Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.37 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ TÔN LINH

VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Thị Tôn Linh

VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số:
60.31.02.01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. Phạm Thế Lực


Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực

. Kết quả

nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Tôn Linh


LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin dành những lời đầu tiên bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
nhất tới các thầy, cô giáo trong trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội và khoa Khoa học Chính trị đã
tận tình truyền thụ kiến thức quý báu cho tác giả trong hai năm học
qua.
Đặc biệt xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Tiến
sĩ Phạm Thế Lực - người trực tiếp hướng dẫn tác giả hoàn thành
luận văn. Tác giả rất mong tiếp tục nhận được sự chỉ bảo của các
thầy, cô giáo trong quá trình học tập và công tác sau này.
Xin chân thành cảm ơn!



MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ……………………………………………………………….

1

1. Tính cấp thiết của đề tài ……………………………………………

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài …………………………

2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu …………………………………

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ………………………………….

5

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu …………………………

5

6. Đóng góp của luận văn ……………………………………………..

6


7. Kết cấu của đề tài …………………………………………………...

6

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của tổ chức xã hội đối với hệ
thống chính trị ………………………………………………..

7

1.1. Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội với hệ thống chính trị .............

7

1.1.1. Khái niệm, đặc trưng của tổ chức xã hội .......................................

7

1.1.2. Quan niệm về hệ thống chính trị …………………………………

11

1.1.3. Vị trí, vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị….

17

1.2. Quá trình hình thành và phát triển các tổ chức xã hội ở Việt Nam

19


1.2.1. Quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về vai trò của các tổ
chức xã hội đối với hệ thống chính trị ………………………….
1.2.2. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội ở nước ta từ khi đổi mới
đến nay ……………………………………………………………
1.2.3. Xu hướng phát triển của các tổ chức xã hội ở Việt Nam ……….
1.3. Vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị ở một số nƣớc
trên thế giới …………………………………………………….
1.3.1. Vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị ở một số nước
phương Tây (Mỹ, Tây Âu) ……………………………………….
1.3.2. Vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị ở một số nước
châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore) …………

19

25
28
30

30

33


bb1.3.3. Một số bài học kinh nghiệm ……………………………………
Chƣơng 2: Vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị ở
Việt Nam-Thực trạng và những vấn đề đặt ra hiện nay ………….
2.1. Mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội đối với Đảng Cộng sản Việt
Nam .................................................................................................
2.1.1. Góp phần động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương của đảng …………………………………………………..

2.1.2. Là cầu nối giữa Đảng với nhân dân ……………………………
2.1.3. Thực hiện giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của các tổ
chức đảng và đảng viên ……………………………………………..
2.2. Vai trò của các tổ chức xã hội trong quá trình xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam …………………….
2.2.1. Góp phần động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách, pháp
luật của nhà nước ………………………………………………..
2.2.2. Hỗ trợ chính sách quốc gia …………………………………….
2.2.3. Thực hiện giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước
và cán bộ, công chức …………………………………………….
2.3. Mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội với Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội …………………………………………

37
39

39

39
46
52

56

56
62
69

73


2.3.1. Là đầu mối thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc …………

73

2.3.2. Tham gia phản biện, giám sát xã hội ……………………………

76

2.4. Những vấn đề đặt ra hiện nay …………………………………..

79

Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp phát huy vai trò của các tổ chức xã
hội đối với việc hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
3.1. Phƣơng hƣớng …………………………………………………..
3.1.1. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội phải gắn liền với việc đổi mới
hệ thống chính trị theo hướng dân chủ, pháp quyền …………….
3.1.2. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức xã hội theo
hướng xã hội dân sự ……………………………………………..
6

83
83
83

85


b3.1.3. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội phải đảm bảo thúc đẩy quá
trình dân chủ hóa đời sống xã hội ………………………………..

3.2. Một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của các tổ chức xã hội
trong việc hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay …
3.2.1. Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức
xã hội …………………………………………………………….

86

88

88

3.2.2. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các tổ chức xã hội

93

3.2.3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức xã hội

98

3.2.4. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức
xã hội đối với Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã

103

hội ………………………………………………………
Kết luận ………………………………………………………………

106

Danh mục tài liệu tham khảo ………………………………………..


