Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

skkn sử DỤNG văn bản THƠ LIÊN QUAN để hỗ TRỢ đọc HIỂU, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRONG dạy học NGỮ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.72 KB, 44 trang )

SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT THỐNG NHẤT
------------------Mã số:……………….

SẢN PHẨM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI
SỬ DỤNG VĂN BẢN THƠ LIÊN QUAN ĐỂ HỖ TRỢ ĐỌC HIỂU,
KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN THPT
Thực hiện : NGUYỄN HIẾU

Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục:
Phương pháp dạy học bộ môn:
Phương pháp giáo dục:
Lĩnh vực khác






Có đính kèm :
 Mô hình

Phần mềm


Phim ảnh  Hiện vật khác

Năm học: 2015-2016

Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I/THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1.
Họ và tên : NGUYỄN HIẾU
2.
Ngày tháng năm sinh : 08- 03 - 1968
3.
Nam, nữ: Nam
4.
Địa chỉ: Trường THPT Thống Nhất , Huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng
Nai
5.
Điện thoại : 3867623 (CQ), 01223745614 (DĐ)
6.
Fax: Không
E-mail:
7.

Chức vụ: Giáo viên
8.
Đơn vị công tác: Trường THPT Thống Nhất .
II/ TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 1989
- Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn .
III/KINH NGHIỆM KHOA HỌC:
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm : Giảng dạy Ngữ văn
- Số năm có kinh nghiệm : 26
- Các đề tài khoa học và sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+Thiết kế web hỗ trợ Dạy học Ngữ Văn 9 theo chuẩn KTKN (năm 2011)
+Thiết kế web hỗ trợ Dạy học Ngữ Văn 12 theo chuẩn KTKN - Tập II
(năm 2012) .
+Một số mô hình tạo sân chơi lành mạnh cho học sinh THPT góp phần
thực hiện Phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường ( năm 2013).
+Thiết kế web hỗ trợ Dạy học Ngữ Văn 11 theo chuẩn KTKN - Tập I
(năm 2014) .
+Một vài mô hình giới thiệu gương sáng trong phong trào “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (năm 2015).

Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


THUYẾT MINH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG VĂN BẢN THƠ LIÊN QUAN ĐỂ HỖ TRỢ ĐỌC HIỂU, KIỂM TRA
ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN THPT
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông luôn luôn thu hút sự quan tâm của
xã hội. Môn Ngữ văn chiếm vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục quốc dân và
phát triển dân trí nước nhà. Tuy nhiên, thực tế dạy học, chất lượng của bộ môn, chất
lượng thi cử hiện nay vẫn còn nhiều điều đáng bàn. Không ít giáo viên còn bỡ ngỡ,
lúng túng khi đối diện với việc đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới ra đề, kiểm
tra đánh giá.
Văn học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con người hóa thân
và thăng hoa. Tiếp nhận văn học tức là đọc hiểu để biến văn bản thành một thế giới
hình tượng sinh động và nắm bắt được ý nghĩa của nó. Học sinh không những hiểu
mà còn cảm được văn chương, nhất là những văn bản nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ
cao đã được tuyển chọn đưa vào giảng dạy ở chương trình Ngữ Văn THPT. Ngoài ra,
học sinh còn biết vận dụng những kiến thức đã học để xử lí các tình huống thực tế đời
sống vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp. Để làm được điều này, đòi hỏi khả
năng nhiều mặt của người dạy trong việc giúp người học khám phá thế giới văn học
bao la, rộng lớn; nhận diện được tất cả các văn bản trong đời sống.
Đứng trước chủ trương của Bộ Giáo Dục –Đào tạo là đổi mới cách ra đề môn
Ngữ văn trong những năm gần đây, giáo viên phải thực hiện đổi mới phương pháp
giảng dạy. Không còn cách gọi Giảng văn mà là đọc văn. Không còn dạy đọc-chép,
học thuộc lòng, học vẹt mà không hiểu gì cả. Thay vào đó là cách dạy đọc hiểu mọi
văn bản và tất cả phong cách ngôn ngữ văn bản. Học sinh khi nắm được phương pháp
làm bài đọc hiểu, sẽ tiếp cận và xử lí tất cả văn bản trong cũng như ngoài chương
trình. Trong quá trình giảng dạy, để giúp học sinh dễ tiếp thu, dễ hiểu văn bản, tôi đã
sử dụng những bài thơ viết về lịch sử văn học, về tác gia, về những chi tiết đặc sắc
trong truyện ngắn có trong chương trình Ngữ văn THPT… nhằm làm mềm hoá, đa
dạng hoá cái nhìn về văn bản đọc hiểu. Đồng thời, tôi cũng vận dụng những bài thơ
đó để làm ngữ liệu trong đề kiểm tra.

