Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận phướng hướng hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.92 KB, 29 trang )

LI M U
Hệ thống ngân hàng trong bất kỳ một nền kinh tế nào cũng luôn giữ vai
trò quan trọng trong quá trình ổn định và phát triển kinh tế xà hội. Với t cách
là một định chế tài chính trung gian, hệ thống ngân hàng không những chỉ
thực hiện tốt việc huy động, phân phối lại nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
xà hội, thanh toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức, cá
nhân mà còn thực hiện việc kiểm tra kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tính hiệu quả trong hoạt động kinh tế, sự phồn thịnh hay suy thoái của
nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào chất lợng hoạch định và thực thi chính sách
tiền tệ một cách linh hoạt có hiệu quả và chất lợng hoạt động của hệ thống
ngân hàng. Để đánh giá đợc hiệu quả trong hoạt động kinh tế thì cách tốt nhất
là phải đánh giá đợc chất lợng hoạt động của hệ thống ngân hàng. Việc lợng
hoá chất lợng hoạt động của hệ thống ngân hàng lại chỉ có thể đợc thực hiện
thông qua công tác kiểm toán.
Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế
thế giới, những yêu cầu đòi hỏi về chất lợng của thông tin đặc biệt là thông tin
về kết quả hoạt động kinh doanh của các đơn vị trong nền kinh tế đà ngày
càng khẳng định vai trò của công tác kiểm toán nội bộ cũng là một trong
những hình thức của kiểm toán trong đó nó nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá hoạt
động của doanh nghiệp ở từng bộ phận, từng đơn vị.
ở Việt Nam, hoạt động kiểm toán nói chung cũng bắt đầu đợc thực hiện
vào cuối những năm 80 và kiểm toán nội bộ đợc áp dụng thực hiện vào đầu
những năm 90-91. Sự phát triển mạnh mẽ của kiểm toán nói chung và kiểm
toán nội bộ nói riêng đà tác động lớn đến tính hiệu quả, xu hớng hoạt động
của các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế - mọi doanh nghiệp và đơn vị kinh
doanh trong đó có các NHTM đều phải điều chỉnh và hoàn thiện các hoạt
động của mình nhằm xây dựng tổ chức mình ngày càng mạnh mẽ hơn, tạo sự
tin cậy hơn trong công chúng để tăng sức cạnh tranh của mình trong nền kinh
tÕ. HƯ thèng NHTM ViƯt Nam cịng thùc hiƯn ho¹t động KTNB xuất phát từ
chính nhu cầu của mình để tạo ra những động lực thúc đẩy phát triển.
Sau gần 10 năm hoạt động KTNB trong các NHTM đà đạt đợc nhiều


thành quả nhng bên cạnh đó công tác KTNB cũng phát sinh nhiều vấn đề bất
cập nh những sai phạm trong qui trình KTNB, qui tắc của KTNB, tổ chøc...
1


Xuất phát từ những vấn đề này đà nảy sinh trong tôi ý tởng nghiên cứu đề
tài Phơng hớng hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng
thơng mại.
Nội dung đề tài bao gồm những phần sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận về KTNB trong các NHTM Việt Nam
I. Bản chất, chức năng và nhiệm vụ của KTNB
II. Nội dung, hình thức của KTNB
III. Sự cần thiết phải KTNB trong các NHTM
Phần II: Thực trạng của hoạt động KTNB trong các NHTM ở Việt
Nam hiện nay và các ý kiến đề xuất
I. Thực trạng khó khăn
II. ý kiÕn ®Ị xt

2


Phần I: Những vấn đề lý luận về KTNB trong các
NHTM Việt Nam

I. Bản chất chức năng và nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ

Trên thế giới thuật ngữ kiểm toán (KT) đà có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu
cầu xác định tính trung thực độ tin cậy của thông tin trong BCTC, kế toán và
thực trạng tài sản cđa mét chđ thĨ trong quan hƯ kinh tÕ.
ë ViƯt Nam tht ng÷ kinh tÕ míi chØ xt hiƯn tõ những năm cuối của

thập kỷ 80 nhng nó đà nhanh chóng trở nên rất quan trọng trong hoạt động
kinh tế và đặc biệt kể từ khi Việt Nam bớc sang nền kinh tế thị trờng.
Nếu nh kế toán có nhiệm vơ tỉ chøc hƯ thèng th«ng tin phơc vơ cho các
quyết định kinh tế của các đối tợng có liên quan thì kinh tế có trách nhiệm
thẩm tra đánh giá, đảm bảo và nâng cao độ tin cậy của các thông tin kinh tế.
Nh vậy có thể hiểu một cách tổng quát: kiểm toán là việc kiểm tra, thẩm định,
đánh giá nhằm xem xét chất lợng hoạt động của một tổ chức, chất lợng của
các hồ sơ tài chính, kế toán.
Kiểm toán đợc định nghĩa theo cách chung nhất, nh sau: Kiểm toán là
quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các
bằng chứng về các thông tin có thể định lợng đợc của một đơn vị cụ thể nhằm
mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với
các chuẩn mực đà đợc thiết lập từ trớc.
Có nhiều cách phân loại kiểm toán khác nhau. Nếu phân loại theo chủ
thể kiểm toán thì kiểm toán có thể gồm 3 loại là kiểm toán độc lập và kiểm
toán nội bộ.
KTNN là công việc là kiểm toán do cơ quan kiểm toán nhà nớc tiến hành
để xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ, chế độ của nhà nớc và sự
đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt động tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh
phí của nhà nớc. Kiểm toán nhà nớc có nhiệm vụ kiểm tra, xác nhận việc chi
tiêu đúng mục đích, đúng dự toán và có hiệu quả ngân quỹ của nhà nớc. Bên
cạnh đó, KTNN còn có quyền góp ý và yêu cầu các đơn vị đợc kiểm toán sửa
chữa những sai phạm và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm,
đề xuất với chủ nhà nớc sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần
3


thiết.
Kiểm toán độc lập là công việc kiểm toán do các kiểm toán viên độc lập
hành nghề trong các công ty kiểm toán hoặc trong các văn phòng kiểm toán

chuyên nghiệp tiến hành. Trên thế giới, kiểm toán độc lập là loại hoạt động
dịch vụ t vấn dới sự bảo hộ và thừa nhận của pháp luật. Ngày nay công việc
kiểm toán độc lập càng ngày càng đợc quản lý chặt chẽ bởi các hiệp hội
chuyên ngành về kiểm toán. Hoạt động chủ yếu của kiểm toán độc lập là kiểm
toán báo cáo tài chính và thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của khách hàng
ngoài ra còn thực hiện các dịch vụ t vấn về tài chính - kế toán thuế. ở Việt
Nam trong những năm gần đây kiểm toán độc lập đà và đang phát triển mạnh
mẽ. Tính đến đầu năm 1998, trong lĩnh vực kiểm toán độc lập có 6 công ty
KTNN, 4 công ty kiểm toán 100% vốn nớc ngoài, 2 công ty liên doanh và một
số công ty t nhân.
KTNB là công việc kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị
viên hành theo yêu cầu của giám độc doanh nghiệp hoặc thủ trởng đơn vị.
1. Bản chất của KTNB
Xuất phát từ quan điểm thuần tuý về kế toán nhằm phát hiện các sai sót,
gian lận, KTNB đà dần dần mở rộng phạm vi hoạt động trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động của chính trị hay của doanh nghiệp và hớng hoạt động KTNB
vào việc cải thiện và nâng cao chất lợng hoạt động tăng cờng sức mạnh cho cơ
chế kiểm soát nội bộ.
Lịch sử phát triển hoạt động kiểm toán ở các nớc có nền kinh tế thị trờng
cho thấy KTNB là một nghề nghiệp mới mẻ. Tuy lúc đầu KTNB mang tính
chất không chuyên, không tồn tại ở các doanh nghiệp hay đợc coi nh một
phần kiểm toán độc lập nhng về sau nó đà trở thành một nghề có tính chuyên
nghiệp.
KTNB là công cụ quản lý của các nhà lÃnh đạo doanh nghiệp để kiểm
soát, đánh giá, phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá và
điều chỉnh chiến lợc kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. KTNB cũng là công
cụ để phân tích đánh giá chất lợng của hệ thống kiểm toán và hệ thống kiểm
toán nội bộ.
Trong doanh nghiệp, KTNB là bộ phận chịu trách nhiệm xem xét lại một