108

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta hiện nay, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, ngày càng
có nhiều tổ chức xã hội được thành lập, hoạt động trong tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội. Các tổ chức này ngày càng tăng nhanh về số lượng và phong phú về
loại hình, hình thức tổ chức, đa dạng về phương thức hoạt động. Các tổ chức xã
hội đã có nhiều đóng góp trong việc phát huy dân chủ, xây dựng hoàn thiện cơ
chế, chính sách, pháp luật và thực hiện giám sát, phản biện xã hội đối với các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tích cực chủ động tham gia cung ứng
dịch vụ công, hỗ trợ cho hoạt động của chính phủ trong việc phân phối dịch vụ,
tăng chất lượng dịch vụ, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, góp phần phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện nay không chỉ giữ vai trò quan trọng
đối với xã hội mà nó còn là nhân tố quan trọng trong quá trình đổi mới và hoàn
thiện hệ thống chính trị ở nước ta đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Đối với từng bộ phận cấu thành hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội
đều thể hiện vai trò và sức ảnh hưởng của mình trong việc phát huy khối đại đoàn
kết toàn dân, tạo thành nguồn sức mạnh to lớn thực hiện thành công các chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực tế đã
chứng minh, nhiều tổ chức xã hội hiện nay thường xuyên là kênh quan trọng để
Đảng, Nhà nước tham khảo ý kiến, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Điển hình là các tổ chức xã hội như: Liên hiệp các hội khoa học và kỹ
thuật, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã, Hội liên

hiệp thanh niên Việt Nam, Hội Luật gia, Hội Nhà báo… và nhiều tổ chức khác.

1


Tuy nhiên, hiện nay một số tổ chức xã hội hoạt động còn hình thức, kém
hiệu quả, chưa đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích của đoàn viên và hội viên, có
tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự tài trợ của nhà nước, có xu hướng "hành chính
hoá" về mặt tổ chức và hoạt động, dó đó chưa phát huy hết khả năng thu hút, tập
hợp hội viên. Vai trò tham gia phản biện các chính sách xã hội, là cầu nối giữa
Đảng và nhân dân còn hạn chế. Vai trò quản lý phát triển xã hội chưa được thể
hiện rõ trong thực tế, những đóng góp và sự phối hợp đối với Măt trận tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội còn chưa thường xuyên và chặt chẽ. Bên cạnh đó, về
phía hệ thống chính trị, một số cơ quan nhà nước, nhiều cán bộ, công chức còn
nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng và tác dụng của các tổ chức xã hội trong
đời sống xã hội nói chung và hệ thống chính trị nói riêng, có biểu hiện xem nhẹ
vai trò, tác dụng của các tổ chức xã hội này, nhận thức về vai trò của các tổ chức
xã hội đối với hệ thống chính trị trong điều kiện mới còn hạn chế. Bản thân các cơ
quan nhà nước còn e ngại, thiếu niềm tin vào các tổ chức xã hội nên chậm hoàn
chỉnh thể chế để phát huy sự tham gia của các tổ chức xã hội với sản xuất, kinh
doanh và đời sống xã hội. Do đó, cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu về vai
trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị, từ đó mới có thể đưa ra
những giải pháp nhằm phát huy tối đa vai trò của các tổ chức này giúp hệ thống
chính trị Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: "Vai trò của các tổ
chức xã hội đối với hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay", làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các tổ chức xã hội, hệ thống chính trị và vai trò của các tổ chức xã hội đối
với hệ thống chính trị là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Do đó, có nhiều nhà

nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn, các học giả giành sự quan tâm về vấn đề này:
* Các nghiên cứu về hệ thống chính trị:
2


- Nguyễn Đức Bình: Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1999.
- Hồ Văn Thông (1999): Chính trị và hệ thống chính trị các nước tư bản
phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1999.
- Hồ Bá Thâm: Đổi mới và phát triển hệ thống chính trị, Nxb Tổng hợp TP
Hồ Chí Minh, 2005.
- Nguyễn Văn Huyên (chủ biên): Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ (Mô
hình tổ chức và hoạt động), Nxb Lý luận chính trị, H, 2007.
* Các nghiên cứu về Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội:
- Phan Xuân Sơn: Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ cơ sở ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002.
- Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên): Giám sát và cơ chế giám sát
việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay (sách chuyên khảo), Nxb
Công an nhân dân, H, 2003.
- Thang Văn Phúc - Nguyễn Minh Phương: Đổi mới tổ chức và hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, H, 2007.
- Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (đồng chủ biên): Phản biện xã
hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2010.
* Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa hệ thống chính trị và các tổ chức
xã hội:
- Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên): Vai trò của các tổ
chức xã hội đối với phát triển và quản lý xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2012.
- Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên): Phát huy vai trò
của các tổ chức xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2012.

