Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN vận DỤNG PHƯƠNG PHÁP dạy và học TÍCH cực TRONG môn vật lý 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.32 KB, 13 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vò : Trường THCS & THPT BÀU HÀM
Mã số :……………

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC TÍCH CỰC
TRONG MÔN VẬT LÍ 7

Người thực hiện :
MAI THỊ KIM CHI
Lónh vực nghiên cứu :
Quản lý giáo dục
Phương pháp dạy học bộ môn : Lí
Phương pháp giáo dục
Lónh vực khác : …………………….
Có đính kèm :
Mô hình

Phần mềm

Phim ảnh

Năm học :2009-2010
Trang - 1 -

Hiện vật khác


VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC TÍCH CỰC
TRONG MÔN VẬT LÝ 7


I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phát huy tính tích cực của học sinh đã là một trong các phương hướng cải cách
của ngành giáo dục nhằm đào tạo những con người lao động sáng tạo, làm chủ đất
nước. Việc đổi mới phương pháp dạy và đã đi đúng hướng với sự phát triển của xã hội.
Cho đến nay, phương pháp dạy và học tích cực đã được áp dụng ở các trường học. Tuy
nhiên, để vận dụng phương pháp dạy và học này đạt hiệu quả tối ưu thì vẫn còn nhiều
khó khăn như: điều kiện cơ sở vật chất, khả năng nhận thức của học sinh và sự chuẩn bị
của giáo viên.
Môn Vật lý là môn khoa học thực nghiệm, nó có vai trò quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu đào tạo của trường THCS. Nó có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ qua
lại với các môn học khác. Người giáo viên phải là người tổ chức ra những tình huống
học tập có tác dụng kích thích óc tò mò và tư duy của học sinh. Hình thành và phát triển
ở các em những kỹ năng giải quyết vấn đề, xúc tiến tự học để lĩnh hội tri thức thông qua
thí nghiệm và tư duy .
Đối với người giáo viên phải vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy và học như
thế nào để học sinh tiếp thu tri thức đó là một vấn đề đòi hỏi tính năng động và sáng tạo
của người giáo viên trong khâu chuẩn bị và tổ chức lớp , đòi hỏi học sinh phải có kỹ
năng thực hành và tư duy nhiều hơn nữa để có thể tiếp thu được tri thức mới .
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI:
1. Thuận lợi:
Trong quá trình thực hiện tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
+ Nhà trường tạo điều kiện tham dự các lớp thay sách, các chuyên đề của trường
và ngành tổ chức
+ Bản thân đã có nhiều năm kinh nghiệm trong việc dạy học.
+ Đồ dùng dạy học cấp về tương đối đầy đủ.
+ Được sự hổ trợ của các đồng nghiệp, và đa số học sinh yêu thích môn học.
2. Khó khăn:
+ Nhà trường chưa có phòng bộ môn nên việc dạy học còn gặp nhiều khó khăn.
+ Đa số là học sinh dân tộc nên vốn tiếng Việt còn hạn chế.
+ Một số đồ dùng dạy học chất lượng chưa cao.

3. Số liệu thống kê:
Trước khi áp dụng phương pháp này, số liệu học sinh như sau:
Tổng số học sinh của khối 7 : 390 hs, trong đó trên trung bình là: 240 hs đạt 62% ; dưới
trung bình là 150 hs đạt 38 %.
III . NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lí luận:
Trong luật giáo dục đã ghi rõ phương pháp giáo dục phổ thông là phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú trong khi học môn
Vật Lí.Vậy thế nào là tích cực? Tích cực trong học tập là gì? Thế nào là phương pháp
tích cực?
Trang - 2 -


Tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội. Khác với
động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn chủ
động sản xuất ra của cải vật chất cấn thiết cho sự phát triển tồn tại của xã hội, sáng tạo
ra nền văn hoá ở mỗi thời đại.
Phương pháp tích cực là phương pháp giáo dục – dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học .
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
a. Nội dung:
“Vận dụng phương pháp dạy và học tích cực trong môn vật lí 7” nhằm giúp cho
giáo viên dạy Vật lí lớp 7 nói riêng và giáo viên dạy môn Vật lí THCS nói chung có sự
đầu tư tốt hơn cho vai trò chủ đạo của mình trong quá trình dẫn dắt học sinh chủ động,
độc lập, sáng tạo, tích cực lĩnh hội tri thức thông qua thực hành thí nghiệm theo hướng
nâng cao tính tích cực của học sinh trong việc nhận thức hiện thực xung quanh.
Môn Vật Lí chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống các môn học, nhằm
phát triển năng lực tư duy cho học sinh, tạo cho các em sự tìm tòi, say mê học tập, lao
động.

