Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh đồng nai – giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa đấu tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.05 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước, tỉnh Đồng Nai đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lónh
vực chính trò, kinh tế, văn hoá xã hội. Tốc độ phát triển kinh tế cao, ổn định,
đời sống vật chất và tinh thần của người dân khơng ngừng được nâng lên. Tuy
nhiên, dưới tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường thì tình hình vi
phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng khơng ngừng gia tăng và diễn
biến hết sức phức tạp. Vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm xảy ra ngày càng
nhiều và phổ biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, gây nên những
thiệt hại to lớn về người và của, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an tồn xã hội
của địa phương. Tình hình đó thật sự là mối lo ngại và là mối quan tâm hàng đầu
của các cơ quan chức năng, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức
xã hội và của nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, giữ gìn trật tự an tồn xã hội
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là nhiệm vụ vơ cùng khó khăn, gian khổ và phức tạp.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi các chủ thể làm cơng tác đấu tranh phải
nghiên cứu, phân tích, đánh giá khách quan, tồn diện và sâu sắc tình hình vi
phạm pháp luật tại địa phương, tìm ra những ngun nhân của tình trạng này để
từ đó áp dụng những phương pháp, phương tiện và lực lượng một cách phù hợp,
đạt hiệu quả cao nhất. Xuất phát từ nhận thức đó, với mong muốn tìm ra những
giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, tơi chọn đề tài “Tình hình vi phạm pháp luật trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai – Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa đấu
tranh” làm tiểu luận mơn học.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ


1.1. Vi phạm pháp luật
1.1.1. Khái niệm và những dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ.
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội có những đấu hiệu cơ bản
sau:
+ Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Như ta đã biết các quy định của pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh
hành vi của con người. Cho nên vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi của
con người hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội... (các
chủ thể pháp luật) nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội. Khi
xác định vi phạm pháp luật thì dấu hiệu hành vi là không thể thiếu được, nói
cách khác, không có hành vi nguy hiểm của con người thì không có vi phạm
pháp luật. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc không hành động
của các chủ thể pháp luật. Pháp luật không điều chỉnh những suy nghĩ hoặc
những đặc tính cá nhân khác của con người nếu như những đặc tính đó không
biểu hiện thành các hành vi cụ thể của họ. Vì thế, suy nghĩ, tình cảm, những đặc
tính cá nhân khác của con người và cả sự biến cho dù có nguy hiểm cho xã hội
cũng không bị coi là vi phạm pháp luật.
+ Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật xâm hại tới các quan hệ xã
hội được pháp luật xác lập và bảo vệ.
Vi phạm pháp luật không những phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội của
các chủ thể pháp luật, mà hành vi đó còn phải trái với pháp luật, xâm hại tới các
quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Vì vậy, những hành vi hợp
pháp hay hành vi trái với các quy định của các tổ chức xã hội, trái với quy tắc
2


tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo... mà không trái pháp luật thì không bị coi là

vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều xâm
hại tới những quan hệ xã hội mà mỗi nhà nước xác lập và bảo vệ. Một cách khái
quát, những gì mà pháp luật không cấm, không xác lập và bảo vệ thì dù có làm
trái, có xâm hại cũng không bị coi là vi phạm pháp luật.
Như vậy, tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi bị coi
là vi phạm pháp luật.
+ Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể.
Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi, để xác
định vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là, xác
định lỗi (xác định trạng thái tâm lý) của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp
luật đó. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái
pháp luật của mình. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những
điều kiện và hoàn cảnh khách quan, chủ thể hành vi đó không cố ý và cũng
không vô ý thực hiện hoặc không thể ý thức (nhận thức) được, từ đó không thể
lựa chọn được cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể hành vi đó
không bị coi là có lỗi và hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp luật. Kể cả
những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc phải thực hiện trong điều kiện
bất khả kháng cũng có thể không bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy, những
hành vi trái pháp luật mang tính khách quan, không có lỗi của chủ thể thực hiện
hành vi đó (chủ thể không cố ý và cũng không vô ý thực hiện) thì không bị coi
là vi phạm pháp luật. Từ đó có thể khẳng định là tất cả mọi vi phạm pháp luật
trước hết phải là hành vi trái pháp luật, nhưng ngược lại, không phải tất cả mọi
hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật. Chỉ những hành vi trái
pháp luật nào có lỗi (được chủ thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý) mới có
thể bị coi là vi phạm pháp luật.
+ Chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý.
Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý
của chủ thể do nhà nước quy định. Thông thường nhà nước chỉ quy định sự độc
lập phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đối với những người có khả năng
3