4


cách định kỳ các biện pháp mà ban giám đốc và các nhà quản lý ở mọi cấp áp
dụng để quản lý và kiểm soát doanh nghiệp. Chức năng này đợc đảm nhiệm
bởi một bộ phận chịu sự điều hành của Ban giám đốc nhng hoàn toàn độc lập
với tất cả các bộ phận khác.
Các mục tiêu chính của KTNB trong khuôn khổ xem xét định kỳ là kiểm
trra các thủ tục có đủ an toàn và các thông tin có trung thực, tin cậy hay
không, các nghiệp vụ có hợp thức, tổ chức hoạt động có hiệu quả, cơ cấu có rõ
ràng và thích hợp hay không.
Nh vậy, từ doanh nghiệp cho thấy KTNB không chỉ giới hạn trong bộ
phận kế toán và tài chính của doanh nghiệp, chính vì vậy đà xuất hiện kiểm
toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ cùng với khái niệm kiểm toán báo cáo tài
chính .
Tóm lại KTNB là hoạt động cần thiết của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trờng, là nhu cầu cần thiết khách quan cho việc kiểm soát chất lợng
hoạt động và đảm bảo chất lợng thông tin kinh tế, tài chính của BCTC, kiểm
toán hoạt động và kiểm toán tính tuân thủ các qui định, các chế độ hiện hành
của nhà nớc và của doanh nghiệp,...Trên thực tế KTNB đà hình thành và phát
triển khá mạnh ở nhiều quốc giá trên thế giới. Nhng ở nớc ta KTNB còn là vấn
đề khá phức tạp và còn mới mẻ. Vì vậy cần phải có sự thống nhất về nhận thức
và cách thức tiến hành, triển khai và thực hiện không những ở các doanh
nghiệp mà còn ở các tổ chức tài chính - tiền tệ (nh ngân hàng), cơ quan quản
lý nhà nớc...
ở các nớc trên thế giới, thông lệ KTNB không đợc qui định bởi pháp
luật. Nói một cách khác, không có qui định nào bắt buộc một công ty nhà nớc
hay t nhân phải có KTNB. Việc quyết định thành lập bộ phận KTNB phải xuất
phát từ sự tự nguyện, từ yêu cầu thực tế của ban giám đốc. Các mục tiêu và
chức năng của KTNB vì thế mà thay đổi tuỳ theo yêu cầu cụ thể của ban giám

đốc.
2. Chức năng của KTNB
Số liệu tài liệu kế toán, BTCT của doanh nghiệp là căn cứ pháp lý để
đánh giá tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình thực
hiện nghĩa vụ với nhà nớc, với các bên liên quan với doanh nghiệp. Doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm trớc pháp luật về tính đầy đủ, trung thực, hợp lý
5


của các số liệu kế toán và các thông tin trong BCTC đà đợc công bố. Do đó
nhà nớc yêu cầu các doanh nghiệp phải thờng xuyên tổ chức KTNB nhằm
đánh giá về chất lợng và độ tin cậy của các thông tin đó.
Để thực hiện yêu cầu KTNB có 3 chức năng cơ bản là kiểm tra, xác nhận
và đánh giá.
Phạm vi kiểm tra, xác nhận và đánh giá của KTNB bao gồm:
Thứ nhất là độ tin cậy của thông tin tài chính - kế toán do kế toán tổng
hợp xử lý và trình bày.
Thứ hai là tính tuân thủ luật pháp và các qui chế, các qui định của nhà nớc, các qui định của bản thân doanh nghiƯp.
Thø ba lµ tÝnh hiƯu lùc cđa hƯ thèng kiĨm soát nội bộ.
Thứ t là tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế và việc sử dụng các
nguồn lực, lựa chọn các phơng án các quyết định kinh tế.
3. Nhiệm vụ của KTNB
Để làm đúng và trọn vẹn chức năng của mình, kiểm toán nội bộ có nhiệm
vụ sau đây:
Thứ nhất là kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, tính hiệu lực và hiệu quả
của hệ thống KTNB trong đơn vị, trong doanh nghiệp.
Thứ hai là kiểm tra và xác nhận chất lợng, độ tin cậy của thông tin kinh
tế, tài chính, của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị doanh nghiệp trớc
khi trình ký duyệt và công bố.
Thứ ba là kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ luật pháp chính sách, chế độ

tài chính, kế toán, chính sách, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị,
của ban giám đốc doanh nghiệp.
Thứ t là phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong
bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến hoàn
thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của doanh nghiệp.
Đây là những nhiệm vụ cơ bản nhất mà một cuộc KTNB cần phải hoàn
thành để đáp ứng yêu cầu về thông tin cho doanh nghiệp cũng nh những ngời
quan tâm ®Õn doanh nghiÖp.

6


II. Nội dung hình thức KTNB

1. Nội dung công việc của KTNB
Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình kiểm toán có 3 nội dung
công việc sau:
Một là kiểm toán hoạt động
Hai là kiểm toán báo cáo tài chính
Ba là kiểm toán tuân thủ
Tuỳ yêu cầu của BGĐ và các bộ phận đợc kiểm toán cùng với năng lực,
hoàn cảnh điều kiện có thể thực hiện 3 nội dung công việc kiểm toán hay một
trong 3 công việc cuả hoạt động kiểm toán.
a) Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động đánh giá tính hiệu quả, tác dụng của 1 phơng án
kinh doanh, 1 qui trình công nghệ hay một loại TSCĐ muốn đa vào hoạt động.
Kiểm toán hoạt động sử dụng các kỹ năng khác nhau: kế toán, tµi chÝnh, kinh
tÕ, kü tht vµ khoa häc... KÕt thóc cuộc kiểm toàn thờng lập một bản giải
trình đánh giá, kết luận các mặt tốt, xấu gửi cho các cơ quan cã thÈm qun.
Néi dung chđ u cđa kiĨm to¸n hoạt động gồm:

Thứ nhất là kiểm tra việc huy động, phân phối sử dụng một cách tiết
kiệm và có hiệu quả các nguồn lực (nhân lực, vật t và tài sản, vốn, lợi thế kinh
doanh...) của doanh nghiệp.
Thứ hai là kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh,
phân phối và sử dụng thu nhập, kết quả bảo toàn và phát triển vốn.
Thứ ba là kiểm tra và đánh giá hiệu quả và hoạt động của các bộ phận
chức năng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
b) Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là thờng do cấp trên kiểm tra các đơn vị cấp dới về
việc cháp hành các qui định, qui chế.
Nội dung công việc kiểm toán tuân thủ
Thứ nhất là việc kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài
chính, kế toán, chế độ quản lý của nhà nớc và tình hình chấp hành các chính
7


sách, nghị quyết, quyết định, qui chế của hội đồng quản trị, của ban giám đốc.
Thứ hai là kiểm tra tính tuân thủ các qui định về nguyên tắc, qui trình
nghiệp vụ, thủ tục quản lý của toàn bộ cũng nh của từng khâu công việc, của
từng biện pháp trong hệ thống kiểm soát nội bộ.
Thứ ba là kiểm tra sự chấp hành các nguyên tắc, chính sách, các chuẩn
mực kế toán từ khâu lập chứng từ vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán,
tổng hợp thông tin và trình bày báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị đến
lu trữ tài liệu kế toán...
c) Kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị nhằm kiểm
tra xác nhận các thông tin số liệu trên báo cáo tài chính đợc tập hợp có trung
thực và hợp lý không, có phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán
thông dụng đà đợc chấp nhận không,...
Nội dung công việc của kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán
quản trị gồm:

Thứ nhất là kiểm tra và xác nhận tính kịp thời, đầy đủ, khách quan, tính
tin cậy của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trớc khi giám đốc ký
duyệt và công bố.
Thứ hai là kiểm tra và đánh giá các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán
quản trị đợc ra những kiến nghị và t vấn cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm bảo đảm sụ hợp lý và hiệu quả.
2. Các hình thức kiểm toán nội bộ
Hoạt động KTNB có thể tiến hành dới nhiều hình thức khác nhau. Mỗi
hình thức kiểm toán đem lại những kết quả nhất định và thoả mÃn những yêu
ầu khác nhau. Tuỳ từng điều kiện hoàn cảnh và trong từng khoảng thời gian
không gian cụ thể cần và có thể vận dụng các hình thức kiểm toán một cách
thật linh hoạt sao cho có hiệu quả. Trên thực tế trong công tác KTNB ngời ta
sử dụng các hình thức sau:
a) Thứ nhất là kiểm toán toàn diện và kiểm toán đặc biệt
Kiểm toán toàn diện nhằm vào toàn bộ hoạt động kinh doanh, hoạt động
kế toán với mục đích xem xét sự chính xác của tài liệu, số liệu kế toán, đồng
thời tìm hiểu xem các tài liệu này đà phản ánh trung thực của tình hình hoạt
động của cơ quan, tình hình kinh doanh của doanh nghiÖp cha.
8


Trái lại, kiểm toán đặc biệt (hay kiểm toán chuyên đề) tập trung vào số
nghiệp vụ nhất định, ví dụ nh kiểm toán ngân quỹ, kiểm toán hoạt động bán
hàng, kiểm toán chi phí, lợi nhuận,...
Tuy nhiên để phân biệt giữa 2 loại kiểm toán này cũng không đơn giản,
vì đôi khi 1 cuộc kiểm toán đặc biệt chỉ nhìn vào một vấn đề xem công ty có
chia lÃi đúng qui định không, cũng đòi hỏi phải thực hiện một cuộc kiểm toán
hầu nh toàn diện mới có đủ yếu tố để xác định.
Do đó, tiêu chuẩn phân biệt hai loại kiểm toán này nằm ở chỗ bao gồm
nhiều hay ít nghiệp vụ phải kiểm toán. Nếu cuộc kiểm toán chỉ nhằm vào một

đối tợng, một vấn đề nào đó đợc xác định rõ thì đó là kiểm toán đặc biệt. Trái
lại, nếu cuộc kiểm toán bao quát nhiều vấn đề nhằm vào nhiều mục đích thì
đó là kiểm toán toàn diện.
b) Kiểm toán thờng xuyên và kiểm toán định kỳ
Kiểm toán thờng xuyên là thực hiện các việc thẩm tra, xem xét liên tục,
hàng tuần, hàng tháng trong suốt năm. Hình thức này tỏ ra khá hữu hiệu vì có
thể giúp cho việc phát hiện mau chóng kịp thời các sai sót, nhờ đó hạn chế
ngăn chặn đợc các tác hại. Nhờ đó thực hiện thờng xuyên, các cuộc kiểm toán
này có tác dụng ngăn chặn, phòng ngừa rất hiệu quả.
Kiểm toán định kỳ chỉ nhằm theo dõi tình hình qua các báo cáo tài chính
kế toán hàng tháng, thàng quý hay cả năm nghiên cứu đánh giá bảng cân đối
kế toán giữa năm hay cuối năm để đa ra những nhận xét kết luận, đánh giá
công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
Do khoảng cách về thời gian kiểm toán cách nhau khá xa nên nhiều khi
không mang lại kết quả mong muốn về các sai trái, tiêu cực (nếu có) đà gây ra
những hậu quả khó có thể khắc phục.
c) Kiểm toán phòng ngừa và kiểm toán sau hoạt động
Kiểm toán phòng ngừa là loại hình kiểm toán bao gồm những biện pháp
phòng ngừa đợc áp dụng trớc hay ngay sau khi mét nghiƯp vơ kÕ to¸n ph¸t
sinh nhằm bảo đảm cho bộ máy kế toán hoạt động chuẩn xác và hợp thức, loại
trừ các sai phạm trớc hay ngay khi chúng xuất hiện.
Kiểm toán sau hoạt động chỉ nhằm xem xét khảo sát để xác định xem
các sổ kế toán có trung thực chính xác không, đồng thêi ph¸t gi¸c c¸c vi
9


phạm, gian lận nếu có.
Công việc kiểm toán sau hoạt động thực hiện khác các công việc kế toán
đà đợc thực hiện xong một thời gian khá lâu các nghiệp vụ đà đợc ghi vào sổ
kế toán tổng hợp và lên báo cáo tài chính.

Hai hình thức này mặc dù có sự khác nhau nhng vẫn có sự hỗ trợ nhau rất
hữu hiệu. Một mặt, chính nhờ các kinh nghiệm, các kết luận đợc rút từ những
cuộc kiểm toán sau hoạt động mà các chuyên gia mới xây dựng, thiết lập các
biện pháp phòng ngừa cho công tác kiểm toán phòng ngừa. Mặt khác, việc ban
hành các biện pháp phòng ngừa không chỉ đơn thuần đa ra các chỉ thị, các qui
định mà còn phải có những sự kiểm toán theo dõi sự tuân thủ, chấp hành nữa,
đó là một dạng kiểm toán sau hoạt động đầu tiên.
3. Đối tợng cđa KTNB
Cịng nh kiĨm to¸n nãi chung, KTNB cịng cã đối tợng là các sai lầm và
gian lận.
Đối tợng của công tác kiểm toán là xem xét đánh giá sự đánh giá hợp
thức của các số liệu, tài liệu kế toán. Để có thể đạt đến mục đích này công
việc phải làm là xác định các sổ kế toán, các số liệu kế toán đ ợc kiểm tra
không chứa đựng một sai lầm hay gian lận nào.
Do đó đối tợng của kiểm toán là loại trừ các sai lầm và gian lận
Sai lầm và gian lận là các khiếm khuyết, các vi phạm đối với nguyên tắc
và luật lệ kế toán đà đợc qui định. Sự khác biệt giữa sai lầm và gian lận nằm
trong yếu tố ý đồ.
Sai lầm là sự vi phạm do bất cẩn, vô ý hay kém cỏi mà ngời thực hiện
hoàn toàn không có.
Gian lận là một sự vi phạm do cố tình mà ngời thực hiện có ý đồ phạm
pháp rõ rệt.
Trên thực tế kiểm toán viên nhiều khi khó phân biệt xem sự vi phạm nào
là sai lầm và sự vi phạm nào là gian lận. Xác định một trờng hợp vi phạm là có
ý đồ hay không có ý đồ hoàn toàn không đơn giản.
Các dạng sai lầm thờng gặp là do thiếu sót, do định khoản sai, nhầm lẫn
về ghi sổ và chuyển khoản sổ, nhầm lẫn do trùng lắp, sai lÇm bï trõ nhau, sai

10



lầm về nguyên tắc.
Các hình thức gian lận thờng gặp là gian lận tiền bạc và tài sản tạo dựng
tình huống.
III. Qui trình về trình tự kiểm toán nội bộ