Để giúp học sinh học tốt, người giáo viên phải đóng vai trò chủ đạo, phải lập ra
những kế hoạch, những biện pháp lâu dài, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh,
gây hứng thú cho các em khi học tập.
Tuy nhiên để dạy môn học này đạt hiệu quả cao đòi hỏi người giáo viên phải lập
sẵn kế hoạch cho bài dạy, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ dạy học trong từng tiết học, hệ thống
câu hỏi, những kiến thức có liên quan đến bài học…
b. Biện pháp thực hiện
1/ Hướng thực hiện dạy và học tích cực :
Thực hiện dạy và học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp dạy học
truyền thống mà giáo viên tìm cách phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh trong học tập, làm cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn và thảo
luận nhiều hơn.
Về mặt hoạt động nhận thức thì các phương pháp thực hành là “tích cực “ hơn
các phương pháp trực quan, các phương pháp trực quan thì “ tích cực “ hơn các phương
pháp dùng lời. Người giáo viên trước hết phải xác định mục tiêu là học, hướng dẫn các
hoạt động của học sinh, huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm sống của học sinh để
xây dựng bài. Đối với học sinh thì phải tự hoạt động nghiên cứu vấn đề rồi tự đưa ra
kết luận
2/ Những phương pháp và biện pháp tích cực cần thực hiện
a/ Vấn đáp xây dựng kiến thức :
Vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra những câu hỏi để học sinh trả
lời, hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội đựơc
nội dung bài học. Giáo viên dùng hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lí để hướng dẫn
học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang
tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến kể cả
tranh luận giữa thầy với cả lớp và giữa trò với trò. Giáo viên là người tổ chức sự tìm tòi
của học sinh còn học sinh là người tự phát hiện kiến thức mới, như vậy học sinh mới có
được niềm vui của sự khám phá.
Trang - 3 -



Không phải nội dung nào giáo viên cũng sử dụng phương pháp vấn đáp tìm tòi
mà căn cứ vào hoạt động nhận thức để sử dụng phương pháp vấn đáp cho phù hợp. Ví
dụ khi cần đặt mối liên hệ với kiến thức đã học với kiến thức sắp học hoặc củng cố kiến
thức vừa học, giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã
biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Có những đề tài nào đó muốn làm
sáng tỏ, giáo viên nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để cho học sinh
dễ hiểu, dễ nhớ.
Phương pháp này không thể thiếu đối với tất cả các bài học.
Ví dụ 1 : Bài 3 : Ứng dụng định luật truyền thẳng của ánh sáng
Sau khi học sinh tiến hành thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2 để giải thích các hiện
tượng Nhật thực, Nguyệt thực, giáo viên đặt ra hệ thống câu hỏi:
Giáo viên
Học sinh
? Hãy trình bày sự chuyển động của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất Trái
Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất?
Đất quay xung quanh Mặt Trời
GV thông báo: Khi Mặt Trời, Mặt
Trăng, Trái Đất nằm trên một đường
thẳng.
? Hãy vẽ tia sáng để nhận thấy hiện
tượng Nhật thực?

? Hãy tìm vị trí để Mặt Trăng trở
thành màn chắn?
? Hiện tượng Nhật thực hoặc Nguyệt
Không. Vì Trái Đất và Mặt Trăng luôn
thực có thể xảy ra trong thời gian
chuyển động
dài không? Vì sao?

Ví dụ 2 : Bài 14: Phản xạ âm – Tiếng vang
Sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu được thế nào là âm phản xạ và tiếng
vang, giáo viên có thể đặt thêm hệ thống câu hỏi nhằm khắc sâu và mở rộng kiến thức
cho học sinh:
Giáo viên
Học sinh
? Hãy phân biệt âm phản xạ và tiếng Giống nhau: đều là âm phản xạ
vang?
Khác nhau: Tiếng vang là âm phản xạ
nghe từ khoảng cách âm phát ra ít nhất
khoảng 1/15 giây
HS thảo luận và trả lời C3 , giáo viên hỏi
thêm:
? Tại sao khi nói chuyện rất to trong Trong phòng lớn âm dội lại từ tường đến
phòng lớn thì nghe được tiếng vang. tai ta có thể đến sau âm phát ra nên tai ta
Nhưng nói to như vậy trong phòng nhỏ lại nghe thấy tiếng vang. Trong phòng nhỏ
không nghe được tiếng vang?
âm dội lại từ tường đến tai gần như cùng
Trang - 4 -


một lúc với âm phát ra nên không nghe
được tiếng vang.
Từ C7 , giáo viên phân tích trên H.14.4
? Nếu âm phát ra gặp đàn cá thì có phản Âm phát ra gặp đàn cá thì phản xạ trở lại
xạ lại không ?
Để biết được các vật dưới nước và biết
? Vậy ngoài việc sử dụng phản xạ âm để được chỗ nào có cá để thả lưới.
xác định độ sâu của biển, tàu đi biển còn
sử dụng tiếng vang với mục đích gì ?