tự lựa chọn được cách xử sự và có tự do ý chí, nói khác đi, người đó phải có khả
năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình, có điều kiện lựa chọn và
quyết định cách xử sự cho mình và chịu trách nhiệm độc lạp về hành vi của
mình. Do vậy, pháp luật chỉ quy định năng lực trách nhiệm pháp lý cho những
người đã đạt được một độ tuổi nhất định, có khả năng lý trí và có tự do ý chí.
Đối với trẻ em ít tuổi có thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình,
nhưng do chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực và tâm sinh lý nên chúng
chưa có khả năng nhận thức và đánh giá được hết những hậu quả do hành vi của
chúng gây ra cho xã hội nên nhà nước không bắt chúng phải chịu trách nhiệm
pháp lý về hành vi của mình, không quy định năng lực phải chịu trách nhiệm
pháp lý đối với chúng. Độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý của con người
được pháp luật quy định khác nhau trong mỗi loại quan hệ xã hội khác nhau
hoặc phụ thuộc vào tầm quan trọng, tính chất của quan hệ xã hội đó. Đối với
những người do mất khả năng nhận thức hoặc khả năng lựa chọn, điều khiển
hành vi của mình ở thời điểm khi thực hiện hành vi đó thì pháp luật cũng quy
định họ không có năng lực trách nhiệm pháp lý, do vậy họ không phải chịu trách
nhiệm pháp lý đối với trường hợp đó. Chẳng hạn, Điều 12 Bộ luật Hình sự Việt
Nam quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Mỗi nhà nước khác nhau thì có quy định khác nhau về năng lực trách nhiệm
pháp lý. Như vậy, những hành vi trái pháp luật nhưng khi thực hiện chúng các
chủ thể không có hoặc chưa có năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy định của
pháp luật thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
1.1.2. Cấu thành vi phạm pháp luật
a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài
của vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:

- Hành vi trái pháp luật. Bất kỳ một vi phạm pháp luật nào cũng được cấu
thành bởi hành vi trái pháp luật, nghĩa là, nếu trong thực tế không tồn tại hành vi
4


trái pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức cụ thể nào
đó thì không có vi phạm pháp luật xảy ra.
- Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội. Hành
vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã
hội. Tính nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã hoặc có
nguy cơ gây ra những thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác
cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật được xác định phụ
thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội
mà hành vi trái pháp luật đó gây ra.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả (sự thiệt
hại) mà nó gây ra cho xã hội. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội thể hiện ở chỗ sự thiệt hại của xã hội là do
chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra, nói cách khác, sự thiệt hại của xã
hội xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Nếu giữa hành vi trái
pháp luật và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả thì sự thiệt
hại của xã hội không phải do hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra mà có thể
do những nguyên nhân khác. Ngoài ra trong mặt khách quan của vi phạm pháp
luật còn có các yếu tố khác như thời gian, địa điểm và cách thức vi phạm...
b. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện tâm lý bên trong
của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:
- Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật. Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể
đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện
thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội. Phụ thuộc vào mức độ tiêu cực trong
thái độ của chủ thể khoa học pháp lý chia lỗi ra thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô

ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vó ý vì
quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
+ Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
5


+ Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng hy vọng, tin tưởng hậu quả
đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
+ Lỗi vô ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm đã không nhận thấy trước được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể hoặc
cần phải nhận thấy trước hậu quả đó.
- Động cơ vi phạm. Động cơ được hiểu là cái (động lực) thúc đẩy chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện vi phạm pháp
luật chủ thể thường được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định nào đó. Động cơ
đó có thể là vụ lợi, trả thù, đê hèn...
- Mục đích vi phạm. Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của
mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Mục đích vi phạm của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi.
Tuy nhiên, cần chú ý là không phải khi nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt được
trong thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt
được. Chẳng hạn, A chỉ muốn làm B đau (mục đích gây thương tích) nhưng kết
quả thực tế B chết (cái chết của B nằm ngoài mong muốn của A).
Hoặc M muốn giết chết N (mục đích giết người), nhưng kết quả thực tế N
không chết (việc N không chết là nằm ngoài mong muốn của M).

