển về chất của phong
trào cách mạng ở Nam Định dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Mảnh đất
Nam Định cũng đã đóng góp cho cách mạng cả nước nhiều cán bộ, đảng viên
ưu tú như Trần Văn Lan - Thường vụ Trung ương lâm thời; Lê Đức Thọ - Ủy

viên Bộ Chính Trị - Bí thư Trung ương cục miền Nam - Trưởng ban Tổ chức
Trung ương; Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng… Với lực lượng công
nhân ra đời sớm, đông đảo về số lượng và phong trào đấu tranh cách mạng sôi
nổi đầu thế kỷ XX đã đưa Nam Định trở thành cái nôi của phong trào công
nhân và là một trung tâm cách mạng của cả nước.

19


Trên cơ sở các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, Thiên Trường
- Nam Định không những là trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa
của tiểu vùng mà còn là một trong những cái nôi của phong trào công
nhân và cách mạng của cả nước đầu thế kỷ XX. Phát huy truyền thống đó,
hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ
Nam Định đã ra đời trong thực tế đấu tranh và ngày càng trưởng thành,
phát triển không ngừng. Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân Nam Định đoàn
kết, vượt qua mọi khó khăn thử thách, đấu tranh giành độc lập trong cách
mạng Tháng 8 năm 1945, tiến hành hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống
Pháp và chống Mỹ giành thắng lợi và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi
mới CNH, HĐH thu được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực
kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch tích cực theo
hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Tốc độ phát triển GDP đạt
cao. Nhiều công trình xây dựng, cơ sở hạ tầng, cầu cống, đường xá, khu
đô thị được xây mới. Các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục, xây dựng
Đảng, chính quyền, đoàn thể đạt nhiều tiến bộ mới. Ngành giáo dục 18
năm liền giữ vững là lá cờ đầu toàn quốc. Ngành văn hóa tập trung vận
động toàn dân “xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Kinh tế xã hội
ổn định, đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên. Đó là những thành
tựu quan trọng mà Đảng bộ và nhân dân Nam Định đã cố gắng phấn đấu
đạt được.

Kỷ niệm 750 năm Thiên Trường - Nam Định là dịp để Đảng bộ và
nhân dân Nam Định có điều kiện nghiên cứu, hiểu biết sâu sắc hơn về lịch sử
truyền thống vẻ vang của mảnh đất quê hương Thiên Trường - Nam Định. Từ
đó khai thác, phát huy có hiệu quả những truyền thống, tiềm năng, phục vụ tốt
nhất cho yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê
hương, đất nước, nhằm xây dựng Nam Định thành tỉnh văn minh, giàu mạnh,
có vị trí và diện mạo mới trong khu vực và cả nước.

20


* Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Định
Trong những năm qua cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng bộ
tỉnh Nam Định đặc biệt chú trọng đến công tác thanh niên, coi đó là nhiệm vụ
quan trọng của Đảng bộ. Tỉnh ủy luôn đánh giá đúng đắn vai trò thanh niên và
công tác thanh niên trong sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, đối với công tác
thanh niên, ngay từ khi thành lập, Đảng bộ tỉnh Nam Định luôn đặc biệt quan
tâm và tin tưởng ở tuổi trẻ. Thanh niên Nam Định luôn là lực lượng xung
kích, nòng cốt của phong trào cách mạng địa phương. Ở những thời điểm khó
khăn, những bước ngoặt của phong trào thì vai trò của thanh niên càng nổi bật
và phát huy. Giành được những thắng lợi rực rỡ đó là nhờ vào sự chỉ đạo của
Đảng bộ tỉnh. Bên cạnh đó, Đoàn thanh niên tỉnh Nam Định là một trong
những tổ chức được thành lập khá sớm. Công tác thanh niên tỉnh Nam Định
ra đời và được rèn luyện trong thực tiễn của phong trào cách mạng địa
phương nên đã phát huy được truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh
của thanh niên Việt Nam.
Đảng bộ tỉnh Nam Định luôn coi công tác thanh niên là một bộ phận
của công tác xây dựng Đảng. Trong các văn kiện Đại hội của Đảng bộ, Tỉnh
ủy luôn đánh giá, kiểm điểm về việc lãnh đạo công tác thanh niên của Đảng
trong nhiệm kỳ qua đồng thời xây dựng các chỉ tiêu phấn đấu cho nhiệm kỳ

tới. Bằng ý chí và trải qua thực tiễn hành động cách mạng, thanh niên Nam
Định đã có những cống hiến lớn lao ứng đáng với vai trò và niềm tin của
Đảng bộ.
Trong những năm 2001 – 2005 với nhiều yếu tố thuận lợi, Đảng bộ và
nhân dân tỉnh Nam Định đã tích cực thực hiện chủ trương của Đảng, phấn đấu
đưa Nam Định trở thành một tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống
nhân dân ổn định. Đảng bộ đã nhận thức sâu sắc vai trò của thanh niên, coi
thanh niên là người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và

