Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

skkn xây DỰNG một số DẠNG bài tập THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG lực để rèn LUYỆN kĩ NĂNG làm văn CHO học SINH lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.19 KB, 23 trang )

XÂY DỰNG MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP THEO ĐỊNH HƯỚNG
NĂNG LỰC ĐỂ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM VĂN CHO
HỌC SINH LỚP 10
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

I.

Hiện nay, việc dạy học ở chương trình giáo dục phổ thông của nước ta đang
chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của
người học. Từ định hướng đó, việc kiểm tra đánh giá có sự thay đổi. Bài kiểm tra
phải đánh giá được năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề của học
sinh(HS). Dạy học theo định hướng năng lực yêu cầu người giáo viên(GV) phải
chú trọng việc đánh giá thường xuyên trong quá trình dạy và học.
Kiến thức và kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực. Trong môn Ngữ
Văn, việc đánh giá cần hướng tới là năng lực phân tích, bình giá và cảm thụ văn
học nghệ thuật một cách chủ động. Điều này được thể hiện chủ yếu qua việc tạo
lập các văn bản. Trong các phân môn của bộ môn Ngữ Văn, làm văn được xem là
phân môn tổng hợp vì “học sinh bao giờ cũng phải cùng một lúc huy động hàng
loạt kiến thức được trang bị của mình về ngôn ngữ (bao gồm tất cả các năng lực
sử dụng tất cả các đơn vị ngôn ngữ và các quan hệ ngữ pháp), về tư duy (bao gồm
tất cả các khả năng: phân tích, tổng hợp, khái quát, phán đoán, suy luận…) và cả
về quan điểm lập trường của các quá trình nhận thức và đánh giá.” (Trần Thanh
Bình). Là một phân môn thực hành sáng tạo nên học sinh phải biết vận dụng kiến
thức trong chương trình học, kiến thức thực tế và kĩ năng vận dụng ngôn ngữ để
làm bài. Bài làm văn là sản phẩm cuối cùng đánh giá năng lực tổng hợp của học
sinh.
Kiến thức làm văn ở trường phổ thông không phải hoàn toàn mới mà là sự lặp
lại và nâng cao kiến thức ở bậc cơ sở vì thế chương trình làm văn ở THPT chú ý
đến khâu thực hành luyện tập. Tuy nhiên, bài tập trong sách giáo khoa còn ít nếu
giáo viên chỉ dừng lại giảng dạy các bài tập trong sách giáo khoa thì chưa đủ. Giáo
viên là người nắm bắt năng lực và định hướng năng lực cho HS vì thế GV không


thể áp dụng một giáo án có sẳn để giảng dạy cho tất cả các đối tượng mà phải nắm
1


bắt kịp thời năng lực của từng đơn vị đối tượng để chọn phương pháp và kiến thức
phù hợp.
Trên cơ sở khảo sát thực tế bài làm văn của học sinh lớp 10 tại nơi công tác, tôi
nhận thấy giáo viên dạy văn cần phải xây dựng thêm những dạng bài tập sửa lỗi và
rèn luyện kĩ năng viết văn cho HS mang tính hệ thống phù hợp với năng lực của
từng lớp, từng trường cụ thể để HS làm bài tốt hơn.
Thực hiện đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích…
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Phân môn làm văn trong chương trình sách giáo khoa lớp 10 và lí luận
dạy học theo định hướng năng lực
Làm văn trong trương trình ngữ văn 10 có 3 kiểu (phân theo phương thức
biểu đạt): văn tự sự, văn thuyết minh và văn nghị luận. Lí thuyết và bài tập trong
chương trình làm văn trong SGK được biên soạn ngắn gọn, dễ hiểu. Lí thuyết bám
sát vào các ngữ liệu (phân tích ngữ liệu để làm cơ sở rút ra lí thuyết). Các văn bản
ngữ liệu có chọn lọc và ngắn gọn, coi trọng vào kĩ năng thực hành vận dụng và rèn
luyện các thao tác. Tuy nhiên, số lượng bài tập trong sách giáo khoa tương đối ít,
mỗi bài học chỉ có một đến ba bài tập nhằm thực hiện một kĩ năng nào đó. Chẳng
hạn, học chuyện đề văn tự sự thì có các dạng đề thực hành kiểu như: hãy lập dàn ý
cho một bài văn kể về câu chuyện “hậu thân của chị Dậu theo gợi ý của nhà văn
Nguyễn Tuân”, hay “một câu chuyện xảy ra trong cuộc sống”; bài tập “chọn một
sự việc rồi kể bằng các chi tiết tiêu biểu cho phần tiếp theo đoạn kết của truyện
Lão Hạc của Nam Cao”, “Viết một đoạn văn diễn tả cử chỉ và tâm trạng của cô
gái trong 9 câu thơ đầu đoạn trích truyện thơ “Tiễn dặn người yêu”.” (SGK, trang
99 tập 1)…, phần văn thuyết minh và nghị luận cũng vậy.
Các bài kiểm tra đánh giá (bài kiểm tra 1 tiết) trong sách giáo khoa cũng

theo trình tự bài học: bài viết số 1 kiểm tra kiến thức văn biểu cảm về một hiện
tượng đời sống, bài viết số 2, 3 là văn tự sự, không định hướng bài kiểm tra cuối
học kì I, bài viết số 5 làm văn thuyết minh, bài viết số 5, và bài thi học kì II làm
2


văn Nghị luận. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy theo định hướng phát triển năng lực
hiện nay thì lại không nhất thiết giáo viên phải đảm bảo kiến thức đánh giá học
sinh theo trình tự như trên. Chẳng hạn, khi học phần truyện dân gian, không nhất
thiết người thầy chỉ ra dạng đề văn tự sự. Tài liệu tập huấn Dạy học kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực của học sinh năm 2014
có gợi ý ra đề kiểm tra năng lực vận dụng cao của học sinh khi học xong truyện cổ
tích Tấm Cám như sau:
* Theo hình thức văn tự sự:
Đề 1: Đóng vai nhân vật Tấm (Cám) kể lại truyện cổ tích Tấm Cám.
Đề 2: Nếu được phép thay đổi kết thúc truyện, anh/ chị sẽ kết thúc truyện
như thế nào?
* Theo hình thức văn nghị luận:
Đề 1: Trả lời con gái, Mark khẳng định: “Hạnh phúc là đấu tranh”. Câu trả
lời ấy khiến anh/ chị nghĩ gì về cuộc đấu tranh không khoan nhượng để giành hạnh
phúc của nhân vật Tấm trong truyện Tấm Cám.
Đề 2: Sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập 1 nhận định về truyện “Tấm Cám”:
“Đặc sắc nghệ thuật của truyện là khắc họa được hình tượng Tấm có sự phát triển
về tính cách (từ yếu đuối thụ động đến kiên quyết đấu tranh giành lại cuộc sống và
hạnh phúc)”. Anh chị hiểu như thế nào về nhận định trên? Phân tích tác phẩm để
làm rõ.(bài tập vận dụng trong bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam).
Như vậy, dạy học theo định hướng kĩ năng đòi hỏi khâu đánh giá phải
hướng đến đánh giá năng lực của học sinh ở tất cả các kĩ năng: từ đọc hiểu đến
năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản, cuối cùng là năng lực cảm thụ,
giải quyết các vấn đề được đặt ra trong văn bản. HS không nhất thiết học kiểu làm