c. Chủ thể vi phạm pháp luật
Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực
trách nhiệm pháp lý, nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ phải chịu trách
nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình trong trường hợp đó. Ở mỗi loại
vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng, chúng sẽ được xem xét tỉ mỉ ở
các ngành khoa học pháp lý cụ thể.
d. Khách thể vi phạm pháp luật
6


Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ, nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội khác
nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất và tầm quan
trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy hiểm của
hành vi vi phạm pháp luật.
1.1.3. Phân loại vi phạm pháp luật
Thông thường vi phạm pháp luật được phân chia thành bốn nhóm cơ bản
sau:
+ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự quy
định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, loàn vẹn lãnh thổ TỔ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật.
+ Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
+ Vi phạm dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm hại tới
những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản, quan hệ phi tài

sản...
+ Vi phạm kỷ luật nhà nước là những hành vi có lỗi trái với những quỷ
chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học...,
nói cách khác, là không thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, phục vụ được
đề ra trong cơ quan, xí nghiệp, trường học đó... Cần chú ý là chủ thể vi phạm kỷ
luật chỉ có thể là cá nhân, tập thể (cán bộ, công nhân, công chức, học sinh...) có
quan hệ ràng buộc (phụ thuộc) với cơ quan, xí nghiệp, trường học... nào đó.
Trong mỗi loại vi phạm pháp luật nói trên còn có thể phân chia thành từng nhóm
nhỏ hơn. Chẳng hạn, trong Bộ luật hình sự Việt nam tội phạm còn được chia
thành các nhóm nhỏ như: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm
7


tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm
quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm phạm sở hữu...
1.2. Trách nhiệm pháp lý
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
Trong lĩnh vực pháp lý thuật ngữ “trách nhiệm” cũng được sử dụng theo
hai nghĩa:
Theo nghĩa tích cực, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ (nói đến những
điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và tương lai). Chẳng hạn, pháp
luật quy định trách nhiệm cho một cơ quan nào đó phải tuyên truyền, phổ biến
một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào đó hay cơ quán A chịu trách nhiệm
trước cơ quan B; nghĩa thứ hai là hậu quả bất lợi.
Trách nhiệm theo nghĩa thứ hai là phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì
đã vi phạm pháp luật. Đó là sự phản ứng, lên án của nhà nước và xã hội đối với
những chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội. Sau đây chúng ta
nghiên cứu sâu về trách nhiệm pháp lý theo nghĩa hậu quả bất lợi.
Sở dĩ nhà nước quy định trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi
phạm pháp luật là vì:

Thứ nhất, trong quy phạm pháp luật nhà nước đã đưa ra trước những cách
xử sự có tính khuôn mẫu mà chủ thể được phép hoặc buộc phải lựa chọn khi ở
vào hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu. Và chủ thể khi ở vào hoàn cảnh, điều
kiện đã được nhà nước dự liệu thì chỉ được phép hoặc buộc phải lựa chọn cho
mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự mà trong quy phạm pháp luật đã
dự liệu cho trường hợp đó.
Thứ hai, các chủ thể pháp luật (trong trạng thái bình thường) luôn hoạt
động có lý trí (họ ý thức được việc làm của mình, nghĩa là, họ có khả năng nhận
thức, điều khiển được hành vi của mình và hậu quả do nó gây ra cho xã hội) và
có tự do ý chí (họ có khả năng và điều kiện để có thể tự lựa chọn cho mình cách
xử sự có thể có trong hoàn cảnh, điều kiện nhất định). Vì vậy, họ có đủ khả năng
và phải chịu trách nhiệm về cách xử sự (hành vi) đã lựa chọn của mình. Nếu chủ
thể chọn cách xử sự trái với ý chí của nhà nước đã thể hiện trong quy phạm pháp
8


luật (không lựa chọn cách xử sự mà nhà nước cho phép hoặc buộc phải thực
hiện trong trường hợp đó), thì chủ thể phải chịu trách nhiệm về việc làm của
mình, phải chịu trách nhiệm pháp lý. Như vậy, trách nhiệm pháp lý chỉ đặt ra đối
với những chủ thể có lý trí và có tự do ý chí.
Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý
chỉ xuất hiện khi trong thực tế xảy ra vi phạm pháp luật. Nếu trong thực tế
không có vi phạm pháp luật thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trách
nhiệm pháp lý chỉ được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật
Không truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi trái pháp luật được thực
hiện trong trường hợp:
a/ Chủ thể không có năng lực trách nhiệm pháp lý (không có khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình);
b/ Do sự kiện bất ngờ (chủ thể không thể thấy trước hoặc không buộc phải
thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra);