21


nguồn lực con người. Để nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của thanh niên
nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo công tác thanh niên, Đảng bộ tỉnh Nam
Định đã chủ trương cần thực hiện tốt những nội dung sau:
Thứ nhất, Đảng bộ tỉnh Nam Định quán triệt sâu sắc quan điểm của
Đảng về vai trò, vị trí của thanh niên và công tác thanh niên trong tình hình
mới; nắm vững các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về thanh niên và công tác
thanh niên. Trên cơ sở đó thống nhất trong nhận thức của cấp ủy đảng, của
cán bộ đảng viên và của chi ủy trong đánh giá, nhìn nhận vị trí, vai trò của
thanh niên và xác định rõ trách nhiệm của từng cấp ủy, đảng bộ, cán bộ, đảng
viên trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, chăm lo xây dựng, củng cố
tổ chức Đoàn. Coi việc xây dựng tổ chức đoàn làm hạt nhân đoàn kết, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp thanh niên cũng quan trọng như xây dựng tổ chức đảng.
Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên là một bộ phận quan trọng, không tách
rời trong toàn bộ công tác dân vận của Đảng, luôn luôn là nhiệm vụ cách
mạng có tính chiến lược. Phong trào thanh niên luôn gắn liền với sự lãnh đạo
của Đảng, qua đó thanh niên phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Qua các
phong trào, Đoàn sẽ làm tốt hơn việc tập hợp thanh niên, bổ sung lực lượng
và sức chiến đấu cho Đảng.

Thứ hai, Đảng bộ tỉnh Nam Định phải đẩy mạnh việc tổ chức tuyên
truyền, giáo dục thanh niên. Thực tế xã hội cho thấy, thanh niên với những
đặc trưng về lứa tuổi, sức khoẻ tâm lý và nhận thức, thường có các các hành
vi, lối sống, quan niệm, cảm thụ và sáng tạo văn hoá riêng mà không phải lúc
nào cũng được thừa nhận. Lối sống hay văn hoá thanh niên là một hiện tượng
văn hoá đặc biệt gắn liền với tuổi trẻ trong đó sự sáng tạo và đổi mới luôn là
những đặc trưng cơ bản. Nó làm nên bản chất của văn hoá thanh niên. Bên
cạnh sự định hướng cho thanh niên tới những sự cảm thụ văn hoá lành mạnh,
cần phải tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của thanh niên, tạo ra môi trường

22


thuận lợi để giao nhiệm vụ và giúp thanh niên vượt qua khó khăn, vươn lên
trong cuộc sống. Thanh niên là đối tượng rất nhạy cảm với thời cuộc nên
những hành động, biểu hiện của thế hệ đi trước rất dễ ảnh hưởng đến thanh
niên. Sinh thời Hồ Chí Minh thường nhắc nhở “Lấy gương người tốt, việc tốt
để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng
Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống
mới”. Cần đẩy mạnh thực hiện "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh", xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xử lý nghiêm minh cán bộ
đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật, tạo môi trường chính trị và
đạo đức lành mạnh củng cố niềm tin cho thanh niên. Phải phấn đấu để mỗi
cán bộ, đảng viên là một tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, nói đi đôi với
làm để thanh niên học tập và noi theo.
Thứ ba, Đảng bộ cần phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tổ chức các phong trào để thanh niên thể hiện
vai trò của mình trong các phong trào đó. Đảng bộ phải lãnh đạo Đoàn thanh
niên, Hội Liên hiệp thanh niên tạo ra những hoạt động sôi nổi, thiết thực
nhằm cuốn hút thanh niên. Từ trong thực tiễn thanh niên sẽ được dịp rèn

luyện và thể hiện khả năng của mình. Đảng bộ phải lãnh đạo công tác thanh
niên vào những chủ đề như: Xung kích lao động sáng tạo nhằm phát huy vai
trò tiên phong gương mẫu của thanh niên trong lao động; định hướng phát
triển "Thanh niên tình nguyện" theo hướng đa dạng về nội dung, nâng cao về
chất lượng; phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong bảo vệ Tổ quốc,
giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; chủ động nắm bắt thông tin,
chuẩn bị về ngoại ngữ, tin học, luật pháp quốc tế, bản lĩnh chính trị văn hóa,
nâng cao năng lực hội nhập..
Thứ tư, Đảng bộ cần đổi mới cách nhận thức, đánh giá phiến diện về
thanh niên. Hồ Chí Minh nhận rõ vai trò quyết định của thanh niên trong tiến