Ví dụ 3 :Bài 19: Dòng điện _ Nguồn điện
Từ H.19.1, học sinh thảo luận và điền đầy đủ nhận xét để hình thành khái niệm dòng
điện, nguồn điện. Giáo viên cần đặt thêm những câu hỏi:
Giáo viên
Học sinh
? Hãy nêu dấu hiệu nhận biết có dòng Đèn bút thử điện sáng, quạt điện quay...
điện chạy qua các thiết bị điện?
Pin, acquy, máy phát điện, ổ điện...
? Hãy nêu ví dụ về các nguồn điện trong Xem dây tóc bóng đèn có đứt không, bề
thực tế ?
mặt tiếp xúc của đui đèn với đế, dây điện
? Nêu cách kiểm tra để đảm bảo mạch có đứt ngầm không, nguồn điện có nạp
điện kín?
điện hay chưa
Để củng cố bài học GV đặt câu hỏi chỉ
yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức vừa
học :
Là dòng các điện tích dịch chuyển có
? Dòng điện là gì ?
hướng
Nối hai đầu dây của bóng đèn với hai
? Làm thế nào để có dòng điện chạy qua cực của nguồn điện.
trong bóng đèn?
b/ Đặt và giải quyết vấn đề:
- Đặt vấn đề là tạo tình huống có vấn đề; phát hiện nhận dạng những vấn đề nảy
sinh ; phát biểu vấn đề cần giải quyết.
- Giải quyết vấn đề là đề xuất cách giải quyết, lập kế hoạch giải quyết, thực hiện
kế hoạch giải quyết
- Kết luận là thảo luận kết quả đánh giá ; khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu
ra; phát biểu kết luận ; đề xuất vấn đề mới.

- Trong dạy - học đặt và giải quyết vấn đề có thể phân biệt bốn mức:
Mức 1 : Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải
quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên . Giáo viên đánh giá kết quả làm vịêc của
học sinh.
Mức 2 : Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. Học
sinh thực hiện với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh
giá.
Mức 3 : Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện vấn
đề và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học
sinh thực hiện . Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 4 : Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh, lựa chọn vấn đề giải quyết. Sau đó
tự giải quyết, tự đánh giá có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc .
Trang - 5 -


Đối với trường của chúng tôi là vùng sâu vùng xa, và hầu hết học sinh là con em
dân tộc nên chỉ có thể áp dụng mức 1 và 2 riêng mức 3 và 4 có thể áp dụng cho những
học sinh khá giỏi.
Để bắt đầu một bài học mới hoặc một vấn đề mới nhất định phải có đặt vấn đề để
tạo tình huống có vấn đề nhằm thu hút sự chú ý của học sinh.
Ví dụ 1 :Bài 5 : Ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng.
Gv có thể đặt vấn đề như SGK : Tại sao bóng của cái tháp lại lộn ngược xuống
nước ?
Để giải quyết vấn đề trên, GV hướng dẫn học sinh nghiên cứu tính chất của ảnh
tạo bởi gương phẳng. Có 3 tính chất sau :
+ Ảnh ảo.
+ Ảnh lớn bằng vật.
+ Khoảng cách từ một điểm của vật đến gương phẳng bằng khoảng cách từ ảnh
của điểm đó đến gương.
Dựa vào tính chất của ảnh tạo bởi gương phẳng học sinh vẽ được ảnh của một