văn nào trên lớp thì giáo viên đánh giá trên kiểu làm văn ấy. Khi học một tác phẩm
văn chương, giáo viên có thể ra nhiều dạng đề đánh giá năng lực học sinh ở nhiều
kĩ năng khác nhau. HS phải phân biệt được dạng đề nào là văn tự sự, dạng đề nào
là thuyết minh, hoặc nghị luận. Để đáp ứng kĩ năng làm văn cho học sinh, giáo
viên phải chủ động cho bài tập thực hành, sửa lỗi và rèn luyện kĩ năng phù hợp với
3


từng đối tượng lớp học trong suốt quá trình giảng dạy chứ không nhất thiết bám sát
những bài tập trong sách giáo khoa ở chương trình Ngữ văn 10. Vì thế nếu chỉ thực
hành bài tập có trong sách giáo khoa thì học sinh sẽ không thực hiện hết các dạng
đề đối với một tác phẩm văn học nào đó. Học kì I, SGK chỉ hướng dẫn tìm hiểu và
thực hành văn tự sự thì học sinh sẽ khó thực hành vận dụng các dạng đề văn nghị
luận. Chính vì vậy giáo viên cần xây dựng hệ thống bài tập giúp các em giải quyết
các bài làm văn theo thực tế chương trình.
Yêu cầu của việc kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực trong bài làm
văn là: “không nên cho học sinh viết dài mà có giới hạn dung lượng, có cân nhắc
suy nghĩ trong việc ra đề để giáo viên có thể chấm cả ý lẫn văn (…)Trong câu hỏi/
bài tập và đề tự luận, ngoài hình thức câu hỏi luận đề, GV có thể đa dạng hóa
cách ra đề khác như: tìm ý, đề xuất ý, viét đoạn văn, tóm tắt văn bản, chữa câu,
đoạn, viết theo mẫu, theo gợi ý” (Tài liệu tập huấn, trang 95) nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc bao quát các nội dung học tập thuận lợi hơn. Từ định hướng
theo yêu cầu đổi mới, bài viết đề xuất các dạng bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng viết
văn cho học sinh từ thực tế nắm bắt năng lực viết văn của HS.
2.2. Thực tế việc dạy học của giáo viên và làm văn của học sinh lớp 10
Nội dung kiến thức thì mỗi HS tự trang bị cho mình trong quá trình học tập và
trong cuộc sống. Điều quan trọng là HS phải học được kĩ năng làm văn, biết phát
hiện ra vấn đề, biết diễn đạt tình ý cho rõ ràng, mạch lạc. Bài tập thực hành mang
tính hệ thống sẽ giúp HS phát hiện lỗi và khắc phục những lỗi thường gặp mà mình
mắc phải. HS có thể làm bất cứ dạng đề nào mà không bị phụ thuộc vào việc đề

văn đó đã được giáo viên gợi ý hay chưa. Thực tế dạy học ở đơn vị, tôi nhận thấy
vẫn còn giáo viên dạy chưa chú ý nhiều đến tiết làm văn, chỉ giảng dạy theo gợi ý
bài học sách giáo khoa, chưa chú ý đến tiết trả bài tập (chỉ trả bài qua loa, đại khái
mà không chú ý đến thực hành sửa lỗi trong bài viết), chủ yếu dành thời gian nhiều
cho phần dạy tác phẩm văn chương để đảm bảo kiến thức giáo khoa cho học sinh.
Vì thế, nhiều học sinh khi bước lên lớp 11, 12 mà vẫn không ý thức được phải
trình bày một bài văn như thế nào.
4


Thực tế giảng dạy tại trường, tôi nhận thấy dù bài làm văn trong SGK có bài
tập để học sinh thực hành nhưng sai sót của HS trong bài làm văn của mình vẫn
nhiều vô kể. Những lỗi sai sót của học sinh thường gặp là:
Thứ nhất là sai sót ở khâu tìm hiểu đề. Tìm hiểu đề sai sẽ dẫn đến bài viết
lạc đề hoặc không xác định đúng trọng tâm của đề. Vẫn có nhiều HS không ý thức
việc tìm hiểu đề là quan trọng nên bỏ qua khâu này. Vì vậy khi làm bài các em
thường sa vào lối viết lam man, tùy tiện. Không tìm hiểu đề thấu đáo, HS dễ mắc
các lỗi: trình bày sai về nội dung, không đúng kiểu làm văn, hoặc dẫn chứng không
phù hợp với yêu cầu của đề.
Thứ hai là sai sót ở khâu lập dàn ý. Dàn ý là khâu lựa chọn và sắp xếp các
ý một cách hợp lí để phục vụ cho việc làm sáng tỏ luận đề. Lập dàn ý giúp học sinh
không bỏ sót ý, không lặp ý và tránh được tình trạng “đầu voi đuôi chuột” khi triển
khai ý. Việc lập dàn ý đảm bảo tính hệ thống, tạo nên sự liên kết thống nhất của bài
văn. Mặc dù bài tập làm văn trong sách giáo khoa dạng bài tập tìm ý và lập dàn ý
nhưng số lượng bài tập và sự phong phú của các các dạng bài tập lập dàn ý còn hạn
chế. Đa số học sinh khi viết văn thường có thói quen nghĩ đến đâu viết đến đó nên
các em thường sa vào các lỗi như lặp ý hoặc thiếu ý, ý chồng chéo, ý không đúng
trọng tâm.
Thứ ba là HS rơi vào lỗi hành văn - sai sót ở khâu diễn đạt và liên kết ý.
Trong đoạn văn của HS “Sách là một vật không thể thiếu trong tuổi học trò. Sách