c/ Do phòng vệ chính đáng;
d/ Được thực hiện phù hợp với tình thế cấp thiết.
Chỉ các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hay các chủ thể
được pháp luật trao quyền thì mới có quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
tổ chức hay cá nhân nào đó. Nó thể hiện ở việc các cơ quan nhà nước, nhà chức
trách có thẩm quyền hay các chủ thể có quyền theo trình tự thủ tục luật định yêu
cầu chủ thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý giải thích rõ về hành vi của mình và
buộc chủ thể vi phạm phải chịu những thiệt hại nhất định (về nhân thân, về tài
sản, về tự do...) đã được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp
luật.
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với những biện pháp cưỡng chế được
quy định trong chế tài các quy phạm pháp luật. Truy cứu trách nhiệm pháp lý về
thực chất là áp dụng những biện pháp cưỡng chế đã được quy định trong bộ
phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, bản thân trách nhiệm pháp lý không phải là sự cưỡng chế mà chỉ là
nghĩa vụ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế do pháp luật qui định. Chủ
9


thể vi phạm pháp luật bị buộc phải thực hiện những biện pháp cưỡng chế được
quy định ở bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật. Như vậy, về nội dung thì
trách nhiệm pháp lý là sự áp đụng các biện pháp cưỡng chế đối với chủ thể vi
phạm pháp luật, còn về hình thức thì đó là việc tổ chức cho chủ thể vi phạm
pháp luật thực hiện bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, cũng cần chú ý là có một số biện pháp cưỡng chế nhà nước
được áp dụng không liên quan gì tới trách nhiệm pháp lý, nghĩa là nó được áp
dụng cả khi không xảy ra vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, nhà nước có thể áp
dụng biện pháp cưỡng chế nhằm cách ly những người mắc một số bệnh truyền
nhiễm; nhà nước có thể áp dụng biện pháp trong thu, trưng dụng hay trưng mua
một số tài sản nào đó khi thấy cần thiết...

Như vậy, trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với
chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với
chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh,
trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện
pháp cưỡng chế được quy đinh ở chế tài các quy phạm pháp luật.
1.2.2. Mục đích việc truy cứu trách nhiệm pháp lý
Mọi hiện tượng vi phạm pháp luật đều có hại cho xã hội vì nó phá vỡ trật
tự pháp luật, nó trực tiếp hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại nhất định về vật
chất và tinh thần cho cá nhân, tổ chức, xâm hại đến các quan hệ xã hội mà pháp
luật bảo vệ. Vì thế, việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi
phạm pháp luật là nhằm bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền, lợi ích của nhân dân, của tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, tạo điều kiện
cho những quan hệ xã hội phát triển đúng hướng, đảm bảo cho quá trình điều
chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường và có hiệu quả.
Truy cứu trách nhiệm pháp lý trước hết là nhằm mục đích trừng phạt đối
với chủ thể vi phạm pháp luật, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi,
những biện pháp cưỡng chế được quy định trong chế tài các quy phạm pháp luật.
Ngoài mục đích trừng phạt, truy cứu trách nhiệm pháp lý còn có ý nghĩa rất lớn
trong việc phòng ngừa, cải tạo và giáo dục những chủ thể vi phạm pháp luật
10


(ngăn ngừa sự tiếp tục vi phạm pháp luật của chủ thể và cải tạo, giáo dục chủ thể
ý thức tôn trọng, thực hiện nghiêm minh pháp luật và các quy tắc của cuộc sống
cộng đồng).
Truy cứu trách nhiệm pháp lý còn có tác dụng răn đe tất cả những chủ thể
khác khiến họ phải kiềm chế, giữ mình không vi phạm pháp luật, giáo dục các tổ
chức và các cơ nhân ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật và các
quy tắc của cuộc sống cộng đồng, làm cho mọi người tin tưởng vào cóng lý, tích
cực đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, từng bước hạn chế và tiến tới