vật đặt trước gương phẳng.
GV có thể gợi ý “Xem mặt nước như một gương phẳng”
Từ những kiến thức trên học sinh sẽ tự giải quyết vấn đề được nêu ra ở đầu bài
Chân tháp gần mặt nước nên ảnh của nó gần mặt nước, đỉnh tháp xa mặt nước
nên ảnh của nó ở xa mặt nước. Do đó nhìn thấy bóng của cái tháp lộn ngược xuống
nước.
Ví dụ 2 : Bài 11 : Độ cao của âm
Giáo viên có thể đặt vấn đề như SGK hoặc có thể đặt vấn đề : đàn bầu chỉ có một
dây, vậy mà người nghệ sĩ gãy đàn khi thì thánh thót lúc thì trầm lắng. Nguyên nhân
nào làm cho âm trầm âm bổng khác nhau ?
Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu được tần số, mối quan hệ giữa độ cao của âm
và tần số:
+ Âm phát ra càng cao khi tần số dao động càng lớn.
+Âm phát ra càng thấp khi tần số dao động càng nhỏ.
Từ những kiến thức vừa tiếp thu, học sinh sẽ tự mình giải quyết vấn đề được đưa
ra: Người nghệ sĩ làm thay đổi tần số dao động của dây đàn, tần số dao động càng lớn
âm phát ra càng cao ( bổng), tần số dao động càng nhỏ âm phát ra càng thấp ( trầm).
Ví dụ 3 : Bài 17 : Nhiễm điện do cọ xát
Đây là bài học đầu tiên của chương điện học, giáo viên có thể đặt vấn đề cho cả
lớp thảo luận trao đổi:
? Ngoài các hiện tượng được mô tả trong các ảnh đầu chương 3 (SGK) các em
còn biết các hiện tượng điện nào khác ?
Sau đó giáo viên giới thiệu mục tiêu chính của chương và đặt vấn đề cho bài học:
Các em đã từng thấy hiện tượng gì, nghe thấy gì khi cởi áo khoác ngoài bằng
len, dạ hay sợi tổng hợp vào những ngày thời tiết khô ráo, đặt biệt là khi hanh khô ?
Học sinh trả lời, giáo viên đặt tiếp câu hỏi:
Tại sao lại có hiện tượng đó?
Tập trung sự chú ý của học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức
bài học và giải quyết vấn đề đặt ra:
Trang - 6 -



Vào những ngày thời tiết khô ráo, khi cởi áo khoác ngoài bằng len, dạ hay sợi
tổng hợp ta thường nghe thấy những tiếng lách tách nhỏ vì ở bề mặt ngoài của các sợi
len,dạ hay sợi tổng hợp có mang các hạt điện tích do bị cọ xát, các hạt điện tích này
phóng điện nên xuất hiện các tia chớp nhỏ lúc này không khí bị giản nở đột ngột nên
gây ra những tiếng nổ lách tách nhỏ
c/ Khai thác hết hoạt động của các thành viên trong nhóm:
Lớp học được chia thành 6 nhóm , mỗi nhóm có 7_8 học sinh . Nhóm tự bầu lấy
nhóm trưởng. Trong nhóm phân công mỗi người một phần việc:
 Nhóm truởng là những em năng nổ, nhiệt tình học lực khá có nhiệm vụ nhận và
kiểm tra đồ dùng dạy học, sau mỗi tiết học hướng dẫn các thành viên còn lại trong
nhóm rửa dụng cụ (nếu cần ) và cất dụng cụ vào vị trí . Ngoài ra nhóm trưởng cón có
nhiệm vụ hướng dẫn các thành viên khác trong nhóm thảo luận trên giấy bút.
 Các thành viên khác, mỗi người đều phải làm việc tích cực, không ỷ lại vào
một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau
tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác trong lớp.
Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả
lớp .
Ví dụ: Khi tiến hành thí nghiệm thì trong nhóm phân công cụ thể:
+ 2 bạn bố trí và tiến hành thí nghiệm.
+1 bạn thư ký để ghi lại kết quả. Các bạn còn lại cùng quan sát thí nghiệm, thảo
luận và trao đổi đưa ra ý kiến chung nhất.
+Đại diện nhóm lên trình bày kết quả
d/ Tạo không khí sôi nổi trong lớp học:
Bầu không khí lớp học là yếu tố rất quan trọng trong việc lĩnh hội tri thức của
học sinh và tâm lí dạy học của giáo viên. Do đó, người giáo viên cần phải có tính sáng
tạo trong khâu tổ chức sao cho lớp học sôi nổi, sinh động, nhịp nhàng giữa thầy và trò,
học sinh thu thập và xử lí thông tin trong không khí vui nhộn. Cụ thể : một số bài tập
định lượng hoặc một số thí nghiệm giáo viên có thể tổ chức dưới dạng trò chơi.