là công cụ bán chạy nhất hiện nay, nhất là bán cho học sinh, những người già và
những phụ huynh mua về cho con em đọc.”, người đọc dễ dàng nhận thấy khả năng
sử dụng ngôn ngữ và diễn đạt của học sinh có vấn đề. Học sinh chưa có ý thức viết
đoạn, và diễn đạt ý. Vì vậy xây dựng các bài tập để rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng
Việt cho học sinh rất cần thiết. Các bài tập rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu, xây
dựng đoạn được thực hiện một cách có hệ thống sẽ giúp cho học sinh có ý thức
chú ý đến văn phong khi diễn đạt.
Cuối cùng là lỗi viết đoạn, xây dựng đoạn. Đoạn văn là một ý hoàn chỉnh
ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa. Mỗi đoạn văn trong văn bản
5


diễn đạt một ý, một luận điểm. Các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở
chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng
riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn
thân bài của văn bản (các đoạn thân bài triển khai chủ đề của văn bản), đoạn kết
thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó:
nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất
định. Trên thực tế, đa số học sinh lớp 10 vẫn chưa có ý thức viết một đoạn văn trọn
vẹn để hoàn thành một luận điểm trong bài văn của mình. Các lỗi thường gặp trong
việc xây dựng đoạn là: chưa biết cách viết đoạn mở bài và kết bài, không phân
đoạn trong phần thân bài, đoạn không thể hiện được câu chủ đề, đoạn chưa hoàn
chỉnh luận điểm.
Từ kết quả khảo sát trên, người viết đã đưa ra giải pháp là thiết kế các dạng
bài tập mang tính toàn diện và tính thực tiễn để cho học sinh lớp 10 thực hành. Giải
pháp này thay thế một phần giải pháp đã có, cũng đã được áp dụng tại các đơn vị
khác nhưng chưa từng được áp dụng tại đơn vị của mình. Tôi nhận thấy việc áp
dụng các bài tập này vào giảng dạy phân môn làm văn tại đơn vị đang công tác có
hiệu quả.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP

3.1. Xây dựng một số dạng bài tập sửa lỗi và rèn luyện kĩ năng làm văn cho
học sinh lớp 10
3.1.1. Dạng bài tập phân tích đề
Để rèn luyện kĩ năng tìm hiểu đề, với một văn bản văn chương, GV có thể ra
nhiều dạng đề khác nhau (tự sự, thuyết minh, hoặc nghị luận). Đặc biệt, đề văn
nghị luận lại rất đa dạng. Do đó, GV phải cung cấp cho học sinh nhiều dạng đề và
luyện tập khâu tìm hiểu đề càng nhiều càng tốt.
Khi tìm hiểu một đề văn, GV cần yêu cầu HS làm rõ ba yêu cầu của một đề
văn trong nhà trường: yêu cầu về nội dung; yêu cầu về hình thức và yêu cầu về
phạm vi tư liệu.
Một số kiểu bài tập đề xuất cho dạng bài tập phân tích đề như sau:
6


* Kiểu 1: Cho đề bài và yêu cầu học sinh tìm hiểu và phân tích đề theo ba
yêu cầu của việc tìm hiểu đề.
Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 không có bài tập cho khâu tìm hiểu đề. HS
không được thực hành dạng bài tập này trong chương trình chính khóa vì thế GV
phải linh hoạt trong quá trình giảng dạy giúp HS ý thức được bước đầu tiên khi bắt
đầu làm một bài văn. GV yêu cầu học sinh tìm hiểu đề theo trình tự: xác định yêu
cầu về nội dung, hình thức và phạm vi tư liệu. Chẳng hạn, GV cho bài tập:
Tìm hiểu và phân tích một số đề văn sau:
“Đề 1: Nhập vai nhân vật Tấm, anh/ chị hãy kể lại truyện cổ tích Tấm Cám.
Đề 2: Cảnh ngày hè thể hiện vẻ đẹp “tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình
yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân đân, đất nước”(SGK Ngữ Văn 10, trang 119).
Anh/ chị hãy chứng minh nhận định trên.
Đề 3: Giới thiệu về tác hại của rượu đối với đời sống con người.
Hãy:
- Xác định luận đề của từng đề.
- Xác định kiểu làm văn của các đề bài trên.

- Tìm phạm vi dẫn chứng cho từng đề bài.
Yêu cầu của kiểu bài tập này là HS phải xác định đúng luận đề (yêu cầu về
nội dung), đúng kiểu làm văn (yêu cầu về hình thức) và phạm vi dẫn chứng trên cơ
sở so sánh, đối chiếu để thấy được sự khác nhau của các dạng đề.
* Kiểu 2: Kiểu bài tập có nội dung phân tích đề sẳn, yêu cầu HS nhận
xét, sửa chữa và bổ sung.
Với kiểu bài tập này, GV có thể kết hợp với kiểu 1. GV cùng lúc cho 2 đề,
giao nhiệm vụ cho từng nhóm làm khâu tìm hiểu đề, sau 3 phút làm việc, các nhóm
trình bày sản phẩm lên bảng. Cuối cùng, GV hướng dẫn HS thực hiện kiểu 2 (Các
nhóm thay phiên nhau nhận xét phần tìm hiểu đề của nhóm bạn). Hoặc, GV cho
sẳn bài tập yêu cầu học sinh nhận xét và sửa chữa lại cho hợp lí.
Bài tập 1:
7


Với đề bài “Giới thiệu về lễ hội tết cổ truyền Việt Nam” có một bạn phân tích đề
như sau:
- Yêu cầu về hình thức: văn thuyết minh
- Yêu cầu về nội dung: Tết cổ truyền Việt Nam là một lễ hội gắn với truyền
thống văn hóa của dân tộc Việt Nam và tất cả các dân tộc khác trên thế giới.
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: không hạn chế, là những kiến thức về xã hội.
Trình bày ý kiến của anh/ chị về phần phân tích đề trên”.
Bài tập 2: Nhận xét bài làm của bạn X dưới đây, cho biết bạn X đã làm đúng
yêu cầu của đề hay không? Xác định lại yêu cầu của đề:
Đề: “Hãy phát biểu cảm nghĩ của anh/ chị về văn hóa đọc sách trong giới
trẻ hiện nay.” có bạn viết:
“Sách là một vật không thể thiếu trong tuổi học trò. Sách là công cụ bán
chạy nhất hiện nay, nhất là bán cho học sinh, những người già và những phụ
huynh mua về cho con em đọc.
Sách có hình chữ nhật và in rất nhiều trang giấy, có thể lên đến hàng ngàn

trang. Nhiều trang như vậy giúp cho người đọc say mê khi đọc sách. Sách có rất
nhiều loại như sách giải bài tập cho học sinh, sách giáo khoa, sách truyện và sách
học làm người, và cả những sách khoa học về các lĩnh vực.
Sách giúp ích cho chúng ta, giúp cho ta biết về lịch sử và cuộc sống của
người xưa, giúp học sinh tham khảo những bài toán khó, giúp ta biết được những
nơi ta chưa đến, giúp ta khám phá cuộc sống muôn loài…Ta nên mua nhiều sách
để đọc để biết thêm nhiều kiến thức.” (HS Trần Trường Lâm- 10A13)
(Ở bài làm trên, HS không xác định được yêu cầu của đề nên sa vào lối văn thuyết
minh. Khi bài viết không xác định đúng yêu cầu của đề thì sẽ dẫn đến lạc đề khi
triển khai ý.)
Kiểu bài tập này yêu cầu học sinh phải tìm ra và sửa chữa những sai sót trong
ngữ liệu, qua đó giúp học sinh hình thành kĩ năng phát hiện và phân tích vấn đề.
8