23


trình lịch sử, nhận rõ khả năng cách mạng to lớn của thanh niên, có thể "dời
non", "lấp biển" hết lòng tin yêu thanh niên, song Người luôn đặt thanh niên
trong tư cách là một chủ thể đang phát triển, đang được tiếp tục hoàn thiện.
Điều đó có nghĩa trong thanh niên nói chung và trong mỗi cá thể nói riêng
đều có cả mặt mạnh và mặt yếu, đều tiềm ẩn những khả năng lớn cũng như
những hạn chế. Hồ Chí Minh dạy: “Cần phải đi sâu vào đời sống thanh niên,
hiểu rõ tâm lý của các lớp thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết các vấn đề một
cách thiết thực”. Khi nắm được những đặc điểm chung và riêng của thanh
niên, sẽ hiểu thanh niên hơn, từ đó tạo tiền đề nhận thức, dự báo những mặt
tiêu cực, tích cực để động viên, nhắc nhở, thức tỉnh, để họ phát huy những
mặt tốt, khắc phục, ngăn ngừa những mặt còn hạn chế hiệu quả hơn.
Trong chương trình công tác của Đảng bộ cần xác định rõ hơn trách
nhiệm lãnh đạo và xây dựng Đoàn thanh niên vững mạnh, gắn liền với công tác
xây dựng Đảng. Lãnh đạo của Đảng bộ, Đoàn các cấp, chính quyền, các đoàn
thể cần cộng đồng trách nhiệm, làm tốt công tác thanh niên. Các tổ chức Đảng,
cán bộ, đảng viên ở các tổ chức cơ sở Đảng cần đổi mới trong cách nhìn nhận

đánh giá thanh niên. Từ đó, tạo ra sự thống nhất trong nhận thức và đề ra các
chương trình kế hoạch, giáo dục, bồi dưỡng thanh niên nhằm tạo ra một đội ngũ
thanh niên – những chủ nhân tương lai trưởng thành qua phong trào học tập, tu
dưỡng rèn luyện và nghiên cứu khoa học. Cần phải tin tưởng vào trí tuệ và khả
năng sáng tạo, sáng kiến và sự nhiệt tình năng nổ của thanh niên.
Thứ năm, bản thân thanh niên trong Đảng bộ tỉnh cần tự nâng cao
nhận thức về vai trò, vị trí của mình từ đó xác định nghĩa vụ của mình đối
với bản thân, gia đình, xã hội. Đảng bộ đã nhận định: “Một trong những
thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là đã xây dựng được thế hệ
thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, có nhân cách, tri thức, sức khỏe, tư duy
năng động và hành động sáng tạo; tiếp nối truyền thống hào hùng của Đảng

24


và dân tộc, nêu cao lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN; không ngại khó khăn gian khổ, tình nguyện vì cộng đồng; có trách
nhiệm với gia đình, xã hội; có ý chí vươn lên trong học tập, lao động, lập
thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu; mong muốn được tin tưởng, được cống hiến cho đất
nước, có việc làm, thu nhập ổn định, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh
phong phú, môi trường sống an toàn…” [51, tr. 4-5].
1.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định chỉ đạo công tác thanh niên
từ năm 2001 đến năm 2005
1.2.1. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ
Qua các kỳ đại hội, các nghị quyết của Tỉnh ủy về công tác thanh niên
được đưa ra có tác động sâu sắc đến nhận thức, quan điểm của cán bộ, đảng
viên về tình hình thanh niên, vị trí của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng.
Đảng bộ, chính quyền, các ngành, các đoàn thể nâng cao trách nhiệm đối với
việc bồi dưỡng và phát huy lực lượng thanh niên. Với tầm nhìn chiến lược,

Đảng bộ tỉnh Nam Định đã chỉ đạo công tác thanh niên đạt kết quả cao trong
5 năm (2001 – 2005). Được sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương Đoàn, của
Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, sự phối hợp
của các ban ngành, các lực lượng xã hội, với sự phấn đấu nỗ lực của cán bộ
đoàn viên và thanh niên, phong trào thanh niên tỉnh Nam Định có những bước
phát triển mới.
Sau khi nghiên cứu và nắm bắt tinh thần các chủ trương, nghị quyết, chỉ
thị của TW Đảng, Ban Thường vụ Đảng ủy, các huyện ủy đã xây dựng
chương trình kế hoạch triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết ở địa phương,
đơn vị mình. Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn đã xây dựng các kế hoạch cụ thể, tập
trung, chỉ đạo triển khai các chương trình, đề án nhằm xây dựng tổ chức cơ sở
Đoàn vững mạnh.

25


×