Ví dụ 1 : Thí nghiệm 2 : Sự truyền âm trong chất rắn (Bài 13 : Môi trường truyền
âm), giáo viên nên tổ chức cho các em tiến hành thí nghiệm bằng cách chơi trò chơi “Ai
thính tai nhất”
+ Trò chơi được tiến hành theo bàn: Bạn ngồi giữa vừa có nhiệm vụ gõ vừa làm
trọng tài. Các bạn còn lại ngồi ra hai phía đầu bàn và quay lưng về phía bạn gõ.
+ Cách chơi: Bạn giữa gõ vào bàn một số lần sao cho các bạn kia không nghe
thấy tiếng gõ là đạt, bằng cách hỏi thăm các bạn kia xem mình đã gõ chưa, nếu các bạn
trả lời chưa là được. Sau đó yêu cầu các bạn áp tai xuống bàn và đếm số lần gõ, bạn nào
trả lời đúng được xem là thính tai nhất.
Ví dụ 2: Câu C6 (Bài 10: Nguồn Âm) có thể cho hs tiến hành trò chơi ai sẽ làm
cho lá chuối phát ra âm to nhất.
Hoặc câu C3 và C7 (Bài 14 : Phản xạ âm _ Tiếng vang), thay vì yêu cầu các
nhóm thảo luận thì giáo viên nên tổ chức cho các em chơi “Ai thông minh hơn”, các
nhóm thảo luận và đưa ra kết quả trong không khí thi đua với các nhóm khác.
Sau mỗi trò chơi, nhóm nào trả lời đúng nhất và nhanh nhất được xem là thắng,
giáo viên nên yêu cầu lớp thưởng một tràng pháo tay để khích lệ tinh thần cho các em.
Trang - 7 -


e/ Liên hệ thực tế đồng thời giáo dục học sinh:
Ngoài các kiến thức truyến thụ đầy đủ theo yêu cầu nội dung SGK, giáo viên nên
liên hệ thực tế nhiều, có thể mở rộng thêm cho các em, tạo thêm cho các em niềm say
mê yêu thích môn học. Qua đó giáo viên giáo dục các em trở thành người đầy đủ tài đức theo yêu cầu của xã hội.
Ví dụ 1: Bài 3: Ứng dụng định luật truyền thẳng của ánh sáng
Qua nội dung bài học, học sinh giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
Từ đó giáo viên giáo dục học sinh những câu chuyện về " Gấu ăn mặt trăng", " gõ mõ
đuổi gấu ăn mặt trăng" chỉ là tưởng tượng do Mặt Trăng chuyển động xung quanh Trái
Đất
Ví dụ 2: Bài 15 : Chống ô nhiễm tiếng ồn
Phần 1: Học sinh nhận biết được tiếng ồn ô nhiễm, giáo viên cần giáo dục học

sinh vào những giờ cao điểm như trưa hoặc khuya không nên làm ồn để ảnh hưởng đến
sức khoẻ và sự nghỉ ngơi của các nhà bên cạnh bằng cách vặn nhỏ đài và không nên
nói chuyện cười đùa lớn.
Phần 2: Biện pháp chống ô nhiễm tiếng ồn: Giáo viên cần liên hệ thực tế và giáo
dục học sinh phải biết trồng và bảo vệ cây xanh để làm sạch môi trường và làm giảm ô
nhiễm tiếng ồn, đồng thời vận động mọi người cùng tham gia trồng và bảo vệ cây xanh.
Để phương pháp dạy và học tích cực đạt hiệu quả, người giáo viên cần phải phối hợp
linh hoạt các phương pháp trong quá trình giảng dạy.
f/ Hướng dẫn về nhà:
Sau mỗi bài học giáo viên cần phải yêu cầu học sinh về nhà làm bài tập trong
sách bài tập để học sinh rèn luyện thêm và củng cố kiến thức, cần hướng dẫn học sinh
đọc trước bài học trong sách giáo khoa để có thể tìm hiểu trước những vấn đề mà bài
học đưa ra, học sinh có thể hiểu trước một bước dù là chưa chính xác. Dưới sự hướng
dẫn của giáo viên ở trên lớp học sinh có thể hiểu sâu vấn đề hơn và khắc sâu kiến thức
hơn
Đồng thời giáo viên nên chuẩn bị một bài tâp nâng cao cho học sinh khá giỏi về
nhà khám phá.
V í d ụ 1: Bài 1: Nhận biết ánh sáng _ nguồn sáng và vật sáng
Khi nhìn lên bảng học trong lớp, đôi lúc em thấy bảng bị chói và không đọc được
chữ. Em hãy tìm hiểu nguyên nhân từ đó đưa ra các phương pháp khắc phục.
V í d ụ 2: Bài 13: Môi trường truyền âm
Sau khi nhìn thấy tia chớp thì 5 giây sau mới nghe tiếng sấm. Nơi xảy ra sấm sét
cách nơi đứng bao xa. Xem ánh sang truyền đi tức thời.
Ví dụ 3: Bài 24: Cường độ dòng điện
Tại sao dưới kim đo của ampe kế, người ta đặt thêm một gương phẳng?
Trả lời:
Ví dụ 1: Đó là do bề mặt của bảng đã được sơn nhẵn bóng nên ánh sáng khi chiếu
đến bảng, hầu như hoàn toàn phản chiếu lại khiến mắt nhìn lên bảng bị chói. Để hạn chế
hiện tượng này, người ta dùng sơn hấp thụ ánh sáng, tức là nếu có ánh sáng chiếu vào
mặt bảng sẽ hấp thụ ánh sáng nhiều và phản xạ lại rất ít.