Nó giúp học sinh tránh việc đọc đề qua loa, đại khái để dẫn đến hậu quả là làm lạc
đề.
3.1.2. Dạng bài tập rèn luyện kĩ năng tìm ý và lập dàn ý
Với dạng bài tập lập dàn ý, sách giáo khoa thường có kiểu bài tập đưa ra yêu
cầu trực tiếp kiểu như: Hãy lập dàn ý cho đề văn sau đây: “Sách mở rông trước
mắt tôi những chân trời mới” (M. Go-rơ- ki). Hãy giải thích và bình luận ý kiến
trên. Ngoài kiểu yêu cầu trực tiếp, GV nên xây dựng thêm dạng bài tập yêu cầu HS
đánh giá và sửa lỗi trong dàn ý cho sẳn từ bài làm của chính các em.
Yêu cầu của kiểu bài tập này là: Anh/ chị hãy xem xét và tìm ra sai sót? Bổ
sung ý cho hoàn chỉnh dàn ý dưới đây.
Ví dụ: Dự định viết bài văn nghị luận cho đề bài: “Trả lời con gái, Mark
khẳng định: “Hạnh phúc là đấu tranh”. Câu trả lời ấy khiến anh/ chị nghĩ gì về
cuộc đấu tranh không khoan nhượng để giành hạnh phúc của nhân vật Tấm
trong truyện Tấm Cám.” một bạn lập dàn ý như sau:
Mở bài: Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám.

Thân bài:
- Cuộc đấu tranh giành hạnh phúc của Tấm qua các chi tiết:
+ Bụt giúp Tấm có hạnh phúc mỗi khi Tấm bị mẹ con Cám ức hiếp.
+ Sự biến hóa kì diệu: mỗi lần bị mẹ con Cám tiêu diệt sự sống, Tấm không
chịu khuất phục trước cái ác, cái xấu xa. Tấm vươn lên kiên cường đấu tranh
giành sự sống qua các lần hóa thân: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả
thị, và trở lại làm người.
+ Hành động trả thù của Tấm thể hiện thái độ, tinh thần đấu tranh quyết liệt
không khoan nhượng cái xấu và cái ác.
- Bài học nhận thức: muốn có hạnh phúc thật sự thì chúng ta phải biết đấu
tranh với cái ác và cái xấu.
- Giải thích khái niệm: “Hạnh phúc là đấu tranh.”
9


Kết bài: Đánh giá về nhân vật Tấm.
Cũng với đề bài đó, bạn khác lại có dàn ý:
Mở bài: Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám và câu nói của Mark.
Thân bài:
- Giải thích ý nghĩa của câu nói “Hạnh phúc là đấu tranh.”
- Chứng minh cuộc đấu tranh giành hạnh phúc của Tấm qua chi tiết: Sự
biến hóa kì diệu: mỗi lần bị mẹ con Cám tiêu diệt sự sống, Tấm không chịu khuất
phục trước cái ác, cái xấu xa. Tấm vươn lên kiên cường đấu tranh giành sự sống
qua các lần hóa thân: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, và trở lại
làm người. Sự trỗi dậy của Tấm thể hiện niềm tin bất diệt: cái thiện thắng cái ác.
Kết bài: Đánh giá về nhân vật Tấm và bài học nhận thức là muốn có hạnh
phúc thì phải kiên quyết đấu tranh với cái ác và cái xấu.
Xem xét cả 2 dàn ý, anh, chị sẽ chọn dàn ý nào? Vì sao?
Với bài tập trên, HS sẽ tiến hành suy luận và chọn ý đúng từ 2 dàn ý và hoàn
thiện dàn ý đúng nhất cho đề bài. Thực hiện tốt kiểu bài tập này học sinh sẽ có kĩ

năng phân tích, biết cân nhắc cẩn thận trước khi làm bài. Học sinh phải nhận thức
được rằng dàn ý hay là một dàn ý có đủ ý và các ý phải được sắp xếp theo một trật
tự logic.
3.1.3. Dạng bài tập rèn luyện kĩ năng diễn đạt ý
* Kiểu bài tập 1: Chọn 1 vài đoạn văn của học sinh, yêu cầu học sinh chỉ
ra lỗi và sửa lỗi, viết lại cho đúng.
Bài tập 1: Trong đề văn: “Truyện An Dương Vương, Mỵ Châu- Trọng Thủy là
một cách lí giải nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Qua đó, nhân dân ta muốn nêu lên
bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ
giữa riêng và chung giữa cá nhân và cộng đồng.” Chứng minh nhận định trên. Có
2 bạn viết như sau:
“1. Từ truyện An Dương Vương- Mỵ Châu- Trọng Thủy là một cách lí giải nguyên
nhân mất nước Âu Lạc. Qua đó nhân dân ta muốn nêu lên bài học lịch sử về tinh
10


thần cảnh giác kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung
giữa cá nhân và cộng đồng.
Những sai lầm dẫn đến bi kịch mất nước nhà tan.
Do An Dương Vương cả tin, gả con gái mình cho giặc (Triệu Đà) và bắt rể. Ít lâu
sau quân Đà tiến vào đánh nhưng vua khinh địch vẫn than nhiên đánh cờ.”
(Nguyễn Thị Ánh Trinh 10A13)
“2. Truyền thuyết An Dương Vương người cha sai lầm tin tưởng làm hòa với nước
Triệu Đà và gả con gái mình là Mỵ Châu cho con trai ông là Trọng Thủy và đưa
về nhà ở rể. Mỵ Châu rất yêu thương Trọng Thủy và nàng đã cho Trọng Thủy xem
nỏ thần của nước Âu Lạc, xem xong Trọng Thủy nghĩ là minh qua đây xem bí mật
của nước Âu Lạc và chàng đã nói dối Mỵ Châu cha chàng bị bệnh chàng phải về
thăm cha, nếu về chàng quay lại mà không thấy nàng chàng phải biết tìm nàng ở
đâu, Mị Châu nói thiếp có áo lông ngỗng đi tới đâu thiếp sẽ rắc lông ngỗng tới đó.
Sau khi nói xong mị Châu và Trọng Thủy phải rời khỏi nhau.” (Nguyễn Thị Kiều