loại trừ hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội.
1.2.3. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức hay cá nhân nào đó cần
phải xác định được cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý làm căn cứ cho việc truy
cứu. Về cơ sở thực tiễn để truy cứu trách nhiệm pháp lý thì phải có vi phạm
pháp luật xảy ra. Về cơ sở pháp lý đó là những quy định pháp luật hiện hành có
liên quan đến vi phạm pháp luật đó và thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết
vụ việc đó.
Khi xác định cơ sở thực tiễn cần xem xét từng yếu tố của cấu thành vi
phạm pháp luật. Điều đầu tiên phải tiến hành là xác định được trong thực tế đã
xảy ra hành vi trái pháp luật nguy hiểm, nếu không xác định được hành vi trái
pháp luật nguy hiểm trong thực tế, thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Tiếp đến là đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật đó
thông qua việc xác định hậu quả (sự thiệt hại) về vật chất, về tinh thần và những
thiệt hại khác nếu có do hành vi đó gây ra cho xã hội. Một hành vi trái pháp luật
nhưng gây nguy hiểm cho xã hội không nhiều (những thiệt hại mà nó gây ra là
không đáng kể hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội thấp) thì không bị truy cứu trách
nhiệm pháp lý.
Trong một số trường hợp mức độ nguy hiểm của hành vi còn là căn cứ để
xác định loại trách nhiệm pháp lý cần truy cứu.
Chẳng hạn, căn cứ vào mức độ thương tích của người bị hại mà quyết
định truy cứu trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm hành chính.
11


Cần làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả,
tuyệt đối không được suy diễn về hậu quả, nghĩa là phải xác định một cách chắc
chắn rằng sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp
gây ra. Không thể bắt chủ thể phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại mà hành
vi trái pháp luật của họ không trực tiếp gây ra (giữa hành vi trái pháp luật của họ

và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả).
Để cải tạo giáo dục chủ thể vi phạm phạm pháp luật có hiệu quả khi truy
cứu trách nhiệm pháp lý trong một số trường hợp cần phải xác định cả thời gian,
địa điểm và cách thức... mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Khi
xác định được những điều nói trên thì việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế mới
chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm pháp lý và đạt được
hiệu quả cao trong việc cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật.
Việc xác định lỗi, động cơ và mục đích vi phạm trong nhiều trường hợp
khi truy cứu trách nhiệm pháp lý là rất cần thiết, nó cho phép lựa chọn được biện
pháp cưỡng chế thích hợp.
Về nguyên tắc, trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng đối với các chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật có lỗi, tức
là chủ thể hành vi đó có khả năng nhận thức được những hậu quả nguy hiểm cho
xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng cố ý hoặc vô ý gây ra. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp pháp luật còn cho phép truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
cả những hành vi trái pháp luật được thực hiện do những nguyên nhân khách
quan hoặc trường hợp thiệt hại do những nguồn nguy hiểm cao độ như phương
tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang
hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy , chất độc, chất phóng xạ, thú dữ... gây ra
và một số trường hợp khác trong quan hệ dân sự mặc dù không có lỗi chủ thể
vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý. Chẳng hạn, cha mẹ hay người giám hộ phải
bồi thường thiệt hại do con mình (dưới mười lăm tuổi) hoặc người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra. Trong những trường hợp trên chỉ áp dụng những biện
pháp tác động mang tính chất khôi phục thiệt hại, không áp dụng các biện pháp
trách nhiệm hình sự.
12


Khi xác định chủ thể vi phạm pháp luật cần chú ý tới năng lực trách
nhiệm pháp lý của chủ thể trong mỗi trường hợp cụ thể. Nếu chủ thể là cá nhân

thì phải xác định xem người đó đã đạt được độ tuổi theo quy định của pháp luật
phải chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp đó hay chưa? và trạng thái tâm
lý (thần kinh) của họ như thế nào ở thời điềm họ thực hiện hành vi trái pháp luật
đó. Nếu chủ thể là tổ chức thì phải chú ý đến tư cách pháp nhân hoặc địa vị pháp
lý của tổ chức đó.
Khi xem xét khách thể vi phạm pháp luật cần chú ý tới tính chất và tầm
quan trọng của khách thể để đánh giá mức độ nguy hiềm của hành vi vi phạm
pháp luật.
Khi xác định cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
trường hợp vi phạm pháp luật đó cần chú ý tới trước hết là thẩm quyền của cơ
quan hay nhà chức trách trong việc giải quyết vụ việc, trình tự, thủ tục để giải
quyết vụ việc đó, các biện pháp mà pháp luật quy định có thể áp dụng đối với
chủ thể vi phạm... Ngoài việc xác định các vấn đề đó còn phải xem xét cả thời
hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp vi phạm cụ thể đó và
những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý (nếu có) khi tiến hành truy
cứu trách nhiệm pháp lý.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý là thời hạn do pháp luật quy định
mà khi thời hạn đó kết thúc thì chủ thể vi phạm pháp luật sẽ không bị truy cứu
trách nhiệm pháp lý nữa. (Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ
thời điểm này đến thời điểm khác. Khoảng thời gian đó có thể tính bằng giờ,
ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện nào đó). Đối với các loại vi phạm
pháp luật khác nhau thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý được qui định
khác nhau. Pháp luật của nhiều nước không áp dụng thời hiệu truy cứu trách
nhiệm pháp lý đối với một số loại vi phạm pháp luật quá nguy hiểm gây thiệt hại
lớn cho xã hội. Ví dụ: Bộ luật hình sự Việt nam quy định không áp dụng thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
13