Ví dụ 2: Nơi xảy ra sét cách nơi đứng : 5 s x 340 m/s = 1700 m = 1,7 km
Trang - 8 -


Ví dụ 3: Để đọc giá trị chính xác, mắt phải luôn luôn vuông góc mặt đồng hồ. Vì
vậy ta phải đặt mắt sao cho kim và ảnh của kim ( qua gương phẳng ) trùng nhau.
Giáo viên có thể kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh thông qua kiểm tra bài cũ,
khi kiểm tra bài cũ giáo viên có thể hỏi thêm: bài học tiếp theo của chúng ta là gì? Gồm
có mấy phần? Nghiên cứu vấn đề gì? …
Để phương pháp dạy và học tích cực đạt hiệu quả, người giáo viên cần phải
phối hợp linh hoạt các phương pháp trong quá trình giảng dạy.
Giáo án minh hoạ
Bài 13: MÔI TRƯỜNG TRUYÊN ÂM
I/ MỤC TIÊU:
_ Hiểu được một số môi trường truyền âm và không truyền được âm
_ Nêu được một số ví dụ về sự truyển âm trong các chất rắn, lỏng và khí
_ Trung thực, tỉ mỉ, cẩn thận trong khi làm thí nghiệm
II/ CHUẨN BỊ:
+ Đồ dùng cho mỗi nhóm học sinh:
2 trống
Dùi
Giá đỡ
Nguồn âm
Cốc nước
+ Giáo viên: Tranh vẽ H.13.4
III/ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Nội dung
HĐ1: Kiểm tra bài cũ_Tổ chức

tình huống học tập
1/ Độ to của âm phụ thuộc vào
biên độ dao động như thế nào? HS trả lời, HS khác lắng
Đơn vị đo độ to của âm? Kí nghe nhận xét
hiệu?
2/ GV có thể đặt vấn đề như
sách giáo khoa, hoặc có thể đặt
vấn đề: Hàng ngày chúng ta
nghe được những âm thanh như:
tiếng cười đùa của các bạn,
tiếng giảng bài của thầy cô,
tiếng tàu hoả chạy … Vậy
những âm đó truyền đến tai ta
Bài 13: Môi trường
như thế nào và nhờ môi trường
truyền âm
nào ?
I/ Môi trường truyền
HĐ2 : Môi trường truyền âm
âm:
GV đặt vấn đề: Môi trường nào
1/ Thí nghiệm:
có thể truyền được âm?
2/ Kết luận:
GV hướng dẫn học sinh bố trí
- Chất rắn, lỏng, khí là
TN 1: Sự truyền âm trong chất
những môi trường có thể
Trang - 9 -



khí.
Gv yêu cầu nhóm khác nhận xét
và công nhận kết quả
GV có thể đặt thêm hệ thống
câu hỏi:
? Nếu đặt trống 2 xa hơn nữa thì
quả cầu treo gần trống 2 như thế
nào?
? Điều đó chứng tỏ gì?

HS làm TN theo mhóm, truyền được âm
cử đại diện nhóm trả lời - Độ to của âm càng
C1, C2
giảm khi ở xa nguồn âm
- Chân không không thể
truyền âm.
Quả cầu treo gần trống 2
có biên độ dao động càng
nhỏ
Độ to của âm càng giảm
khi ở xa nguồn âm