Quy tr×nh vỊ tr×nh tù KTNB trong mét doanh nghiƯp bao gồm các bớc
sau:
1) Lập kế hoạch và lựa chọn phơng pháp kiểm toán
Công việc chủ yếu ở bớc này bao gồm
Thứ nhất là lập chơng trình kế hoạch, xác định mục tiêu, nội dung, phạm
vi và thời gian tiến hành KTNB.
Thứ hai là xác định qui mô cuộc kiểm toán, phơng pháp, cách thức tiến
hành kiểm toán, biện pháp tổ chức thực hiện, tổ chức lực lợng kiểm toán (bao
gồm cả KTV trong ngoài doanh nghiệp và các nhân viên chuyên môn cần huy
động).
2) Công tác chuẩn bị kiểm toán
Sau khi thực hiện song bớc 1 kiểm toán tiến hành thực hiện bớc 2 gồm
các công việc sau:
Thứ nhất là nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến tình hình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, nhiệm vụ kế hoạch hoặc các điều kiện,
biện pháp, các chính sách, qui định của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh sẽ
kiểm toán. Sơ bộ đánh giá về điều kiện và môi trờng hoạt động kinh doanh
ảnh hởng đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai là xem xét các báo cáo, tài liệu, hồ sơ kiểm toán trớc đó, kể cả
các tài liệu bên ngoài doanh nghiệp có liên quan đến cuộc kiểm toán; tóm tắt
thông tin cần phải kiểm tra trong quá trình kiểm toán sắp tới, thu thập và
chuẩn bị các mẫu, các chơng trình, các chỉ dẫn cho cuộc kiểm toán sẽ đợc tiến
hành.
3) Thực hiện việc kiểm toán

Các nhiệm vụ trong bớc này gồm:
Một là phải xem xét, thu thập và đánh giá đầy đủ các b»ng chøng cÇn

11


thiết có liên quan kể cả các chứng cứ bên ngoài doanh nghiệp.
Hai là xem xét, đánh giá việc thực hiện các chính sách, qui định trong
thực tế hoạt động của doanh nghiệp.
Ba là đánh giá khả năng sai sót nhầm lẫn, gian lận đối với từng loại
nghiệp vụ, từng hoạt động kinh tế, đánh giá tính trọng yếu và rđi ro trong c¸c
nghiƯp vơ ph¸t sinh tõ néi bé doanh nghiệp .
Bốn là thực hiện phân tích, khảo sát,các khoản mục chính, khảo sát, bổ
xung các chi tiết, xem xét các sự kiện tiếp sau, đang kết quả cuộc kiểm toán.
Năm là các bớc tiến hành thực hiện cuộc kiểm toán phải theo đúng qui
trình của một cuộc kiểm toán và các bớc tiến hành kiểm toán phải đợc ghi
nhận trên tài liệu hồ sơ kiểm toán .
4. Kết thúc cuộc kiểm toán
Là bớc cuối cùng của một cuộc kiểm toán
Khi kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải lập báo cáo kiểm
toán. Trong báo cáo kiểm toán phải trình bày đầy đủ các nội dung và kết quả
kiểm toán theo mục tiêu, yêu cầu đà đề ra cho từng cuộc kiểm toán, các phân
tích đầy đủ, hợp lý của báo cáo kiểm toán, báo cáo kết quả từ hàng năm trớc
khi trình ký duyệt, đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai sót, gian
lận, các vi phạm, nêu các giải pháp cần thiết để nâng cao chất lợng và hiệu
quả quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
Phúc tra kết quả kiểm toán là công việc tiếp sau cuộc kiểm toán nhằm
kiểm tra lại việc triển khai thực hiện những kiến nghị, những đề nghị xử lý và
những giải pháp đà nêu trong báo cáo kiểm toán ở các bộ phận quản lý, điều
hành kinh doanh của doanh nghiệp.

IV. Sự cần thiết phải kiểm toán nội bộ ở các NHTM

Xuất phát từ bản chất chức năng và nhiệm vụ của công tác kiểm toán
nội bộ cho thấy sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của KTNB là vấn đề hết sức
cần thiết trong mọi ngành mọi lĩnh vực trong nền KTQD, tạo điều kiện tốt cho
các chủ thể nắm bắt chính xác về những thông tin của chính mình và các đối
tác của mình...
1. Khái niệm về KTNB trong các NHTM
12


KTNB của các NHTM là cơ quan chức năng giúp Hội đồng quản trị,
Tổng giám đốc xác định đợc những thông tin hợp lý về tình hình sản xuất kinh
doanh, việc chấp hành các qui chế, chính sách của cấp trên, của ngành, của
nhà nớc, xác định tính đúng đắn và hợp lý của các báo cáo tài chính của các
đơn vị thành viên, của cả hệ thống. Đồng thời là cơ sở để kiểm toán viên độc
lập xem xét trong quá trình kiểm toán trong quá trình kiểm toán và xác nhận
báo cáo tài chính hàng năm.
2. Đặc trng hoạt động của các NHTM :
Theo quan điểm chung trên thế giới thì ngân hàng là một loại hình
doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Theo pháp lệnh
ngân hàng Việt Nam NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ là hoạt động chủ
yếu và thờng xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phơng
tiện thanh toán.
Tóm lại, NHTM cũng giống nh các doanh nghiệp khác ở chỗ nó cũng
có một hệ thống cơ cấu tổ chức và mục tiêu hoạt động cao nhất cũng vẫn là lợi
nhuận là việc đa dạng hoá vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và NHTM.
Có thể khẳng định rằng, đặc trng quan trọng nhất trong hoạt động của
các NHTM cã thĨ lµ mang tÝnh rđi ro cao, rđi ro mang tÝnh qui lt nh rđi ro

tÝn dơng, hèi ®o¸i... TÝnh rđi ro cao mang tÝnh qui lt trong hoạt động của các
NHTM xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, có thể kể đến là do các NHTM hoạt động dựa trên cơ sở thu
hút tiền của khách hàng (dới hình thức nhận tiền gửi, huy động bằng KP, kỳ
phiếu và đi vay...) , với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay,
đầu t và các nghiệp vụ thanh toán.
Nh vậy NHTM tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua
việc sử dụng không chỉ bằng nguồn vốn tự có của mình mà chủ yếu bằng
nguồn vốn tín dụng huy động của khách hàng. Nếu nh NHTM không thu hồi
đợc số nợ mà họ đà cho vay hoặc đầu t cũng gặp phải rủi ro thì không những
họ bị mất nguồn vốn tự có của bản thân mà còn có nguy cơ không thể hoàn trả
đợc số tiền đà huy động của khách hàng. Điều này dẫn đến sự phá sản của
ngân hàng và đây là rủi ro lớn nhất của NHTM.