Trang – 10A13)
Hãy chỉ ra lỗi diễn đạt trong bài làm trên.”
Bài tập 2. Hãy chỉ ra lỗi diễn đạt trong bài làm văn dưới đây:
“Mở đầu Nguyễn Du giới thiệu và nói chung về Tây Hồ. Ngày xưa là cảnh đẹp nay
đã hóa gò hoang. Nguyễn Du đã dùng hình ảnh so sánh xưa và nay, đẹp và xấu để
gây mâu thuẫn, đối lập về cảnh vât…” (Lê Thị Thùy Trinh- 10A13)
Kiểu bài tập này sẽ giúp cho học sinh tự rút kinh nghiệm sau bài làm của
mình hoặc của các bạn. Từ việc sửa lỗi các em sẽ có ý thức hơn trong việc chọn
lọc từ ngữ, diễn đạt ý. Yêu cầu giáo viên khi sửa kiểu bài tập này phải chỉ rõ cho
các em thấy những lỗi diễn đạt thường gặp như dùng tư sai, viết hoa chưa đúng
quy tắc hoặc sai về ngữ pháp.
* Kiểu bài tập 2: Bài tập điền khuyết
Đây là kiểu bài tập yêu cầu học sinh tìm những từ ngữ liên kết thích hợp để
điền vào chổ trống trong văn bản. Yêu cầu của kiểu bài tập này là GV chọn văn
bản ngắn (có thể một hoặc 2 đoạn), có thể cho sẳn từ ngữ liên kết.
Ví dụ: Hãy điền vào [..]những từ ngữ thích hợp trong đoạn văn sau:
11


“Đỗ Phủ sáng tác bài Cảm xúc mùa thu vào năm 766. […] là thời điểm triều
đại nhà Đường vừa thoát khỏi nạn An Lộc Sơn- Sử Tư Minh được 3 năm. […] bốn
năm sau khi bài thơ ra đời, Đỗ Phủ mất trong cảnh khốn đốn […] đói nghèo[…]
day dứt về tinh thần nơi đất khách.” (Dạy học văn học nước ngoài 10)
Kiểu bài tập này yêu cầu GV chọn những đoạn văn ngắn và để khuyết những
từ có chức năng liên kết, các giới từ, đại từ hoặc dấu câu… Học sinh làm nhiều bài
tập kiểu này sẽ hình thành kĩ năng diễn đạt ý trôi chảy, ý thức sử dụng phép liên
kết để diễn đạt ý, hoặc ý thức sử dụng dấu câu.
3.1.4. Dạng bài tập rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn
Một bài làm văn hoàn chỉnh thường có nhiều đoạn. Mỗi đoạn có một chức
năng khác nhau. GV cần xây dựng bài tập đa dạng. Qua các bài tập, HS biết phân

biệt được đoạn mở bài, đoạn kết luận; đoạn văn tự sự, đoạn bình luận, đoạn phân
tích…; đoạn trình bày hoàn cảnh sáng tác, đoạn tóm tắt truyện…. Dưới đây là một
số kiểu bài tập rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn:
* Kiểu bài tập viết đoạn văn theo gợi ý. GV cho những ý cơ bản yêu cầu
HS liên kết các ý thành đoạn văn hoàn chỉnh về nội dung và đúng về hình thức
hoặc cho câu chủ đề trước yêu cầu học sinh viết đoạn văn theo kiểu quy nạp, diễn
dịch để làm sáng rõ ý câu chủ đề.
Ví dụ:
a/ Viết đoạn trình bày hoàn cảnh sáng tác:
Bài tập: Viết đoạn trình bày hoàn cảnh sáng tác tác phẩm “Đại cáo bình
Ngô” của Nguyễn Trãi dựa trên những ý dưới đây:
- Sau 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt, tháng 1 năm 1428, nhân dân ta
dưới ngọn cờ của Lê Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước .
- Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế.
Nguyễn Trãi thay mặt nhà vua viết Đại cáo bình Ngô.
- Mục đích: tuyên bố cho toàn dân biết rõ công cuộc cứu nước, trải qua nhiều nguy
nan đã thắng lợi.
- Từ đây dân tộc bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hoà bình, thông nhất.”
12


b/ Viết đoạn mở bài hoặc kết luận: Nhiều học sinh gặp khó khăn khi viết
mở bài hoặc kết luận nên việc cho bài tập viết đoạn mở bài và kết luận là cần thiết.
Bài tập: Hãy dựa trên các ý sau viết đoạn mở bài cho đề văn: Phân tích vẻ
đẹp của hình tượng người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”
(trích Truyện Kiều- Nguyễn Du).
- Giới thiệu khái quát tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều(là đại thi
hào dân tộc, là nhà thơ nhân đạo, có tư tưởng tiến bộ thế kỉ XVIII; Truyện
Kiều là đỉnh cao nghệ thuật trong sáng tạo của Nguyễn Du);
- Giới thiệu khái quát về hình tượng nhân vật Từ Hải và đoạn trích (Từ Hải là

nơi Nguyễn Du gửi gắm khát vọng tự do và công lí; đoạn trích thể hiện vẻ
đẹp của Từ Hải trong buổi lên đường).
c/ Viết đoạn thân bài triển khai ý theo câu chủ đề: Bài tập này, GV có thể
yêu cầu HS viết đoạn diễn dịch, quy nạp hay tổng phân hợp; có sử dụng phép liên
kết phù hợp (phép lặp, phép nối, phép thế, phép liên tưởng…)
Bài tập: “Viết đoạn văn quy nạp triển khai luận điểm sau: “Hành động đốt đền tà
chứng tỏ Ngô Tử Văn là người cương trực, khẳng khái, chính nghĩa.” Theo một số
gợi ý sau:
- Trước khi đốt đền Tử Văn có những hành động gì?
- Hành động đó nói lên được điều gì?”
Viết đọan theo gợi ý là kiểu bài dễ vì HS được cho trước nội dung. HS chỉ
thực hiện cộng đoạn sắp xếp, liên kết ý và hoàn thiện đoạn văn theo đúng yêu cầu
của một đoạn văn. Chính vì thế, kiểu bài tập này sẽ rèn luyện cho HS kĩ năng diễn
đạt vì khi HS viết đoạn mà không quá mất thời gian để tìm ý thì HS sẽ chú ý đến
khâu diễn đạt là một tất yếu.
* Kiểu bài tập sửa lỗi viết đoạn
GV chọn một đoạn văn có sai sót về nội dung và hình thức hoặc chọn bài làm
của chính học sinh trong lớp/ trường và yêu cầu HS sửa lỗi trong đoạn văn cho phù
hợp.
Ví dụ:
13