Ngoài ra còn có một số bài báo, tạp chí đề cập đến những khía cạnh của vấn
đề này như: Bùi Thế Cường: Các tổ chức xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học,
3


số 2 năm 2005; Phạm Duy Nghĩa: Vai trò của các hiệp hội kinh tế trong hoạt động
vận động xây dựng chính sách của nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7
năm 2004; Trần Hữu Huỳnh, Đậu Anh Tuấn: Báo cáo nghiên cứu: Vận động
chính sách của các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam. Đánh giá thực trạng, một số
quan sát ban đầu và các kiến nghị, tháng 10 năm 2006,…
Những công trình nêu trên đã nghiên cứu nhiều góc độ của các tổ chức xã
hội, hệ thống chính trị và vai trò của các tổ chức xã hội trên một lĩnh vực cụ thể và
đem lại nhiều thành tựu quan trọng. Các công trình nghiên cứu đã có các cách tiếp
cận khác nhau về vai trò của các tổ chức xã hội, thực trạng phát huy vai trò của
các tổ chức xã hội có phạm vi hoạt động trên toàn quốc và kinh nghiệm phát huy
vai trò của các tổ chức xã hội ở một số nước trên thế giới. Bên cạnh đó, các nghiên
cứu đã đưa ra các giải pháp khả thi nhằm đổi mới và phát huy vai trò của các tổ
chức xã hội.
Tuy nhiên, về vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị cho
đến nay vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu. Và những công trình,
những bài viết trên là nguồn tư liệu quý giá làm cơ sở cho tác giả làm cơ sở nghiên
cứu thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
Đề tài tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của các
tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp nhằm phát huy vai trò của các tổ chức xã hội đối với việc đổi mới
và hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về các tổ chức xã hội, địa vị, đặc trưng, vai

trò cũng như mối quan hệ của chúng đối với các thành tố của hệ thống chính trị
(đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội)
4


- Đánh giá, phân tích thực trạng hoạt động của các tổ chức xã hội cũng như
vai trò của các tổ chức xã hội đối với quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống
chính trị Việt Nam, từ đó làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những
vấn đề đặt ra hiện nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của các tổ chức
xã hội trong việc mở rộng dân chủ, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt
Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của các tổ chức xã hội đối với
hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vai trò của các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện nay là rất rộng, có thể được
thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, ngoại giao… nhưng trong khuôn khổ
luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về vai trò của các tổ chức xã hội
đối với hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, các tổ chức xã hội ở Việt Nam có quá trình hình thành và phát
triển lâu dài, tuy nhiên đề tài chỉ tập trung vào khảo sát và nghiên cứu vai trò của
các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới
(1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về các tổ
chức xã hội nói chung và vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị
nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
5


- Phương pháp luận: Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tiến hành nghiên cứu.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, đề tài
còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích- tổng hợp, logic-lịch sử, so
sánh, hệ thống - cấu trúc- chức năng, phân tích tài liệu, thống kê.
6. Đóng góp của luận văn
- Đóng góp về mặt lý luận: Đề tài góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý
luận căn bản về vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị Việt Nam
hiện nay, trên cơ sở đó cung cấp những luận chứng, luận cứ quan trọng tạo tiền đề
cho những nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này.
- Đóng góp về mặt thực tiễn: Từ việc phân tích vai trò của các tổ chức xã
hội đối với hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể giúp Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội nhận thức sâu sắc vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị,
trên cơ sở đó xây dựng, đổi mới và hoàn thiện những thể chế, cơ chế pháp lý để
phát huy và nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội trong quá trình đổi
mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương và 9 tiết.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