13


Thứ hai, do NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, nó khác với
các doanh nghiệp bình thờng ở chỗ NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán mà tiền tệ luôn luôn gắn liền với rủi ro, rủi ro
về sự biến động giá trị của đồng tiền. Do đó mà hoạt động của NHTM cũng
gắn liền với rủi ro.
Thứ ba, hoạt động của NHTM gắn liền với một mảng trong nền KTQD
nếu nh trình độ pháp lý và khả năng điều hành của các cấp lÃnh đạo chỉ cần có
một chút sơ xuất là có thể gây ra thiệt hại lớn cho nền kinh tế rất dễ dẫn đến
tình trạng phá sản lan truyền giữa các NHTM trong nền kinh tế.
Thứ t, rủi ro có thể đến với bất kỳ một ngân hàng nào nếu nh nó không
có sức cạnh tranh trên thị trờng, không tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc
trên thÞ trêng.
Rđi ro mang tÝnh chđ quan cđa con ngêi cũng làm ảnh hởng không nhỏ

đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro đó có thể là do:
Một là, trình độ quản lý, khả năng điều hành của các cấp lÃnh đạo.
Theo báo cáo tổng kết của các NHTM năm 1996-1997 vẫn còn một số cán bộ
lÃnh đạo ngân hàng trình độ chuyên môn cha toàn diện, cha nâng cao. Bên
cạnh đó có một số khác trong khi quản lý điều hành còn thể hiện tính quan
liêu, thiếu sâu sát, buông lỏng quản lý. Từ đó dẫn đến hàng loạt trờng hợp các
phòng tín dụng, kế toán thực hiện nghiệp vụ không đúng quy định của NHNN.
Tất cả những sai sót đó nhìn bề ngoài tuy không nghiêm trọng nhng chúng có
thể đa đến những ruỉ ro khó lờng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hai là, phẩm chất cán bộ ngân hàng: Phần lớn cán bộ ngân hàng các
NHTM Việt Nam đều có phẩm chất đạo đức tốt. Tuy nhiên bên cạnh đó còn
không ít cán bộ ngân hàng có những hành vi không đúng với phẩm chất cán
bộ ngân hàng, lợi dụng chức quyền hoặc sơ hở của chính sách, chế độ làm thất
thoát tài sản của nhà nớc.
Ba là, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quả lý. Hiện
nay, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý còn cha cao nên
công tác quản trị điều hành của các cấp lÃnh đạo ngân hàng đối với các chi
nhánh trực thuộc cha đợc nhanh chóng và nhạy bén. Điều này có thể đem đến
rủi ro mất các cơ hội kinh doanh của ngân hàng.

14


Bốn là, chất lợng công tác kiểm soát nội bộ ở các NHTM: Hiện nay
công tác kiểm soát nội bộ ở các NHTM còn mang nặng tính hình thức, chiếu
lệ, thực hiện không đều đặn, thiếu thờng xuyên và thiếu năng động. Do đó kết
quả mang lại thờng chỉ để sửa sai sót, rút kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp sau
nhiều hơn là ngăn chặn kịp thời các sai sót, rủi ro sắp xảy ra.
Còn nhiều vấn đề có thể dẫn đến rủi ro cho hoạt động của các NHTM
có thể xuất phát từ phía khách hàng, có thể là từ phía ngân hàng và cũng có

thể là do khách quan (khủng hoảng tài chính khu vực, động đất, lạm phát ... ),
có thể còn xuất phát từ các chính sách của Nhà nớc...
Tóm lại, có thể nói, ngân hàng là nghề của rủi ro. Điều đó có nghĩa là
các loại rủi ro luôn luôn bao vây, rình rập ngân hàng.Khi có bất kỳ một sai
sót, sơ hở nào chúng cũng có thể xuất hiện để làm cho hoạt động của ngân
hàng sa sút và phát sản.
3. Sự cần thiết phải KTNB trong các NHTM
Xuất phát từ đặc trng trong hoạt động của các NHTM mang tính rủi ro
cao các nguyên nhân dẫn đến rủi ro đà buộc các NHTM trong bất cứ một môi
trờng, chế độ xà hội nào cũng đều phải biết cách định dạng đợc các rủi ro và
chế ngự sự xuất hiện của chúng thì các NHTM mới có thể tồn tại đợc.
Từ điều trên, chúng ta không ngạc nhiên khi hầu hết các NHTM ở
những nớc tiên tiến đều có hệ thống phân tích, dự đoán rủi ro để chế ngự sự
xuất hiện và phá hoại của chúng đối với hoạt động của ngân hàng. Hệ thống
phân tích, định dạng rủi ro chế nghự đó chính là "kiểm toán nội bộ".
Mặc dù là một nớc chậm phát triển, ngành ngân hàng Việt Nam ra đời
muộn hơn rất nhiều so với các nớc trên thế giới nhng các NHTM Việt Nam
cũng không thể nằm ngoài tính qui luật nói trên đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay hoạt động của các ngân hàng trong môi trờng cạnh tranh thì việc tổ chức
công tác kiểm toán nội bộ thực sự là vấn đề bức thiết.
Hơn nữa KTNB giúp cho các NHTM công khai các báo cáo tài chính,
thông tin có giá trị xác thực tạo điều kiện củng cố niềm tin, uy tín, sức mạnh
tăng u thế cạnh tranh trên thị trờng. Đây chính là một trong số các mục tiêu
của các NHTM.
Thêm vào đó, hiện nay phần lín c¸c NHTM ë ViƯt Nam thêng cã c¸c
15


chi nhánh và các đơn vị thành viên thực hiện hạch toán độc lập hay các đơn vị
sự nghiệp. Nh vậy trong một NHTM các hệ thống báo cáo tài chính đợc xây

dựng từ những nghiệp vụ phát sinh ở các cơ sở trực tiếp giao dịch. Do vậy khi
tổng hợp quyết toán toàn NHTM thì cần thiết phải thẩm tra, xem xét, đánh giá
cho đúng chuẩn mực từng nghiệp vụ phát sinh, từng loại báo cáo tài chính. Để
thẩm tra, xem xét, đánh giá các báo cáo tài chính từ cơ sở cho phù hợp với các
loại chuẩn mực thì cần thiết phải có đội ngũ KTVNB tiến hành kiểm toán và
ký xác nhận vào từng loại báo cáo trớc khi tập hợp toàn ngân hàng.
Nói tóm lại, trong giai đoạn hiện nay các ngân hàng hoạt động theo cơ
chế thị trờng. KTNB trở nên hết sức cần thiết. Việc thực hiện KTNB trong các
NHTM tạo điều kiện cho các NHTM luôn có ý thức tự hoàn thiện các hoạt
động của mình, nâng cao và củng cố niềm tin, uy tín của ngân hàng trên thị trờng, là điều kiện vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại của các NHTM. Do dó,
các NHTM không những phải làm tốt công tác KTNB mà còn biến nó trở
thành một công cụ cạnh tranh của mình trên thị trờng.
4. Các loại KTNB trong ngân hàng
KTNB trong ngân hàng đợc chia thành các loại khác nhau dựa vào các
giai đoạn phát sinh, thực hiện và kết thúc nghiệp vụ ngân hàng và mỗi loại lại
có tác dụng cụ thể khác nhau.
Thứ nhất, là kiểm toán giai đoạn 1 : còn gọi là kiểm toán trớc. Trong
cuộc kiểm toán giai đoạn này nhờ vào sự thành thạo về các qui định, qui chế
kiểm toán viên nội bộ có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý của hồ sơ,
chứng từ trớc khi nghiệp vụ đợc thực hiện.
Thứ hai, là kiểm toán giai đoạn 2 : còn gọi là kiểm toán trong của quy
trình thực hiện. Giai đoạn này các kiểm toán viên lựa chọn cách thứ, phơng
pháp kiểm toán áp dụng thích hợp phụ thuộc vào từng nghiệp vụ và từng loại
rủi ro khác nhau.
Tác dụng của kiểm toán giai đoạn này là giám sát quá trình thực hiện,
hạn chế khả năng xảy ra lệch lạc, sai sót nh thực hiện không đúng trình tự
nghiệp vụ qui định, sai sót về thủ tục hoặc sai sót về số tiền nhằm ngăn chặn
kịp thời những thiệt hại về sau.
Thứ ba, là kiểm toán giai đoạn 3 : còn gọi là kiểm toán sau. Lo¹i kiĨm