Bài tập: Xác định câu chủ đề và sửa đoạn văn dưới đây để đảm bảo tính
mạch lạc:
“Trước khi đập phá đền, Tử Văn tắm rửa sạch sẽ, khấn trời và bắt đầu đốt
đền. Tử Văn ý thức được việc làm chính nghĩa của mình, với tinh thần trừ gian diệt
ác, không sợ hậu quả sẽ đến với mình. Sau khi đốt xong Tử Văn trở về, thấy trong
người bắt đầu khó chịu và kéo đến một cơn sốt. Tử Văn thấy hồn ma đến đoe dọa
mình, không chút sợ sệt, vẫn ngồi thản nhiên, chứng tỏ Tử Văn rất dũng cảm, gan

dạ, làm cho con ma tức giận bỏ đi. Tiếp đến, thổ công đến ủng hộ Tử Văn. Tử Văn
và con ma cùng xuống minh ti, dù bao nhiêu ma quái nhưng Tử Văn vẫn không
sợ…” (Nguyễn Ngọc Thúy Vy- 10b2, năm học 2013- 2014).
Kiểu bài tập sửa lỗi viết đoạn từ thực tế bài làm của mình, học sinh sẽ có
hứng thú trong giờ thực hành văn. Bài học mang tính thực tế giúp các em nhận
thức được chính nhũng thiếu sót của mình (hoặc bạn) từ đó các em sẽ có ý thức
khắc phục từ chính thực tế đó.
* Kiểu bài tập phân tích đoạn văn
Dạng bài tập này, GV cho sẳn đoạn văn mẫu và yêu cầu học sinh phân tích
tính thống nhất, chặt chẽ của đoạn văn.
Ví dụ:
Xác định câu chủ đề và kiểu đoạn văn và phân tích tính thống nhất (nội dung và
hình thức) của đoạn văn sau:
“Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn(Ngô Tử Văn) còn thể hiện
rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ
hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh,
bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan
giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không
hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Khi
đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc
bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chững không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh
thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không
14


chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến
cùng. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn
được sự sống của mình, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách
nhiệm giữ gìn bảo vệ công lí. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có nghĩa vô cùng to
lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuất,

phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.”
Để làm được dạng bài tập này, GV cần phải cung cấp kiến thức về đoạn văn
cho học sinh. Hiệu quả của các kiểu bài tập phân tích đoạn là học sinh nhận thức
được một cách có ý thức về đoạn văn, xác định được nội dung chính của đoạn,
nhận thức tầm quan trong trong việc liên kết ý của các phép liên kết.
3.2. Định hướng thực hiện các dạng bài tập bằng những phương pháp dạy học
tích cực
Để tiến hành giảng dạy, rèn luyện năng lực làm văn cho HS dựa trên hệ thống
các bài tập đã đề xuất, GV cần phải lựa chọn các phương pháp phù hợp. Nếu
không linh hoạt và lựa chọn phương pháp phù hợp, HS sẽ không có hứng thú và
hiệu quả đạt được sẽ không như mong muốn.
Dưới đây là một số các phương pháp được đề xuất khi tiến hành giảng dạy
cho hệ các dạng bài tập này
* Phương pháp phát vấn
Phát vấn là phương pháp mà trong đó GV đưa ra những câu hỏi hay bài tập để
HS suy nghĩ và trả lời. Các câu hỏi/ bài tập thường được chuẩn bị và cân nhắc kỹ.
Người dạy có thể tổ chức, dẫn dắt người học từ chỗ đọc bài tập để trả lời, tiến đến
thảo luận hoặc ở mức cao hơn nữa là tranh luận.
Đối với các kiểu bài tập thuộc dạng bài tập phân tích đề, hoặc một số bài tập
sửa lỗi ngắn, điền khuyết…, GV nên chủ động cho HS làm việc cá nhân. Vì đây là
dạng bài tập phát hiện, không đòi hỏi kĩ năng diễn đạt cao. Phương pháp phát vấn
sẽ phát huy được hiệu quả khi GV hướng dẫn HS làm bài tập dạng này.
Để thực hiện tốt phương pháp này, giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài tập với các
mức độ khó, dễ, vừa phải khác nhau để hướng tới các đối tượng học sinh có trình
15


độ: giỏi, khá, TB hoặc yếu kém đảm bảo mọi học sinh trong lớp phải trả lời được
và tìm ra kiến thức cho chính mình.
* Phương pháp thảo luận nhóm

Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học tích cực tạo được sự tham gia của
nhiều học sinh. Đây là phương pháp rất phù hợp để áp dụng cho việc làm bài tập
trong phân môn làm văn nói chung và cho các dạng bài tập mà bài viết này đưa ra
nói riêng. Thảo luận nhóm sẽ giúp việc thực hiện bài tập tại lớp đảm bảo thời gian,
đồng thời HS được tham gia, chia sẻ ý kiến trên tinh thần học hỏi lẫn nhau và dân
chủ. Nhóm làm việc tích cực là nhóm trung bình từ 4 đến 6 học sinh. Việc phân
nhóm để giải quyết các bài tập làm văn dựa trên thực tế bài làm của chính các em
nên GV cần phân nhóm có chủ định và duy trì ổn định. Nhóm phải có học sinh
khá, giỏi bộ môn làm nhóm trưởng, có thư kí và có người đại diện để trình bày.
Phân nhóm theo sự ngẫu nhiên sẽ không đạt được hiệu quả tích cực trong việc giải
quyết các dạng bài tập làm văn như đề xuất.
Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng để HS cùng nhau giải quyết các
dạng bài tập khó như dạng bài tập lập dàn ý (kiểu bài tập lập dàn ý và sửa dàn ý có
vấn đề), các kiểu bài tập trong dạng diễn đạt ý, xây dựng đoạn.
Khi tiến hành, GV nên cho nhiều kiểu bài tập cùng một lúc và cho HS tiến
hành thảo luận, sau đó trình bày ý kiến. Khi HS đại diện nhóm tiến hành sửa bài
tập, các nhóm khác bổ sung, phát biểu. Trong quá trình thảo luận, GV phải quan
sát, điều chỉnh chỗ ngồi, nhắc nhở hay hộ trợ khi có nhóm cần tư vấn.
* Phương pháp dạy học theo dự án
Mục tiêu cuối cùng của bài tập làm văn là rèn luyện năng lực phân tích, tư
duy và sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt tình ý trong một đề văn, từ đó vận dụng các
kĩ năng ấy trong đời sống. Có thể nói đây là mục tiêu chủ yếu mà dạy và học bộ
môn văn hướng đến.
“Dạy học theo dự án là phương pháp học tập mang tính xây dựng. Trong đó,
HS hoàn toàn chủ động tham gia hoạt động dưới sự hướng dẫn của GV để tạo một
sản phẩm hay vận dụng các kiến thức đã học để tìm hiểu, thực hành, nghiên cứu
16