Pháp luật cũng có thể quy định miễn trách nhiệm pháp lý cho một số chủ
thể trong những trường hợp nhất định. Trách nhiệm pháp lý sẽ chấm dứt khi xẩy
ra sự kiện pháp lý thích ứng như có quyết định ân xá; thời hạn trừng phạt đã kết
thúc; nộp phạt xong...
1.2.4. Các loại trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý có nhiều loại, thông thường chúng được chia thành:
Trách nhiệm hình sự; trách nhiệm hành chính; trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm
dân sự và trách nhiệm vật chất.
- Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do
tòa án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội.
- Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan nhà
nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm
hành chính.
- Trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, xí
nghiệp, trường học... áp dụng đối với cán bộ, công chức, nhân viên, sinh viên...
của cơ quan, xí nghiệp, trường học. . .của mình khi họ vi phạm pháp luật.
- Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do tòa án hoặc các chủ
thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm dân sự.
- Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan xí
nghiệp:.. áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân... của cơ quan, xí nghiệp
trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, xí nghiệp.
Để bảo đảm sự công bằng và tính hiệu quả trong việc truy cứu trách
nhiệm pháp lý đối với mỗi trường hợp vi phạm pháp luật cụ thể có thể áp dụng
một hoặc cùng đồng thời nhiều loại trách nhiệm pháp lý.
1.2.5. Những yêu cầu cơ bản đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lý
Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đòi hỏi phải bảo đảm một số những
yêu cầu cơ bản sau:
+ Chỉ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi trái pháp luật,
có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện.
14



+ Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách nhiệm
pháp lý.
+ Bảo đảm sự công bằng và nhân đạo trong hoạt động truy cứu trách
nhiệm pháp lý.
+ Bảo đảm tính phù hợp khi truy cứu trách nhiệm pháp lý tức là, cần cá
biệt hóa biện pháp trừng phạt đối với mỗi chủ thể cụ thể phụ thuộc vào mức độ
nguy hiểm do hành vi của họ gây ra, nhân thân của chủ thể, hoàn cảnh xẩy ra vi
phạm...; có thể sử dụng cả nhưng tình tiết giảm nhẹ mà pháp luật không quy
định; lựa chọn biện pháp cưỡng chế phải phù hợp với mục đích truy cứu trách
nhiệm pháp lý và nếu mục đích truy cứu đã đạt được trước thời hạn so với luật
định thì có thể giảm nhẹ (chuyển từ tù giam sang cải tạo lao động...) hoặc xóa
trách nhiệm pháp lý.
+ Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý phải được tiến hành kịp thời, nhanh
chóng, công minh, chính xác theo đúng pháp luật và phải đạt hiệu quả cao.

15


CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐỒNG NAI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
PHÒNG NGỪA ĐẤU TRANH
2.1. Tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
2.1.1. Tình hình tội phạm
Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai xảy ra khoảng 2000 vụ án hình sự,
làm chết và bị thương khoảng 250 người, gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước
và công dân hàng chục tỉ đồng. Công an Đồng Nai hàng năm đã khởi và bắt tạm
giam hơn 2000 bị can, tiến hành điều tra và chuyển Viện kiểm sát truy tố.
Trong tổng số các tội phạm thì tội phạm hình sự chiếm tỉ lệ cao nhất