16


toán này đợc thực hiện khi nghiệp vụ đà hoàn thành. Kiểm toán sau ngoài việc
kiểm tra lại hồ sơ chứng từ nghiệp vụ, rà soát lại tính hợp lý, hợp lệ của nghiệp
vụ ở 2 giai đoạn trớc, còn có tác dụng phát hiện ra những hiện tợng bất thờng
trong những nghiệp vụ đà hoàn thành.
Nh vậy sự an toµn trong kinh doanh tiỊn tƯ - tÝn dơng cđa các NHTM
phần lớn là dựa vào công tác kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ.
Do đó, trong điều kiện hiện nay, các NHTM Việt Nam càng phải nâng
cao chất lợng kiểm toán nội bộ tạo điều kiện bảo đảm an toàn cho các hoạt
động của chính mình.
5. Nội dung công tác KTNB trong hệ thống NHTM ở Việt Nam
Nội dung công tác KTNB trong các NHTM ở Việt Nam thể hiện những
nội dung cơ bản của KTNB nhng nó đợc chi tiết và cụ thể bao gồm các lĩnh
vực chủ yếu sau đây :
Thứ nhất là kiểm toán về chấp hành các qui định của hội đồng quản trị
về các chế độ liên quan đến hoạt động của đơn vị, các qui định, chính sách
của ngành, của Nhà nớc.
Thứ hai, là kiểm toán về các nghiệp vụ kinh doanh nh nghiƯp vơ kinh
doanh tÝn dơng, nghiƯp vơ hèi đoái, dịch vụ thanh toán, nghiệp vụ bảo lÃnh...
kiểm toán các báo cáo tài chính hàng quý, hàng năm.
Trong tơng lai, hàng năm bảng thống kê tài sản và báo cáo tài chính của
NHNN sẽ do tổng kiểm toán Nhà nớc kiểm toán và xác nhận; bảng tổng kết
tài sản và báo cáo tài chính hàng năm của NHTM sẽ do kiểm toán độc lập
kiểm toán và xác nhận.
Tuy nhiên để có đợc quá trình kiểm toán Nhà nớc và kiểm toán nội bộ
thì các NHTM trớc hết phải thực hiện kiểm toán nội bộ.
KTNB thực hiện càng sát với thực tế các thông tin thu đợc từ báo cáo
kiểm toán càng có độ tin cậy cao. Do đó càng có ý nghĩa đối với chính doanh

nghiệp và các chủ thể liên quan.
Trong nội dung kiểm toán nội bộ đơn vị các NHTM, thông thờng kiểm
toán nội bộ sẽ tiến hành kiểm toán các báo cáo tài chính sau :
Bảng cân đối tài sản, Báo cáo thu chi tiền tệ, Báo cáo kết quả kinh
17


doanh, Báo cáo các khoản cho vay, bảo lÃnh và mở th tín dụng nhập hàng trả
chậm.
Để có thể thực hiện tốt công tác KTNB nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt
động của mình, các NHTM phải ban hành các qui định về KTNB và tổ chức
kiểm toán toàn bộ hoạt động từng thời kỳ, từng lĩnh vực từ đó đánh giá một
cách độc lập và chính xác kết quả hoạt động kinh doanh và thực trạng tài
chính của mình.

18


Phần II: thực trạng công tác KTNB trong các NHTM
và những ý kiến đề xuất

I. Thực trạng, khó khăn trong công tác KTNB ở các NHTM

Trong những năm gần đây, hệ thống các tổ chức tín dụng không ngừng
lớn mạnh cả về lợng cũng nh chất. Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 1999 ca rnớc có 6 ngân hàng quốc doanh, 51 NHTM cổ phần, 25 chi nhánh ngân hàng nớc ngoài, 4 ngân hàng liên doanh với nớc ngoài, 13 công ty tài chính và công
ty cho thuê tài chính, 996 quỹ tín dụng nhân dân. Hệ thống mạng lới ngân
hàng quốc doanh cũng không ngừng phát triển, mở rộng đến mọi vùng của đất
nớc. Sự lớn mạnh cđa hƯ thèng c¸c tỉ chøc tÝn dơng nãi chung và của hệ thống
ngân hàng nói riêng đà góp phần quan träng trong viƯc ph¸t triĨn kinh tÕ x·
héi. Cïng với sự lớn mạnh đó, KTNB cũng đi vào hoạt động và trở thành một

bộ phận quan trọng trong các NHTM.
1. Thực trạng của công tác KTNB trong các NHTM
Công tác KTNB đợc áp dụng trong các doanh nghiệp nói chung và các
ngân hàng nói riêng chỉ mới vài năm trở lại đây nên những số liệu tổng kết về
công tác này rất hạn chế và mang tính chất chung chung bởi công tác này cha
đợc tổng kết trên phạm vi réng. Nhng KTNB ®· nhanh chãng thĨ hiƯn tÝnh
hiƯu quả trong công tác kiểm tra, xác nhận giúp cho các ngân hàng có đợc
những thông tin chính xác về tình hình hoạt động của mình.
Trớc hết, cần đề cập đến mô hình tổ chức công tác KTNB trong các
NHTM hiện nay. Hiện nay ở hầu hết các ngân hàng đều thực hiện công tác
KTNB nhng với nhiều hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào qui mô hoạt động.
Đối với các NHTM lớn, hoạt động trên địa bàn rộng mức đô các hoạt
động gửi tiền, rút tiền, cho vay, thanh toán nhiều, phát sinh nhiều nghiệp vụ và
các nghiệp vụ cũng phức tạp hơn. Do đó các công tác kế toán trong các
NHTM này thờng là rất lớn. Nên ở các NHTM lớn thờng có một bộ phận đợc
tách riêng ra làm công tác kiểm toán nội bộ. Số ngời trong bộ phận kiểm toán
nội bộ phụ thuộc qui mô của mỗi NHTM.
Đối với các NHTM nhỏ hoặc là các chi nh¸nh NHTM vÝ dơ nh chi nh¸nh

19


của các NHTM quốc doanh hoạt động trên địa bàn hẹp cũng có một bộ phận
đợc tách riêng ra làm công tác KTNB - bộ phận này thờng thờng là trực thuộc
giám đốc (Ban giám đốc).
Các kiểm toán viên nội bộ ngân hàng thực chất, theo thống kê thờng là
cán bộ công nhân viên (thờng là kế toán viên) đợc đơn vị cử đi đào tạo ngắn
hạn rồi quay trở lại làm nhiệm vụ với t cách là KTVNB.
Bộ phận KTNB hoạt động do yêu cầu của giám đốc ngân hàng, hoặc của
chủ tịch hội đồng quản trị ngân hàng đó. Thông thờng, KTNB thực hiện theo

định kỳ tháng hoặc năm.
Thứ hai, về quá trình tổ chức thực hiện công tác KTNB NHTM. Khi có
yêu cầu KTNB, bộ phận KTNB tiến hành đúng theo các bớc của một cuộc
KTNB nói chung. Tuy nhiên do trình độ hạn chế nên việc lập kế hoạch còn
nhiều thiếu sót nhiều khi không đầy đủ, công tác chuẩn bị kiểm toán còn sơ
sài, do đó việc thực hiện kế hoạch có hiệu quả không cao.
Tuy nhiên, cho đến nay từ khi các NHTM thực hiện KTNB, KTNB đà có
tác dụng rất lớn trong công tác hỗ trợ cho các bộ phận khác nh bộ phận kế
toán, bộ phận kiểm soát, kiểm kê ngân quỹ. Có thể đa ra một số tác dụng cụ
thể sau:
Một là, xuất phát từ đặc điểm hoạt động của NHTM đó là NHTM thờng
đà giành riêng một lợng tiền lớn và những chứng từ có giá để đảm bảo khả
năng thanh toán. Lợng tiền này vừa đợc dùng làm dự trữ, vừa đợc dùng để
điều chuyển, thanh toán. Phần lớn tài sản của ngân hàng là tiền mặt và các
giấy tờ có thể giao dịch đợc. Do tính chất của tài sản nắm giữ mà một ngân
hàng rất dễ bị tổn thơng khi có gian lận và sai sót đặc biệt là tính chất chuyển
đổi cao của tiền mặt, séc và các chứng từ có giá khác. Việc thực hiện KTNB
đà giúp cho các NHTM tìm ra những sai sót này và sửa chữa, hoàn thiện
chúng đúng lúc, tránh đợc các sai sót gian lận kéo theo từ vấn đề đó.
Hai là, do NHTM thờng tham gia vào các giao dịch lớn, với số lợng tiền
tệ rất lớn, các nghiệp vụ phát sinh nhiều, việc nhầm lẫn trong quá trình hạch
toán là khó tránh khỏi. Hầu hết các trờng hợp kÕ to¸n cã thĨ ph¸t hiƯn ra nhng
khi thùc hiƯn công tác KTNB tạo điều kiện giúp cho việc rà soát của các nhân
viên kế toán nhanh hơn.