1.1. Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội với hệ thống chính trị
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng của tổ chức xã hội
* Khái niệm tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội là khái niệm được dùng với nhiều nghĩa khác nhau, trong
các ngành khoa học khác nhau và trong cuộc sống hàng ngày. Theo từ nguyên chữ
Hán thì "Tổ" là sự tập hợp, gom góp lại những gì riêng rẽ, còn "Chức" là đan dệt
nên, cấu trúc sắp xếp theo một trật tự nhất định những gì được gom lại để thực
hiện một chức năng nhất định. Tổ chức ra đời do yêu cầu khách quan của sự tồn
tại và phát triển của con người và xã hội. Người ta tự tìm đến nhau, liên kết với
nhau để chống chọi lại với thiên tai, thú dữ, chống lại nạn xâm chiếm của các thế
lực và do yêu cầu của xã hội hóa sản xuất. Khi tập hợp lại với nhau thành một tổ
chức thì họ cần phải thương lượng, thỏa thuận và thống nhất với nhau để hình
thành nên những quy định chung. Những quy định này ra đời và mọi người trong
tổ chức hành động một cách tự nguyện theo những quy định ấy, đồng thời không
được làm những gì vượt ra ngoài khuôn khổ của những quy định chung.
Sự ra đời của các tổ chức xã hội xuất phát từ chính nhu cầu vật chất và tinh
thần của con người trong một xã hội dân chủ. Sự phát triển của chúng phản ánh
mức độ tiến bộ về dân trí và dân chủ trong xã hội, chúng tổ chức và hoạt động
theo tinh thần tự nguyện trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước nhưng không
phải là những cơ quan mang tính quyền lực nhà nước. Chính vì thế, các tổ chức xã
hội còn được gọi là các tổ chức phi chính phủ (tiếng Anh là Non govermental
Organization- NGO). Thuật ngữ tổ chức phi Chính phủ bắt đầu được dùng từ năm
1945 sau khi Liên Hợp quốc được thành lập.

7


Theo cách hiểu như vậy, hoạt động của tổ chức xã hội đã phát triển ở nhiều
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự phát triển của các tổ chức xã hội
trong giai đoạn hiện nay còn được mở rộng với những khái niệm khác nhau của

nhiều nhà nghiên cứu, thể hiện sự đa dạng và vai trò to lớn của các tổ chức xã hội.
Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu những khái niệm khác nhau về tổ chức xã
hội theo từng góc độ tiếp cận:
- Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, xã hội dân sự, trong đó
các tổ chức xã hội là bộ phận chủ yếu được hiểu là một mảng của đời sống xã hội
có tổ chức, mang tính tự nguyện, (hầu như) tự tái tạo, tự tài trợ, độc lập với nhà
nước, gắn bó với nhau bằng một trật tự pháp lý hay một số nguyên tắc chung. Các
tổ chức xã hội do người dân tự tổ chức để phát huy năng lực sáng tạo, hiện thực
hóa các ý tưởng để tương tác với nhà nước nhằm đạt tới một nền quản trị quốc gia
minh bạch, hiệu quả và có trách nhiệm.
- Theo Liên minh Thế giới vì sự tham gia của công dân (CIVICUS), các tổ
chức xã hội (dân sự) là diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà
mọi con người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung. Theo đó, muốn cải
thiện tính hiệu quả của Nhà nước cần phải dựa vào sức mạnh tương đối của thị
trường và các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội có thể vừa là cộng sự vừa là đối
thủ cạnh tranh trong việc cung ứng các dịch vụ công cộng; các tổ chức này có thể
gây áp lực có ích đối với chính quyền để cải thiện việc cung cấp và chất lượng
các dịch vụ công cộng.
- Theo C.M. Hann và Elizabeth Dunn, các tổ chức xã hội được xem là lĩnh
vực tư, tách biệt với nhà nước, là không gian mà nhà nước không thể can thiệp; và
hơn thế nữa, nó đối lập với nhà nước, trở thành một lực lượng độc lập tham gia
vào quá trình giám sát các hoạt động của nhà nước và giải quyết những vấn đề
thuộc lĩnh vực "dân sự" mà ở đó nhà nước không đủ nguồn lực và cơ sở xã hội để
thực hiện.
8