một vấn đề trong học tập hay giải quyết một vấn đề trong cuộc sống.”(Tài liệu tập

huấn, tr70) Phương pháp này cần có tinh thần cộng tác làm việc của nhóm để tạo ra
một sản phẩm hoàn chỉnh.
Để tiến hành phương pháp này, GV phải định hướng đề tài (ra bài tập cho
HS), giúp HS xây dựng đề cương, kế hoạch, tự thu thập kết quả. Qua một thời gian
làm việc nhóm, HS sẽ công bố kết quả. GV thẩm định và đánh giá bằng nhận xét
hoặc điểm số.
Dạng bài tập làm văn theo phương pháp này thường là sự tổng hợp các dạng
bài tập từ phân tích đề đến lập dàn ý và diễn đạt ý. Dự án mà GV giao cho HS là
một bài tập tổng hợp các dạng bài tập (trong mỗi dạng có thể bao hàm nhiều kiểu
bài tập khác nhau).
* Bảng mô tả việc vận dụng phương pháp thực hiện cho một số dạng bài
tập mà bài viết đề xuất
Phương pháp

Dạng bài tập/ bài tập mẫu

Tiến trình thực hiện

thực hiện
hương pháp
phát vấn

Dạng bài tập phân tích đề

GV đặt câu hỏi phát

Bài tập 1 “Giới thiệu về lễ hội tết cổ vấn:
truyền Việt Nam” có một bạn phân tích Đề 1:
đề như sau:
Yêu cầu về hình thức: văn thuyết minh


- GV phát vấn: “Em
hãy cho biết, phần
phân tích đề trên đúng

Yêu cầu về nội dung: Tết cổ truyền Việt hay sai, vì sao, nếu sai
Nam là một lễ hội gắn với truyền thống thì sửa lại như thế
văn hóa của dân tộc Việt Nam và tất cả nào?”
các dân tộc khác trên thế giới.
- HS trả lời theo câu
Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: không hỏi mà GV phát vấn.
hạn chế, là những kiến thức về xã hội.
Trình bày ý kiến của anh/ chị về phần Đề 2:
- GV yêu cầu HS đọc
17


phân tích đề trên”.

và trả lời theo yêu cầu

Bài tập 2: Với đề văn : Suy nghĩ của của bài tập.
anh/ chị về hiện tượng nghiện Facebook - HS làm bài tập tại
đối với giới trẻ hiện nay.

lớp

Anh/ chị hãy:

(Lưu ý: nếu HS trả lời


- Xác định luận đề của từng đề.

chưa chính xác thì các

- Xác định kiểu làm văn của các đề

bạn khác bổ sung, có

bài trên.
- Tìm phạm vi dẫn chứng cho đề

thể tranh luận ý kiến
cho đến khi hoàn
thiện)

bài.

Phương pháp Dạng bài tập tìm ý và lập dàn ý hoặc - GV chia lớp thành 6
thảo luận
nhóm

diễn đạt ý

nhóm, mỗi nhóm 5-6

Trong đề văn: “Truyện An Dương học sinh, 2 nhóm làm
Vương- Mỵ Châu- Trọng Thủy là một bài tập 1 và 2 nhóm
cách lí giải nguyên nhân mất nước Âu làm bài tập 2, 2 nhóm
Lạc. Qua đó nhân dân ta muốn nêu lên làm bài tập 3.

bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác kẻ - GV phát phiếu bài
thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ tập cho mỗi nhóm
giữa riêng và chung giữa cá nhân và theo nhiệm vụ được
cộng đồng.” Chứng minh nhận định trên. phân công
Bài tập 1: Lập dàn ý cho đề văn trên.

- HS tiến hành thảo

Bài tập 2: Viết đoạn văn mở bài cho đề luận trong 5-7 phút,
sau đó cử đại diện lên
văn trên theo gợi ý:
An trình bày.
Dương Vương và Mỵ Châu- Trọng ( Lưu ý: Khi học sinh

- Giới thiệu truyền thuyết
Thủy;
- Giới thiệu luận đề.

trình bày, các nhóm
khác bổ sung, và sửa

Bài tập 3: Khi làm bài có bạn viết như lỗi; cuối cùng GV
định hướng.)
sau:
18


“ Từ truyện An Dương Vương- Mỵ
Châu- Trọng Thủy là một cách lí giải
nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Qua đó

nhân dân ta muốn nêu lên bài học lịch sử
về tinh thần cảnh giác kẻ thù và cách xử
lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và
chung giữa cá nhân và cộng đồng.
Những sai lầm dẫn đến bi kịch mất nước
nhà tan.
Do An Dương Vương cả tin, gả con gái
mình cho giặc (Triệu Đà) và bắt rể. Ít
lâu sau quân Đà tiến vào đánh nhưng
vua khinh địch vẫn than nhiên đánh cờ.”
(Nguyễn Thị Ánh Trinh 10A13) Hãy chỉ
ra lỗi diễn đạt trong bài làm trên.
Phương pháp Tổng hợp các dạng bài tập (phân tích - GV chia lớp thành 4
dạy học theo

đề, tìm ý, diễn đạt ý và xây dựng đoạn) tổ, yêu cầu HS về nhà

dự án

Viết một bài báo cáo gồm 5- 7 trang A4 đọc lại bài văn của các
trình bày những nhận thức của anh/ chị thành viên trong tổ

(phương
pháp này
phải được

sau khi đọc lại bài làm văn của các thành (lưu ý: các bài văn đã
viên trong tổ/ lớp bài viết số 5 với đề được GV chấm điểm

tiến hành sau văn: “Viết một văn bản giới thiệu về tác có nhận xét, có sửa

khi học sinh phẩm Phú sông Bạch Đằng của tác giả chữa trong bài)
- GV gợi ý
thực hành các Trương Hán Siêu”.
dạng bài tập
khác)

Qua đó, anh/ chị hãy đề xuất một dàn ý
và bài viết mẫu cho đề bài.