? Hãy nêu ví dụ chứng tỏ độ to
của âm càng giảm trong khi lan Những lớp học ở gần
truyền ?
trống trường thì sẽ nghe
tiếng trống to hơn những
lớp học ở xa trống
TN 2: Sự truyền âm trong chất

rắn
GV thay thí nghiệm bằng trò
chơi: “Ai thính tai nhất”
Gv yêu cầu cả lớp thưởng cho
các bạn thính tai nhất một tràng
pháo tay và trả lời câu hỏi:
? Hãy nêu ví dụ âm có thể
truyền được trong chất rắn?
TN 3: Sự truyền âm trong chất
lỏng
GV hướng dẫn HS tiến hành TN
theo nhóm, thảo luận trả lời C4
GV đặt câu hỏi thêm:
? Hãy nêu ví dụ chứng tỏ âm
truyền được trong chất lỏng?
? Từ 3 TN trên cho biết những
chất nào có thể truyền được âm?
TN 4: Âm có thể truyền được
trong chân không hay không?
Nếu không tiến hành được thí
nghiệm, GV yêu cầu HS đọc nội
dung TN và trả lời các câu hỏi:
Lúc đầu cho dòng điện chạy qua
có nghe tiếng chuông kêu
không?
Hút dần không khí trong bình
thì tiếng chông nghe như thế

Các nhóm tham gia trò
chơi, cử ra người thính tai

nhất nhóm, thảo luận và
trả lời C3

Khi áp tai xuống đất thì
nghe được tiếng bước
chân của người đi
HS tiến hành TN theo
nhóm thảo luận và trả lời
C4
Khi lặn xuống nước nghe
được tiếng sùng sục của
bong bóng nước
Chất rắn, chất lỏng, chất
khí là những môi trường
truyền được âm

Nghe được tiếng chuông
kêu
Trang - 10 -


nào?
Khi hút hết không khí (chân
không) thì còn nghe tiếng
chuông nữa không?
Nếu bơm dần không khí vào
bình thì có hiện tượng gì?
Từ kết quả TN trên chứng tỏ
điều gì?
GV có thể liên hệ thực tế: Trên

mặt Trăng không có không khí,
do đó con người không thể nghe
được tiếng nói của nhau ngay cả
nếu phi thuyền phát nổ họ cũng
không nghe được, muốn liên lạc
với nhau họ phải nhờ sóng vô
tuyến.
HĐ3 Vận tốc truyền âm
GV đặt vấn đề: Ở trong nhà,
nghe đài phát ra từ loa công
cộng sau âm phát ra từ đài trong
nhà, mặc dù một chương trình.
Tại sao có hiện tượng đó? Âm
truyền đến tai ta có cần thời gian
không?
HS đọc thông tin SGK và trả lời
câu hỏi:
Âm truyền nhanh nhưng có cần
thời gian không?
So sánh vận tốc truyền âm trong
không khí, nước, thép?
Trong môi trường vật chất nào
âm truyền nhanh nhất? Kém
nhất?
Hãy giải thích TN 2: Tại sao bạn
không áp tai không nghe còn
bạn áp tai xuống bàn lại nghe
được tiếng gõ?
Tại sao trong nhà nghe thấy
tiếng đài trước loa công cộng?

HĐ 4 : Vận dụng
Yêu cầu HS trả lời C7, C8, C9,
C10
GV cần mở rộng thêm câu C10.

Tiếng chuông nghe được
càng nhỏ dần
Không nghe được tiếng
chuông
Lại nghe được
chuông kêu

tiếng

Chân không không thể
truyền âm

3/ Vận tốc truyền âm:
Vận tốc truyền âm trong
chất rắn lớn hơn trong
chất lỏng, trong chất
lỏng lớn hơn trong chất
khí

Âm truyền nhanh nhưng
cần có thời gian
Thép > Nước > Không khí
Chất rắn truyền âm tốt
nhất, chất khí truyền âm II/ Vận dụng:
kém nhất

Gỗ là chất rắn nên truyền
âm nhanh hơn, tốt hơn
Trang - 11 -


Nếu muốn liên lạc với nhau khi
không dùng sóng vô tuyến thì
các phi hành gia phải làm như
thế nào?
Yêu cầu HS đọc “ Có thể em
chưa biết ”
Yêu cầu HS trả lời vấn đề đặt ra
ở đầu bài: Âm truyền đến tai ta
như thế nào? Và nhờ môi trường
nào?

không khí
Vì quãng đường từ loa
công cộng đến tai dài hơn
nên thời gian âm truyền
đến tai dài hơn

HS trả lời C7, C8, C9,
C10
Nhờ môi trường vật chất
là bộ áo giáp và nón giáp
truỳên được âm nên họ áp
sát vào để liên lạc với
nhau
• Dặn dò: Học bài, làm bài tập 11.1_ 11.5 ( SBT)