- Theo Marlies Glasius, David Lewis và Hakan Sekinelgin, các tổ chức xã hội
được lập nên bởi cộng đồng dựa trên cơ sở tự nguyện, nằm ngoài phạm vi nhà nước;
tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội phụ thuộc vào chế độ chính trị, cấu trúc

của hệ thống quyền lực chính trị của quốc gia và các yếu tố văn hóa, dân tộc.
- Theo Larry Diamond, các tổ chức xã hội là lĩnh vực của đời sống xã hội có
tổ chức, mang tính tự nguyện, tự trang trải, độc lập với nhà nước và chịu sự rằng
buộc bởi trật tự pháp luật hoặc hệ thống luật lệ chung do cộng đồng đặt ra. Các tổ
chức xã hội là thực thể trung gian, nằm giữa môi trường tư và công (nhà nước),
bao gồm một dải rộng các tổ chức độc lập chính thức và không chính thức ở nhiều
lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, thông tin, giáo dục... và các vấn đề khác như lợi ích
của các thành viên trong tổ chức, phát triển xã hội.
- Theo Gerassimos Fourlanos, các tổ chức xã hội được hiểu là tổng thể các
tổ chức, thiết chế xã hội tự nguyện, không phụ thuộc vào hình thức pháp lý, cùng
tự nguyện tham gia vào các hoạt động vì những giá trị, mục tiêu, lợi ích chung.
Khái quát lại, từ những khái niệm trên chúng ta có thể hiểu tổ chức xã hội là
hình thức tập hợp rộng rãi nhân dân theo nghề nghiệp, lứa tuổi, sở thích, giới
tính...nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân như học tập, rèn
luyện, nâng cao trình độ các mặt, giúp đỡ động viên nhau trong cuộc sống, tham
gia sinh hoạt văn hóa, thể thao, du lịch, xã hội, từ thiện... Chúng có quy mô lớn
nhỏ khác nhau, có tổ chức hình thành hệ thống trong cả nước, ở tất cả các địa
phương hoặc tham gia tổ chức quốc tế tương ứng nhưng cũng có những tổ chức
chỉ hoạt động trong phạm vi địa phương hoặc cơ sở.
Ở nước ta, chỉ tính riêng từ sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đến nay, các tổ chức xã hội đã phát triển rất phong phú và đa dạng. Các tổ chức
xã hội là những bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, được hình thành trên các
nguyên tắc tự nguyện, tự quản của người dân được tổ chức theo điều lệ hay theo các

9


quy định của nhà nước, nhân danh tổ chức mình khi tham gia vào quản lý nhà nước,
quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên mà nó đại diện.
Hoạt động quản lý nhà nước được tiến hành không chỉ bởi các cơ quan nhà

nước mà còn được hình thành bởi các tổ chức xã hội và cá nhân. Là một bộ phận
của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các tổ
chức xã hội rất đa dạng về hình thức, tên gọi, chủng loại như: Liên hiệp các Hội
Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Hội Trọng
tài kinh tế, Hội Nhà văn, Hội Nhà báo, Hội Luật gia... và nhiều tổ chức khác.
* Đặc trưng của tổ chức xã hội
Các tổ chức xã hội do người dân tự tổ chức để phát huy năng lực sáng tạo,
hiện thực hóa ý tưởng để tương tác với nhà nước nhằm đạt tới một nền quản trị
quốc gia minh bạch, hiệu quả và có trách nhiệm. Do đó, các tổ chức xã hội có
những đặc trưng riêng và cơ bản như sau:
Thứ nhất, đó là các tổ chức ngoài nhà nước, phi chính phủ, bao gồm các
quan hệ và tổ chức không mang dấu hiệu quyền lực công.
Thứ hai, đó là các tổ chức hoạt động chủ yếu không nhằm mục tiêu lợi
nhuận (khác với các doanh nghiệp là các khoản lợi nhuận, nếu có, không được
chia với mục đích tư lợi).
Thứ ba, các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, tự chủ, tự quản, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, dân chủ, công
khai, minh bạch, đề cao sự đồng thuận, chia sẻ về lợi ích nhằm đạt đến sự cân
bằng, hài hòa các lợi ích tư và lợi ích công.
Thứ tư, các tổ chức xã hội đa dạng về cách thức và hình thức tổ chức, phong
phú về nhu cầu và lợi ích, mục tiêu cụ thể.