+ Xác định trong các
bài làm của bạn, GV
nhận xét có đúng yêu

( Bài làm sẽ được học sinh tiến hành cầu đề hay không, nếu
trong 2 tuần, nộp lại cho GV, GV lấy không vì sao?
điểm 15 phút cho nhóm)

+ Thống kê:
19


(?) Có bao nhiêu bài
làm không đúng yêu
cầu của đề.
(?) Bao nhiêu bài bị
sửa lỗi diễn đạt, chủ
yếu là những lỗi diễn
đạt nào?
(?) Bao nhiêu bài điểm
dưới trung bình, bao

nhiêu bài điểm từ 5- 6,
7-8, 9-10?
+ Đưa ra nhận định
chung và đề xuất ý
kiến của nhóm về bài
làm văn của HS nhìn
trên tổng thể.
+ Đề xuất một dàn ý
khái quát và viết một
bài văn mẫu cho đề
văn trên.
- HS lập dự án và lên
kế hoạch (phân công
nhiệm vụ và tiến hành
theo thời gian quy
định)
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
1. Trong quá trình tìm kiếm phương pháp tối ưu, tôi đã tiến hành so sánh kết
quả giảng dạy năm 2012- 2013, qua bài kiểm tra trên lớp. Một lớp tiến hành thực
nghiệm(TN) theo phương pháp này, và một lớp dạy thông thường (chỉ giảng dạy
các bước và các bài tập SGK), kết quả so sánh như sau:
20


So sánh kết quả thực nghiệm ở 2 lớp HS khối 10 năm học 2013- 2014: 10A2
(lớp chọn đầu vào) và 10B2 (lớp cơ bản) bài kiểm tra số 5 đầu học kì II (điều kiện
ban đầu thống kê kết quả bài viết số 5, bài kiểm tra chung toàn trường, hoàn toàn
chưa tiến hành thực nghiệm) và điểm bài kiểm tra học kì II. Trong đó, lớp 10A2
chỉ giảng dạy theo hệ thống bài tập sách giáo khoa không áp dụng hệ thống bài tập
sửa lỗi và rèn luyện kĩ năng, lớp 10B2 có tiến hành thực nghiệm.

Lớp

Số học sinh

Điểm trung bình Điểm trung bình
Bài viết số 5

Bài thi học kì

10B2

32

123 = 3.84%

189 = 5.90%

10A2

37

228.5 = 6.17%

232.5 = 6.28%

Sau khi thống kê kết quả học tập của học sinh, qua một thời gian tiến hành thực
nghiệm trong tiết học tự chọn, tiết làm văn và giờ học phụ đạo điểm số trong bài
làm văn của học sinh lớp có tiến hành thực nghiệm tăng lên đáng kể (điểm trung
bình từ 3,8% lên 5,9%), các em khắc phục được sai sót trong bài làm văn của
mình.

So sánh kết quả thực nghiệm của lớp 10A13 (năm học 2014- 2015)dựa trên bài
làm văn số 1 và bài kiểm tra học kì I, kết quả thống kê như sau:
Lớp

Số

10A13

HS

Điểm/ số HS đạt điểm
1

2

3

4

5

6

7

Điểm
8

9


10

trung
bình

Bài làm

37

1

2

7

12

12

1

2

0

0

0

4.11


0

0

5

3

12

10

5

1

1

0

5.41

văn số 1
Bài thi
học kì I
Kết quả khảo sát cho thấy kết quả thực nghiệm rất khả quan, có thể ứng dụng
trong giảng dạy phần làm văn, đặc biệt là trong tiết học tự chọn và giờ phụ đạo.

21



V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Trên đây là những dạng bài tập làm văn được xây dựng trong quá trình giảng
dạy dựa trên thực tế viết văn của học HS 10. Năng lực làm văn là năng lực tổng
hợp dựa trên quá trình rèn luyện những năng lực khác như đọc hiểu, phân tích,
tổng hợp, năng lực sử dụng ngôn ngữ… Các dạng bài tập nhỏ mang tính hệ thống
trên đây sẽ hình thành cho các em những kĩ năng cần thiết để áp dụng khi tiến hành
làm một bài tập làm văn hoàn chỉnh. Lớp 10 là lớp đầu cấp THPT nên HS chưa
được bổ sung đầy đủ kiến thức làm văn, vì thế các em có rất nhiều sai sót khi làm
bài tập làm văn. Thiết nghĩ việc thiết kế những dạng bài tập bổ trợ kiến thức dựa
trên chính những lỗi mà các em mắc phải là điều cần thiết.
Trong quá trình xây dựng hệ thống bài tập hổ trợ kiến thức thực hành làm văn,
người viết cũng đề xuất một số phương pháp dạy học tích cực phù hợp với từng
dạng bài tập nhằm kích thích hứng thú ở học sinh, đồng thời rèn luyện cho HS các
kĩ năng sống cần thiết như kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng tư duy, kĩ năng phân
tích, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, kĩ năng lập dự án….để các em dễ hòa nhập với
cuộc sống hôm nay.
Để HS giải quyết tốt các dạng bài tập này và hình thành được các kĩ năng cần
thiết khi làm văn thì GV phải xây dựng được nhiều bài tập. Đồng thời, GV phải
chuẩn bị các phiếu học tập hoặc sử dụng công nghệ thông tin trình chiếu các bài
tập dài để đảm bào được thời gian.
Tuy nhiên làm thế nào để có đủ thời gian trong khi phân phối chương trình
không có bài học là điều người viết còn băn khoăn. Nhưng với chủ trương dạy học
theo định hướng năng lực thì việc xây dựng thêm các bài tập giúp HS rèn luyện
năng lực làm văn thì không phải là thừa.

22



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Lê Huy Bắc (2006), Dạy – học văn học nước ngoài Ngữ Văn 10, NXB Giáo
dục.

2.

Bộ Giáo dục và đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn: Dạy học và kiểm tra đánh
giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ
Văn, Chương trình Phát triển giáo dục.

3.

Bộ Giáo dục và đào tạo (2010), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng
môn Ngữ văn 10, NXB Giáo dục Việt Nam.

4.

Trần Thanh Bình (1983), “Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ học và môn học
tiếng Việt- làm văn”, Đại học và THCN, số 4.

5.

Nguyễn Văn Cường (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp

dạy học ở trường trung học phổ thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
6.

Phan Trọng Luận (chủ biên) (2006), Ngữ văn 10 (tập 1, 2), NXB Giáo dục.


23



×