(khoảng hơn 80%). Tình hình TPHS trong thời gian gần đây diễn biến phức tạp,
nổi lên là hoạt động của các tổ chức tội phạm hoạt động theo kiểu "xã hội đen",
các băng nhóm lưu manh côn đồ, lưu manh chuyên nghiệp, tội phạm sử dụng vũ
khí nóng, các băng nhóm tội phạm có mối liên hệ vùng, miền ngày càng rõ nét,
tội phạm hoạt động mang tính cơ động cao, tập trung ở các tuyến, địa bàn trọng
điểm, sự câu kết giữa các tổ chức tội phạm trong nước và tổ chức tội phạm ở
nước ngoài ngày càng nhiều và chặt chẽ hơn.
Tuy chiếm tỉ lệ thấp trong cơ cấu tội phạm những tội phạm kinh tế và tội
phạm ma túy cũng đang diễn biến rất phức tạp. Thủ đoạn hoạt động của tội
phạm này ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Nhiều vụ án, các đối tượng lợi dụng kẽ
hỡ của pháp luật và chính sách kinh tế để hoạt động phạm tội nên gây ra nhiều
khó khăn trong công tác điều tra, khám phá và xử lý.
2.1.2. Tình hình vi phạm hành chính và dân sự
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật phổ biến nhất ở nước ta nói
chung và ở tỉnh Đồng Nai nói riêng. Các lĩnh vực vi phạm hành chính xảy ra
phổ biến nhất là: trật tự an toàn giao thông, trật tự an toàn xã hội, đất đai, sản
xuất kinh doanh,...
Đặc biệt, tình hình vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông hiện
nay rất đáng lo ngại. Nhất là ở những tuyến đường, giao lộ vắng bóng Cảnh sát
16


giao thông, tình trạng người điều khiển phương tiện ngang nhiên vi phạm giao
thông ngày càng phổ biến, như một hiện tượng xã hội đáng báo động. Những
hình ảnh người tham gia giao thông cố tình vượt đèn đỏ, đi vào đường ngược
chiều, đường cấm, lấn tuyến, tìm mọi cách chèn lách để vượt lên trước phương
tiện khác... diễn ra hầu hết ở mọi tuyến đường, giao lộ.
Thời gian qua, lực lượng Cảnh sát môi trường Công an tỉnh đã tích cực
tuyên truyền và kiên quyết xử lý các trường hợp cố tình vi phạm trên lĩnh vực
này. Tuy nhiên, tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn thường

xuyên diễn ra. Trong quý I-2010, lực lượng Cảnh sát môi trường tỉnh đã kiểm
tra, phát hiện 80 vụ vi phạm Luật Bảo vệ môi trường, như: Vi phạm quy định về
vệ sinh an toàn thực phẩm, khai thác khóang sản trái phép, thải chất gây ô nhiễm
môi trường, quản lý và vận chuyển chất thải nguy hại không đúng quy định...
Trong đó, vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm và các thủ tục bảo
vệ môi trường chiếm số lượng lớn. Cơ quan chức năng đã ra quyết định xử phạt
vi phạm hành chính 35 trường hợp, với tổng số tiền gần 445 triệu đồng.
Bên cạnh vi phạm hành chính thì vi phạm dân sự cũng thường xuyên diễn
ra. Phổ biến nhất là vi phạm về thừa kế, hôn nhân gia đình, hợp đồng lao động,
sản xuất, kinh doanh, đất đai, nhà ở,... dẫn đến nhiều vụ khiếu kiện lên tòa án
nhân dân.
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh vi phạm
pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với vi phạm pháp luật thì trước
hết và quan trọng hơn cả là phải nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích những nguyên
nhân, những điều kiện dẫn đến tình trạng nảy sinh hiện tượng vi phạm pháp luật
trong xã hội để rồi từng bước có kế hoạch xoá bỏ những nguyên nhân và điều
kiện đó.
Qua nghiên cứu tìm hiểu cho thấy, tình trạng vi phạm pháp luật trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai xuất phát từ một số nguyên nhân và điều kiện cơ bản sau:
- Về mặt khách quan:
17


+ Những tác động tiêu cực của tàn dư của xã hội cũ để lại trong kinh tế và
trong sinh hoạt hình thành nên những tư tưởng, suy nghĩ, quan điểm sống lỗi
thời, lạc hậu, không phù hợp với xã hội ngày nay.
+ Ảnh hưởng của lối sống và sinh hoạt không lành mạnh từ các nước khác
tới nhân dân mà nhất là thanh niên đã làm hình thành những lối sống tiêu cực
như: chay lười lao động, thích hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, bạo lực,...