20


Ba là, các NHTM thờng tổ chức hoạt động kinh doanh với một mạng lới
các chi nhánh, các phòng giao dịch trải rộng theo các khu vực hành chính. Vì

vậy, việc phân cấp quản lý điều hành kinh doanh, chỉ tiêu tài chính là điều tất
yếu. Bên cạnh đó là sự phân tán về hoạt động hạch toán kế toán, hoạt động
kiểm tra, kiểm soát. Nếu nh cứ tiếp tục tiến hành duy trì chế độ quyết toán các
báo cáo tài chính nh hiện nay là các đơn vị cơ sở lập các báo cáo trên cơ sở
các nghiệp vụ phát sinh từ cơ sở và gửi báo cáo lên trung tâm điều hành kiểm
tra xem xét sơ bộ sau đó tập hợp toàn bộ hệ thống NHTM. Nh vậy rõ ràng
cách làm này không đảm bảo tính chính xác cao mà thông thờng thì các đơn
vị lập báo cáo có thể là cố ý dấu để những khoản có lợi cho đơn vị họ hay
những điều không tốt có hại đến tình hình tài chính, tình hình phân phối kết
quả thu nhập của đơn vị mình. Mặt khác, cũng có thể có những khoản sai sót
mà tự bản thân đơn vị cơ sở không thể phát hiện ra khi lËp bẫ c¸o qut to¸n.
ViƯc thùc hiƯn KTNB sÏ gióp cho các chính sách ngân hàng kiểm tra và
tác nhân ngay tính trung thực hợp lý về các thông tin mà chi nhánh chuẩn bị
trình lên trung tâm. Do đó khi tập hợp toàn ngành hệ thống NHTM thì bộ
phận KTVNB của trung tâm cần xác định lại những thông tin đó một lần nữa
với các dữ liệu đà thu thập đợc. Chính vì vậy mà khi tiến hành kiểm toán trong
toàn bộ hệ thống NHTM, các NHTM sẽ tránh đợc khối lợng công việc dồn
dập và tiết kiệm đợc thời gian, kết quả kiểm tra và xác nhận có độ chính xác
cao hơn. Từ đây, có thể nói KTNB giúp các NHTM rút ngắn đợc các thủ tục.
Các công việc, công tác nghiệp vụ đợc chuyển về một mối.
Bốn là, việc thực hiện công tác kiểm toán nội bộ giúp các ngân hàng thúc
đẩy, hoàn thiện và nâng cao chất lợng hoạt động kiểm soát nội bộ. Bằng các
chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận KTNB sẽ hỗ trợ cho hoạt động kiểm
soát, làm giảm nhẹ công tác thanh tra từ bên ngoài.
Năm là, các NHTM thực hiện công tác KTNB tốt sẽ tạo điều kiện nâng
cao uy tín của mình, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trờng. Điều này có thể
đợc nhìn nhận thông qua khối lợng tiền gửi tăng nhanh, quy mô tín dụng lớn
và tăng trởng liên tục.
Trong toàn ngành ngân hàng, trong các năm gần đây, lợng vốn huy động
qua hệ thống ngân hàng tăng nhanh, bình quân khoảng 25-30%/năm. Nếu nh

năm 1997, lợng vốn huy động qua hệ thống ngân hàng tăng 31,6% so với năm
21


1996 thì đến năm 1998, tốc độ huy động tuy tăng chậm lại nhng vẫn đạt 25%
so với năm 1997. Cùng với khả năng huy động vốn tăng, qui mô tín dụng của
ngân hàng cũng mở rông so với năm 1996; năm 1997 tăng 27,1%; năm 1998
tăng 25%; năm 1999 tăng 19%. Kết quả này có thể khẳng định rằng, KTNB
cũng đóng góp một phần quan trọng.
Ngoài ra, KTNB còn giúp cho các NHTM rất nhiều trong công tác chuẩn
bị phßng ngõa rđi ro, trÝch lËp dù phßng tỉn thÊt,...
Nãi tóm lại, thực hiện công tác KTNB giúp cho ngân hàng định dạng đợc
một số rủi ro từ đó có khả năng giúp ngân hàng chống đỡ tránh khỏi những rủi
ro đó, nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng. Từ đây có thể
nói rằng hoạt động KTNB trong các NHTM không những tăng cờng hiệu quả
hoạt động của ngân hàng đó mà còn tạo ra sự ổn định và tính hiệu quả của
toàn ngành ngân hàng.
2) Những khó khăn trong công tác KTNB ở các NHTM
Nh đà phân tích trên, hoạt động KTNB đà giúp cho các NHTM kiểm tra,
xác nhận các thông tin về hoạt động của mình, giúp các ngân hàng định dạng
đợc các rủi ro,... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hoạt động KTNB, bộ
phận này cũng gặp rất nhiều khó khăn vớng mắc.
Một là, trình độ chuyên môn của KTVNB. Thực tế hiện nay ở nớc ta, đội
ngũ những ngời có trình độ chuyên môn sâu rộng về lĩnh vực kiểm toán là rất
ít và hầu hết lại là các quan chức trong các công ty kiểm toán lớn. Nớc ta lại
cha có trờng đại học nào đào tạo chính qui về chuyên ngành kiểm toán. Do đó
hầu hết các KTVNB trong các ngân hàng đều đợc hình thành từ các cán bộ
nhân viên trong ngành ngân hàng sau khi đợc ngân hàng cử đi đào tạo một
thời gian. Chính vì thế họ không phải là những ngời am hiểu tờng tận về lĩnh
vực kiểm toán. Do đó trình độ chuyên môn của họ không cao. Điều này tác

động trực tiếp đến chất lợng đến tính hiệu quả của công tác kiểm toán nội bộ.
Có thể nói đây là một trong số những vớng mắc lớn của chúng ta trong
lĩnh vực kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng.
Hai là, tính chất pháp lý của công tác kiểm toán nội bộ trong các ngân
hàng: Sự phát triển mạnh mẽ của KTNB trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi mỗi
đơn vị nói chung và mỗi ngân hàng phải có một hệ thống các văn bản qui định
22


cho công tác này dễ dàng thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây dựng hệ
thống các văn bản qui định về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của bộ phận KTNB mà mỗi ngân hàng phải thực hiện là hết sức khó khăn. Bởi
vì hệ thống các văn bản này có ý nghĩa quan trọng đối với bộ phận KTNB
giúp cho các KTVNB có căn cứ pháp lý và định hớng trong khi thực hiện
nhiệm vụ, thể hiện mức độ quan tâm khác nhau đối với lĩnh vực KTNB ở một
ngân hàng là một nhân tố quyết định chất lợng của hoạt động KTNB.
Ba là, xuất phát từ trình độ chuyên môn của các KTVNB còn hạn chế và
thiếu những căn cứ pháp lý cho công tác kiểm toán nội bộ làm cho quá trình
thực hiện hoạt động này diễn ra chậm chạp, gặp phải nhiều khó khăn đặc biệt
trong công tác lập kế hoạch kiểm toán và lựa chọn phơng pháp kiểm toán. Và
khi đà lập đợc kế hoạch rồi nhng công tác chuẩn bị lại không hoàn thiện nhiều
khi còn làm sai lệch kế hoạch đà vạch ra.
Bốn là, hoạt động KTNB còn gặp phải nhiều khó khăn là do tính chất
hoạt động trong các NHTM. Cụ thể là:
Thứ nhất, do khối lợng giao dịch ở các NHTM là rất lớn, khối lợng tiền
tệ cũng lớn nên hiện nay hầu hết các NHTM đều phải có hệ thống máy vi tính
trợ giúp. Trớc đây, nói chung các nghiệp vụ đều có chứng từ gốc để chứng
minh và hầu hết các kết quả của quá trình xử lý là rõ ràng đối với ngời sử
dụng và đối với các kiểm toán viên. Với khối lợng công việc ngày một lớn hơn
của dữ kiện và sự phức tạp hơn về hoạt động thì điều này không còn thực tế