Xem trước bài 14: Phản xạ âm_ Tiếng vang
IV. KẾT QUẢ :
Qua quá trình thực dạy, khi phối hợp các phương pháp trên trong giảng dạy đã
gây hứng thú nhiều ở HS. HS tích cực học tập hơn, lớp học sinh động hơn và kết quả
khả quan hơn khi tiến hành bài dạy theo phương pháp cổ truyền. Vì thế kết quả giảng
dạy cũng đạt kết quả cao hơn, cụ thể qua chương trình dạy Vật lí 7 tôi đã thu được kết
quả trước và sau khi áp dụng các phương pháp trên như sau: trước khi áp dụng: trên
trung bình: 320 hs đạt 82%; dưới trung bình 70 hs đạt 18%
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Sau khi dạy học theo phương pháp này tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Để phương pháp dạy và học tích cực có hiệu quả, trong quá trình giảng dạy cần
chú ý những điểm sau:
_ Giáo viên phải hướng dẫn và yêu cầu học sinh không những học và làm bài cũ
mà còn nghiên cứu kỹ bài mới trước khi đến lớp. Học sinh phải nắm được mục đích của
thí nghiệm trước khi làm thi nghiệm và rút ra kết luận.
+ Trong hoạt động nhóm giáo viên cần nhắc nhở học sinh:
+ Chỉ có nhóm trưởng mới được phép lấy và cất đồ dùng day học để hạn chế tình
trạng hư hỏng dụng cụ và mất trật tự trong lớp học.
+ Thành viên khá giỏi trong nhóm phải có nhiệm vụ hướng dẫn các học sinh yếu
tham gia thảo luận.
+ Khi báo cáo kết quả, các thành viên trong nhóm lần lượt thay phiên nhau báo
cáo để tránh tình trạng học sinh nhúc nhát hoặc yếu kém tránh né.
+ Không nên lạm dụng các hoạt động nhóm nhiều, mỗi tiết học chỉ nên tổ chức
hoạt động nhóm đối với các thí nghiệm hoặc những câu hỏi khó và phức tạp. Vì tổ chức
học tập theo nhóm tại lớp học bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, ngoài ra
còn bị hạn chế thời gian của tiết học nên giáo viên phải biết tổ chức hợp lý mới có kết
quả tốt.
Trang - 12 -



+ Tạo không khí trong lớp học là một yếu tố rất quan trọng, nó đã góp phần
không nhỏ trong việc thực hiện giảng dạy.
VI. KẾT LUẬN:
1/ Những mặt đạt được :
Khi vận dụng phương pháp tích cực vào giảng dạy, người học được cuốn hút vào
hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những
điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên
sắp đặt. Rèn cho người học có được kỹ năng , thói quen, ý chí tự học, sẽ tạo cho các em
lòng ham học. Khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người, kết qủa học tập sẽ nâng lên.
Tuy nhiên, trong học tập không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành
bằng những hoạt động cá nhân. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể tạo nên
mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập, ý
chí mỗi cá nhân được bộc lộ khẳng định hay bát bỏ, qua đó ngươì học nâng mình lên
một trình độ mới. Giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến
thức mà trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo
nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập. Vì vậy người giáo viên phải
luôn luôn học hỏi trao dồi để có một trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm
để là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động của học
sinh.
2/ Ý kiến đề xuất:
+ Để thực hiện tốt phương pháp này, cần có sự đầu tư về phòng học, bàn ghế để
học sinh tiến hành thí nghiệm thành công và hạn chế vận chuyển đồ dùng cho giáo viên.
+ Cung cấp những băng hình có liên quan đến bộ môn như :” Em yêu khoa học”.
+ Một số tài liệu tham khảo để giáo viên cập nhật kiến thức.
Trên đây là ý kiến của cá nhân tôi qua quá trình học tập và giảng dạy, chắc chắn
chuyên đề này còn rất nhiều thiếu sót rất mong sự đóng góp của quý đồng nghiệp để tôi
hoàn thành chuyên đề tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Sách giáo khoa Vật Lí 7 – NXB Giáo dục.
2. Sách bài tập Vật Lí 7 – NXB Giáo dục.

3. Sách giáo viên Vật Lí 7. – NXB Giáo dục.
4.Tài liệu BDTX – NXB Giáo dục.
5. Tài liệu đổi mới mới phương pháp dạy học môn Vật Lí THCS
Trảng Bom, Ngày 05 tháng 05 năm 2012
Người viết
Mai Thị Kim Chi

Trang - 13 -



×