10


Thứ năm, các tổ chức xã hội chứa đựng nhiều mâu thuẫn và tranh chấp
trong từng quan hệ, từng tổ chức và giữa các quan hệ, các tổ chức, mà sự giải
quyết nhờ tính tự nguyện, đồng thuận, dân chủ của các thành viên, hội viên và sự

tác động đúng đắn, thích hợp của Nhà nước pháp quyền.
Thứ sáu, các chức năng chủ yếu của tổ chức xã hội là tập hợp nhu cầu cá
nhân, nhóm, tổ chức, cộng đồng để hình thành nên các nhu cầu xã hội, nhu cầu
chính sách; tạo môi trường xã hội thuận lợi để hội viên, thành viên hình thành và
phát triển tri thức, kỹ năng quản lý xã hội; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp
pháp của thành viên, hội viên; phát huy và thực hành dân chủ, tham gia xây dựng
và giám sát, phản biện xã hội đối với cơ chế, chính sách, pháp luật của nhà nước;
tham gia cung ứng các dịch vụ công, hoạt động từ thiện, nhân đạo, khắc phục
những hậu quả của thiên tai, bảo vệ môi trường...
Ngoài những đặc trưng chung của các tổ chức xã hội ở nhiều nước trên thế
giới, các tổ chức xã hội ở Việt Nam còn có những đặc trưng riêng như:
- Hầu hết các tổ chức xã hội ở Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản cầm quyền và tích cực phối hợp hoạt động với các cơ quan nhà nước.
- Phần lớn các tổ chức xã hội lớn, quan trọng ở nước ta đều tham gia là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một liên minh chính trị- xã hội rộng
lớn có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cấp cơ sở, hoạt động theo nguyên tắc
hiệp thương dân chủ, thống nhất và phối hợp hành động.
- Một số tổ chức xã hội ở nước ta được nhà nước hỗ trợ về kinh phí hoạt
động, trụ sở làm việc, biên chế cán bộ chuyên trách.
Với những đặc điểm này của các tổ chức xã hội mà trong những năm qua,
đất nước ta đã tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đồng thuận
xã hội, góp phần tạo nên những thắng lợi to lớn trong phát triển đất nước.
1.1.2. Quan niệm về hệ thống chính trị

11


Chính trị là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các
mối quan hệ liên quan đến công việc và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã
hội. Đây là biểu hiện bề ngoài của chính trị. Có thể hiểu chính trị là mối quan hệ,

sự tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và thành viên trong xã
hội với quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó, quyền lực chung (quyền lực
xã hội).
Trong các công việc chung của xã hội thì công việc của nhà nước chiếm vị
trí quan trọng hàng đầu. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp chiếm ưu thế luôn luôn
muốn giành lấy vai trò thực hiện các công việc chung để xác lập và duy trì địa vị
thống trị của giai cấp mình. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, thực
chất chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là những hoạt động xoay quanh vấn đề
giành, giữ chính quyền và sử dụng quyền lực nhà nước.
Tất nhiên, chính trị không chỉ bao gồm các công việc của nhà nước do nhà
nước đảm nhận. Trong xã hội có nhiều vấn đề đặt ra và cần phải giải quyết, trong
đó có những vấn đề thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của nhà nước nhưng cũng có
nhiều vấn đề không cần đến “bàn tay” của nhà nước mà xã hội có thể tự giải quyết
được thông qua những thiết chế cụ thể của nó. Vì vậy, bên cạnh nhà nước trong xã
hội còn tồn tại các chủ thể xã hội khác.
Trong chế độ dân chủ, các thành viên của xã hội cũng như các tổ chức xã
hội đều được tham gia ở mức độ nhất định vào hoạt động chính trị. Nhưng không
phải vì thế mà các tổ chức xã hội đó đều được gọi là các tổ chức chính trị. Chỉ
những tổ chức được lập ra chủ yếu để thực hiện quyền lực chính trị thì mới gọi là
tổ chức chính trị. Tổ chức chính trị có thể thực hiện các hoạt động khác nhưng đó
không phải nhiệm vụ cơ bản của nó.
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực hiện
bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định.

12


Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền
lực nhà nước, các đảng phái chính trị, các tổ chức và phong trào xã hội) được xây
dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bổ theo một cơ cấu, chức

năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể nhằm
thực thi quyền lực chính trị.
Khi nghiên cứu hệ thống chính trị, về cơ bản các học giả thường lưu ý một
số nội dung sau:
- Thứ nhất, hệ thống chính trị phải tồn tại như một chỉnh thể thống nhất.
- Thứ hai, hệ thống chính trị được cấu thành từ các yếu tố, bộ phận khác
nhau, trong đó phải xác định rõ yếu tố nào, bộ phận nào là quan trọng nhất của hệ
thống, chi phối sự vận hành của cả hệ thống.
- Thứ ba, hệ thống chính trị bao gồm nhiều mối quan hệ khác nhau tạo
thành những nguyên tắc, cơ chế vận hành khác nhau, trong đó phải xác định xem
mối quan hệ nào, nguyên tắc vận hành nào là cơ bản nhất, chi phối và quyết định
sự vận hành của cả hệ thống.
- Thứ tư, hệ thống chính trị đó hoạt động trong môi trường nào, được hình
thành trên những quan điểm, tư tưởng, lý thuyết chính trị nào; các yếu tố văn hóa,
truyền thống, tập quán ảnh hưởng như thế nào đối với sự tồn tại của hệ thống
chính trị.
- Thứ năm, hệ thống chính trị đó bao gồm những cấp độ nào, chức năng, vai
trò của từng cấp độ là gì? (cấp Trung ương, tỉnh (thành phố), quận (huyện), cơ sở).
- Thứ sáu, mục đích của hệ thống chính trị là để thực thi quyền lực chính trị,
trong đó thực thi quyền làm chủ của người dân là quan trọng nhất. Do đó, đổi mới
hệ thống chính trị phải hướng đến mở rộng dân chủ, phát huy dân chủ. Trong các
mối quan hệ của hệ thống chính trị thì quan hệ với người dân bao giờ cũng là quan
hệ gốc, quan hệ cơ bản nhất của hệ thống chính trị.

13


Như vậy, trên cơ sở những lưu ý trên, chúng ta thấy hệ thống chính trị bao
giờ cũng bao gồm những bộ phận cấu thành và các bộ phận này có vai trò hỗ trợ,
tác động lẫn nhau trong việc thực thi quyền lực chính trị, đảm bảo lợi ích của quốc

gia, dân tộc và nhân dân. Do đó, trong đổi mới hệ thống chính trị cần chú ý đến
việc đổi mới các bộ phận cấu thành của nó.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
năm đoàn thể chính trị-xã hội là: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân
Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Hiến pháp năm 1992 ghi rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội nhưng nhấn mạnh Đảng Cộng sản Việt Nam là bộ phận cấu thành của hệ
thống chính trị, nhưng là hạt nhân của hệ thống đó. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
thể chế chính trị và đối với xã hội là một nguyên lý xã hội chủ nghĩa nói chung và
của nước ta nói riêng. Sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam- đảng cầm quyền
duy nhất- là lãnh đạo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng đất nước
giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Nhiệm vụ của Đảng là xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân. Đảng được toàn thể nhân dân thừa nhận quyền lực chính trị, vai trò của Đảng
được thể hiện rõ nét nhất trong các kỳ Đại hội của Đảng, theo đó đường lối đổi
mới đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được triển khai cụ
thể và đạt hiệu quả cao hơn. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị là các vấn đề của đất nước, trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến
văn hóa, xã hội ở các cấp, các ngành. Trong các mối quan hệ với Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và toàn thể xã hội, sự lãnh đạo của Đảng
biểu hiện tập trung nhất là lãnh đạo về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm mục
tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị để Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
14


chính trị-xã hội và nhân dân thực hiện đúng nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng và
vai trò của mình theo quy định của pháp luật, theo điều lệ, mục đích, tôn chỉ của
mỗi tổ chức.

Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong nội dung của cương lĩnh
chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng
chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của toàn
bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Nhà nước thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng (hay còn gọi là đối nội) và đối ngoại, bảo
đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Chức năng đối nội của nhà
nước thể hiện ở việc tập trung quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực của toàn xã
hội, chủ yếu bằng pháp luật, chính sách và hệ thống cơ quan nhà nước từ trung
ương đến cơ sở. Nhà nước quán triệt và thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ
trương lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thành Hiến pháp, pháp luật, chính
sách, kế hoạch, biện pháp của nhà nước để chỉ đạo thực hiện thông qua quá trình
hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trên mọi lĩnh vực. Nhà nước thực
hiện sự chuyên chính đối với mọi tội phạm và mọi kẻ thù để bảo vệ độc lập, chủ
quyền của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội tạo điều kiện
cơ bản để mở rộng dân chủ trong nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có vai trò cực kỳ
quan trọng trong sự hình thành và củng cố Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân ở Việt Nam. Điều 9, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 khẳng định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
15


chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc,
tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là

cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội;
tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội là những bộ phận cấu
thành hệ thống chính trị của nước ta, được hình thành nhằm đáp ứng những lợi ích
đa dạng của các thành viên; thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản lý các công
việc nhà nước, công việc xã hội; nâng cao tính tích cực của mỗi công dân. Trong
xã hội ta, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình không chỉ bằng Nhà
nước mà còn thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Vì vậy, mỗi
tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau nhưng cùng tác động vào các quá trình phát
triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội là những tổ chức hợp pháp
được tổ chức ra để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự
nguyện, tự quản, đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị
tùy theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền làm chủ của
nhân dân. Các tổ chức chính trị-xã hội có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng,
động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần
thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của
nhân dân; tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và
tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực
hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
16


Hiện nay, ngoài sáu tổ chức có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân và là
thành viên của hệ thống chính trị thì còn có trên 170 tổ chức xã hội, đoàn thể nhân
dân ở Trung ương và hàng trăm tổ chức tương tự ở các địa phương trên cả nước.

Các tổ chức này đã có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành và củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhờ đó phát huy
được sức mạnh tổng hợp của toàn dân và đạt được những thắng lợi to lớn trong
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và từng bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy
truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân
dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp và pháp luật.
Nhìn chung, hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là sự tương tác của ba yếu
tố Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức thành viên. Mô hình thể chế chính trị
này tạo ra cơ chế và phương thức để nhân dân lao động có điều kiện thực hiện
quyền làm chủ của mình, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.3. Vị trí, vai trò của các tổ chức xã hội đối với hệ thống chính trị
Hiến pháp nước ta quy định công dân có quyền hội họp, lập hội. Hiện nay,
các tổ chức xã hội ở nước ta phát triển khá đa dạng và phong phú, bao gồm các hội
như Hội Khuyến học Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Đông y Việt
Nam, Hội Làm vườn Việt Nam... Các liên hiệp hội như Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam... Các tổng
hội như Tổng hội Xây dựng Việt Nam, Tổng hội Y học Việt Nam... Đoàn, liên
đoàn như Đoàn Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Xiếc Việt Nam, Liên đoàn Bóng đá
Việt Nam.. Bên cạnh đó, còn hàng trăm các quỹ, các câu lạc bộ, các trung tâm, các
17


tổ chức nghiệp đoàn, viện, trung tâm nghiên cứu, ứng dụng, tư vấn, dịch vụ... các
cơ sở từ thiện, nhân đạo. Các tổ chức xã hội này có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân
dân. Chúng có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và đổi mới

hệ thống chính trị góp phần bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Vai trò đó được
thể hiện trên những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, đại diện cho lợi ích của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, là
cầu nối, kênh truyền dẫn tiếng nói, nguyện vọng của người dân đến với Đảng, Nhà
nước và Mặt trận Tổ quốc; phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các thành viên mà các tổ chức xã hội đại diện.
Thứ hai, tập hợp lực lượng các tầng lớp, các giới thành những tổ chức thống
nhất, vận động thành các phong trào cách mạng thực hiện chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước, ủng hộ những chủ trương, chính sách phù hợp
với lợi ích của quần chúng.
Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội tham gia thành lập các cơ
quan nhà nước. Mặt trận chủ trì việc hiệp thương với các tổ chức xã hội khác để
giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp. Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc có quyền đề nghị
với các cơ quan quyền lực nhà nước bãi miễn các đại biểu dân cử không xứng
đáng. Và có quyền giới thiệu người để các cơ quan đại biểu của nhân dân lựa chọn
bầu làm Hội thẩm nhân dân ở các tòa án nhân dân.
Thứ tư, các tổ chức xã hội tham gia xây dựng pháp luật. Tham gia đóng góp
ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bằng nhiều cách như nghiên cứu, gửi
văn bản xin ý kiến tham gia, tham dự các hội thảo do cơ quan chủ trì soạn thảo tổ
chức để phát biểu ý kiến tham gia. Cũng có những tổ chức đã và đang làm thành
viên ban soạn thảo, tổ biên tập các dự án luật, pháp lệnh. Ngoài ra, các tổ chức xã
hội còn tham gia tư vấn, phản biện đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật, thực hiện kiểm tra, giám sát đối với các văn bản quy phạm pháp luật.
18


×