nữa. Sự phát triển của hệ thống xử lý dữ kiện điện tử trên thực tế đà nâng cao
rất nhiều năng lực kiểm soát của ngân hàng và ngợc lại, điều này đang làm
nảy sinh nhiều loại rủi ro khác xuất phát từ lỗi của máy tính và gian lận của
máy tính gây nên. Bởi vì, ở đầu vào, các nghiệp vụ kinh tế có thể đợc nhập
trực tiếp vào máy tính thông qua thiết bị đầu cuối và những bút toán này có
thể không dựa trên các chứng từ gốc. Còn nếu nh nó thiếu một trong những
điều kiện cần thiết hoặc chính bản thân bộ phận KTNB cũng nh cho các
NHTM.
Do công tác KTNB ở Việt Nam mới đợc áp dụng không lâu nên vì thế
mà những khó khăn trong hoạt động này là không thể tránh khỏi. Điều này đòi
hỏi chính mỗi Ngân hàng phải nhận thức đợc và nhanh chóng tìm cách khắc
phục để cho công tác kiểm toán nội bộ không những hoàn chỉnh mà còn trở
23


thành một công cụ đắc lực thúc đẩy sự tăng trởng của chính Ngân hàng đó.
II. Những phơng pháp và ý kiến đề xuát nhằm hoàn thiện
công tác kiểm toán nội bộ ở các NHTM

1. Một số giải pháp
Xuất phát từ những thực trạng và khó khăn trên, các NHTM phải tự
nghiên cứu và tìm ra những giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của mình
nhằm làm cho tổ chức mình ngày càng lớn mạnh lên trong thị trờng cạnh
tranh.
Trên thực tế nhiều năm gần đây các Ngân hàng cũng đà từng thực hiện
một số giải pháp và đà đạt đợc một số hiệu quả:
Một là, giải pháp mang tính thiết thực nhất phải là những giải pháp có
thể tác động đến trình độ chuyên môn của các KTNB. Bởi vì trình độ chuyên
môn của các KTNB quyết định trực tiếp đến chất lợng của công tác KTNB. Do
đó các giải pháp nâng cao đợc trình độ chuyên môn của các KTNB. Để làm đợc điều này thì các NHTM cần phải liên tục cho các KTNB tham dự các khoá

học tập huấn về kiểm toán, dần dần nâng cao sự hiểu biết, sự chuyên sâu của
đội ngũ KTNB. Ngoài cách thức cho các cán bộ Ngân hàng trong ngành đi
học về lĩnh vực kiểm toán, các NHTM lớn có đủ khả năng và điều kiện nên
mời hẳn một chuyên gia về kiểm toán thực hiện và chịu trách nhiệm về công
tác kiểm toán trong cơ quan mình thêm vào đó là đa các chuyên gia này đi học
thêm về lĩnh vực Ngân hàng.
Hai là, để cho công tác KTNB đạt đợc hiệu quả cao, trớc hết các NHTM
phải tự xác định cụ thể hơn các chuẩn mực mà mình cần phải thực hiện và
những chuẩn mực mà Nhà nớc yêu cầu. Từ các chuẩn mực này, các KTNB sẽ
có phơng hớng rõ ràng trong quá trình thực hiện, tránh đợc tình trạng chuẩn
mực không cụ thể, không rõ ràng làm cho các KTNB Bộ không thể có căn cứ
để đối chiếu.
Ba là, việc xác định ra căn cứ pháp lý, phân định rõ ràng chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn của các KTNB trong các NHTM cũng là những yếu tố
tác động đến tính hiệu quả của công tác KTNB. Ngân hàng nào làm tốt công
tác này chứng tỏ Ngân hàng đó quan tâm đến sự hiện diện của KTNB và từ đó
các KTNB có động lực làm việc tốt hơn và nó đợc khẳng định bằng chất lỵng

24


của hoạt động KTNB. Do đó các Ngân hàng nên thực hiện tốt công tác này.
Các văn bản qui định về địa vị pháp lý, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn
của bộ phận KTNB chính là môi trờng hoạt động của KTNB. Bộ phận KTNB
phải đợc giao một quyền hạn rộng rÃi để có thể kiểm toán toàn bộ hoạt động
của đơn vị và đợc hoàn toàn độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, truy nhập
thông tin không giới hạn trong phạm vi đơn vị đó.
Bốn là, để tăng cờng và đảm bảo hiệu quả hoạt động KTNB cần phải có
sự trợ giúp đầy đủ và đúng lúc của chính các nhà quản lý cấp cao cũng nh sự
hợp tác toàn diện của các bộ phận và cá nhân trong đơn vị. Sự trợ giúp và hợp

tác này có thể thể hiện ở chỗ các nhà quản lý các cá nhân và các bộ phận thực
hiện tốt các nhiệm vụ và các yêu cầu mà CTVNB đề ra. Cùng với các CTVNB
tiến hành thu thập giúp các tài liệu, trình các tài liệu mà CTVNB cần.
Năm là, ngoài việc xác định rõ các chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ
của CTVNB, của bộ phận KTNB, các NHTM phải ban hành các qui định về
kiểm toán nội bộ và tổ chức kiểm toán toàn bộ hoạt động từng thời kỳ, từng
lĩnh vực nhằm đánh giá một cách độc lập và chính xác kết quả hoạt động kinh
doanh và thực trạng tài chính của mình.
Sáu là, do những khó khăn trong việc tìm ra những sai sót và gian lận ở
các NHTM thực hiện các nghiệp vụ trên hệ thống máy vi tính nên để có thể
giải quyết đợc những khó khăn này đòi hỏi các KTVNB phải có trình độ cao
về máy vi tính , có tinh thông trong các nghiệp vụ kinh tế. Vì vậy các NHTM
phải tuyển những nhân viên có trình độ cao về máy vi tính và liên tục mở lớp
tập luyện để cập nhật các thông tin về máy.
Bảy là, việc xác định quy mô của công tác kiểm toán cũng là yếu tố tác
động đến chất lợng của hoạt động CTVNB. Vì vậy ở mỗi NH cần phải xác
định đợc qui mô KTMB hợp lý. Đối với những chi nhánh có mức độ hoạt động
lớn, đóng góp nhiều vào doanh thu tổng hợp của cả ngân hàng , CTVNB cần
thực hiện những quy trình kiểm toán cần thiết nh đối với hội sở chính. Đối với
các chi nhánh cơ biểu hiện đáng nghi ngờ (tức là có biểu hiện sai sót và gian
lận) thì phạm vi kiểm toán cũng có thể áp dụng tơng tự. Còn đối với các
NHTM bình thờng, có thể dựa vào quy mô kiểm toán các thời kỳ trớc và các
nghiệp vụ phát sinh kỳ này, mức độ công việc kỳ này để xác định ra qui mô
kiểm toán thích hợp.
25


×