+ Do xã hội chưa phát triển cao, năng suất lao động còn thấp nên tình
trạng nghèo nàn và lạc hậu của của một số không nhỏ những người lao động
trong xã hội. Điều kiện kinh tế khó khăn sẽ là điều kiện thuận lợi dẫn đến những
vi phạm pháp luật.
+ Sự lạc hậu trong nhận thức của một số người so với sự phát triển của
đời sống vật chất xã hội; ý thức và sự tuân thủ pháp luật của một bộ phận nhân
dân còn thấp.
- Về chủ quan:
+ Sự yếu kém trong công tác quản lý xã hội dẫn tới quá trình quản lý các
lĩnh vực còn nhiều sơ hở, thiếu sót, dễ bị kẻ xấu lợi dụng.
+ Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta chưa thực sự hoàn thiện và đồng
bộ, nhiều quy định của pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống;
+ Công tác giáo dục chính trị, pháp luật và đạo đức chưa tốt (nhiều người
vi phạm pháp luật vì không hiểu biết pháp luật).
+ Tệ nạn và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội còn tương đối nhiều.
+ Hoạt động của các cơ quan chuyên môn đấu tranh phòng, chống tội
phạm và những hiện tượng tiêu cực trong xã hội còn thiếu sót và hiệu quả thấp,
chưa đáp ứng được với tình hình thực tế.
Ngoài ra còn nhiều những nguyên nhân và điều kiện khác.
Từ sự phân tích về nguyên nhân và điều kiện của tình trạng vi phạm pháp
luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tình trạng trên cần thực hiện một số giải pháp sau:
18


- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng những nhu cầu đòi
hỏi tình hình thực tiễn hiện nay, tạo hành lang pháp lý vững chắc để các cơ quan
nhà nước quản lý các quan hệ xã hội thuận lợi và đạt hiệu quả.
- Đẩy mạnh hoạt động phổ biến, giáo dục, giải thích, hướng dẫn việc thi

hành pháp luật. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân. Tiến hành quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, phát
hiện và xử lý kịp thời các hiện tượng vi phạm pháp luật.
- Kiện toàn và củng cố các cơ quan bảo vệ pháp luật như công an, kiểm
sát, tòa án, thanh tra, tư pháp... để các cơ quan này có đẩy đủ khả năng thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình, đấu tranh có hiệu quả, xử lý nghiêm minh mọi
hành vi vi phạm pháp luật.
- Tạo mọi điều kiện để các tổ chức cũng như mọi cá nhân tích cực tham
gia vào việc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật.
- Kết hợp sức mạnh của mọi tổ chức và mọi cá nhân, huy động mọi
phương tiện có thể, áp dụng linh hoạt giữa cưỡng chế và thuyết phục để phòng
ngừa vi phạm pháp luật, giáo dục, cải tạo các chủ thể vi phạm pháp luật, hạn chế
và tiến tới loại trừ tội phạm và những hiện tượng tiêu cực khác ra khỏi đời sống
xã hội ta.
- Đi đôi với việc tích cực đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật cần
làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật trong xã
hội. Đặc biệt là giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước và
các tổ chức xã hội.

19


KẾT LUẬN
Đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
là nhiệm vụ vô cùng quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Quán
triệt quan điểm đó, thời gian qua, các lực lượng chức năng đấu tranh phòng
chống vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã luôn cố gắng, nỗ lực
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên thực tế cho thấy, tình hình vi

phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai vẫn còn xảy ra thường xuyên, phổ
biến và diễn biến rất phức tạp. Tình hình đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khách quan lẫn chủ quan.
Qua nghiên cứu những lý luận cơ bản về vi phạm pháp luật đồng thời
phân tích, đánh giá tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, tìm
ra những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng đó, tiểu luận đã đề ra một số giải
pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống vi phạm
pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đây là những giải pháp hoàn toàn có cơ sở
khoa học và thực tiễn, nếu được tổ chức thực hiện một cách đồng bộ chắc chắn
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai trước mắt cũng như lâu dài.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật – Đại học Luật Hà Nội.
2. PGS.TS Trịnh Văn Thanh, Dự thảo Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp
luật – Phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện
nay.
3. Nguyễn Văn Yểu - Ủy viên BCH TƯ Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội khóa
IX, Hoàn thiện hệ thống pháp luật để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
4. Website báo điện tử tỉnh Đồng Nai: www.baodongnai.com.vn

21




×