Từ lí do trên, tôi xin chọn đề tài “Sử dụng văn bản thơ liên quan để hỗ trợ
đọc hiểu, kiểm tra đánh giá trong dạy học Ngữ văn Trung học phổ thông” cho sáng
kiến kinh nghiệm của mình như niềm say mê và cũng là một thử thách, hướng tìm tòi
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học của bản thân, hi vọng góp phần nhỏ bé vào công
cuộc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
II/- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
1. Cơ sở lý luận
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

- Công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ GDTH năm học 2015-2016 của Bộ
GD-ĐT đã chỉ đạo: tăng cường các hoạt động thực hành vận dụng kiến thức đã học
vào thực tiễn, chú trọng giáo dục đạo đức/giá trị sống, rèn luyện kĩ năng sống, hiểu
biết xã hội cho học sinh; điều chỉnh nội dung và yêu cầu các môn học và các hoạt
động giáo dục một cách linh hoạt, đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với đối tượng học
sinh, thời gian thực tế và điều kiện dạy học của địa phương trên cơ sở chuẩn kiến
thức, kỹ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; tăng cường đổi mới
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, giáo dục theo hướng phát huy tính chủ
động, tích cực, tự học, phát triển năng lực học sinh. Đó là yêu cầu chung mang tính
định hướng vừa tổng quát vừa cụ thể về nhiệm vụ giáo dục trung học trong năm học.
Môn Ngữ văn không nằm ngoài chủ trương đó. Nghĩa là, cùng với các bộ môn khác,
môn Văn tiếp tục đổi mới về phương pháp giảng dạy, nhất là dạy văn theo chủ đề; dạy
văn tích hợp kiến thức liên môn, vận dụng giải quyết những vấn đề thực tiễn; dạy Văn
theo hướng đánh giá năng lực học sinh...Trong đó, Đọc hiểu văn bản trở thành khâu

đột phá, quan trọng trong quá trình cảm thụ văn chương;
- Như vậy, dạy văn hiện nay cần coi trọng việc dạy đọc hiểu. Ông Trần Đình
Sử trong bài viết Đọc hiểu văn- Một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp
dạy văn hiện đại, Báo văn nghệ số 31 đã khẳng định đến lúc phải chuyển việc giảng
văn trong nhà trường thành việc dạy đọc, dạy cách đọc để học sinh tự đọc lấy thì việc
học văn mới thực sự có kết quả, phải đọc văn để người đọc tự phát hiện ra và thấy
mình lớn lên”. Trong bài "Coi trọng sự cảm thụ của học sinh trong giảng dạy văn
học" (Tạp chí nghiên cứu giáo dục tháng 11 năm 1980) tác giả Nguyễn Duy Bình đã
khẳng định "Nhiệm vụ then chốt trước hết của giáo viên đối với học sinh là giúp các
em biết đọc tác phẩm ... rèn luyện kĩ năng đọc, cảm thụ phân tích tác phẩm văn học
để sau này suốt cuộc đời có thể tự mình biết đọc ... vì vậy việc làm có phần sáng tạo.
Người đọc cùng sáng tạo trên cơ sở vốn sống của mình ". Còn PGS-TS Đỗ Ngọc
Thống phát biểu rằng: Với ba phần lớn: văn học, tiếng Việt và làm văn, nhiệm vụ trực
tiếp của môn học này là hình thành ở người học hai năng lực thiết yếu: Đọc hiểu văn
bản và tạo lập văn bản. Năng lực đầu giúp học sinh biết tiếp nhận, thưởng thức và
đánh giá sản phẩm của người khác và năng lực sau biết tạo ra sản phẩm (nói và viết)
của chính mình. Cả tiếp nhận lẫn tạo lập đều cần dựa trên những cơ sở khoa học...
Nghĩa là, cách dạy giảng văn những năm trước đây không còn phù hợp với sự
đổi mới của giáo dục. Giáo viên lên lớp không chỉ dừng lại ở khâu truyền thụ kiến
thức mà còn hướng dẫn học sinh nắm được kĩ năng đọc, cách đọc văn bản, để rồi sau
này, khi tiếp xúc với bất kì văn bản nào, các em cũng biết vận dụng phương pháp đọc
đã được trang bị để xử lí, tìm hiểu nội dung, nghệ thuật văn bản. Học sinh từ chỗ bị
động, học một cách máy móc, chỉ biếp văn bản trong sách giáo khoa, còn ngoài ra sẽ
lúng túng khi tiếp cận văn bản mới, thì giờ đây, khi đã có kĩ năng đọc hiểu, các em sẽ
phát hiện ra và thấy mình lớn lên về trí tuệ và tâm hồn, có khả năng lĩnh hội và tạo
lập bất cứ văn bản nào trong cuộc sống.
- Đọc hiểu văn bản nói chung, nhất là văn bản thơ có nhiều đặc trưng riêng.
Trong bài Mấy ý nghĩa về thơ, nhà thơ- nhà phê bình văn học Nguyễn Đình Thi có
viết: Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co, qua
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất


Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

những chặng, những trung gian, những cột cây số. Văn xuôi lôi cuốn người như dòng
nước, đưa ta đi lần lượt, từ điểm này qua điểm khác. Thơ, trái lại, chỉ chọn một ít
điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo. Thơ là tổng hợp, kết
tinh. Văn xuôi cho phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi
sự toàn bích. Như vậy, sử dụng văn bản thơ để hỗ trợ đọc hiểu văn bản trong bộ môn
Ngữ văn sẽ có tác dụng tạo sự hấp dẫn cho học sinh. Các em sẽ được đọc và hiểu văn
bản ở một tầng bậc mới, thay vì đọc hiểu trực tiếp văn bản thì các em sẽ dựa vào một
văn bản thơ thông qua thơ hoá để hiểu văn bản theo yêu cầu. Chính Đường đi của thơ
là con đường đưa thẳng vào tình cảm sẽ có sức lay động, rung cảm học sinh, giúp các
em hiểu văn bản một cách sâu sắc.
2. Cơ sở thực tiễn
a.Thuận lợi
- Trong chương trình Ngữ văn THPT, học sinh được học nhiều văn bản thơ, từ ca
dao, truyện thơ ...thuộc văn học dân gian đến thơ trung đại, thơ cận hiện đại. Ngoài ra,
các em cũng tiếp cận những vấn đề mang tính lí luận và phương pháp như Phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật;Văn bản văn học; Nội dung và hình thức văn bản văn học
(Khối 10); Một số thể loại văn học: Thơ, truyện(Khối 11); Nghị luận về một bài thơ,
đoạn thơ; Mấy ý nghĩ về thơ;Luật thơ;Giá trị văn học và tiếp nhận văn học(Khối
12)...Nghĩa là, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản từ văn bản thơ, lí luận
văn học về thơ, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, nhất là thể loại thơ đến cách thức
đọc hiểu văn bản thơ. Vì thế, khi đọc hiểu một văn bản thơ, dù văn bản đó nằm ngoài
chưa trình, các em đã biết hoặc tiếp xúc lần đầu, thì vẫn không bỡ ngỡ. Đặc biệt, văn

bản thơ đó có những nội dung gắn liền với những văn bản đang học trong chương
trình thì tạo điều kiện giúp các em hiểu và cảm thụ sâu hơn, phát huy được tính độc
lập, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội và tạo lập văn bản.
- Trong tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát
triển năng lực học sinh của Bộ GD-ĐT ( tháng 6 năm 2014), phần bài tập trang 133
có dùng ngữ liệu dạng thơ hoá để ra đề. Cụ thể:
Đọc và trả lời những câu hỏi sau:
Dịu dàng là thế Tấm ơi
Mà sao em phải thiệt thòi, vì sao?
Phận nghèo hôm sớm dãi dầu
Hóa bao nhiêu kiếp, ngọt ngào, đa đoan.
Người ngoan ở với người gian
Dẫu hiền như Bụt cũng tan nát lòng
Tin em, em cướp mất chồng
Đành làm quả thị thơm cùng nước non...
(Trích Lời của Tấm – Ánh Tuyết )
1. Những chi tiết nào sau đây nói về “phận nghèo” “thiệt thòi” của nhân vật
Tấm trong truyện Tấm Cám?
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

A. Bố mất sớm, ở với dì ghẻ, làm lụng vất vả từ sáng đến tối không hết việc.
B. Được Bụt giúp đỡ.
C. Hóa thành cô gái thảo hiền sống cùng bà lão tốt bụng.

D. Bụt cho đàn chim sẻ xuống giúp Tấm.
2. Trong truyện Tấm Cám, Tấm đã “hóa bao nhiêu kiếp”? Đó là những kiếp
nào?
3. Sự hóa kiếp của Tấm và sự xuất hiện của nhân vật ông Bụt cho thấy truyện
Tấm Cám thuộc loại ...
A. Truyện cổ tích về loài vật.
B. Truyện cổ tích sinh hoạt.
C. Truyện cổ tích thần kì.
4. Ông Bụt trong truyện cổ tích là kiểu nhân vật chức năng. Vai trò của ông là
giúp những ước mơ, khát vọng của nhân vật chính diện trở thành hiện thực. Trong
truyện Tấm Cám, đó là:
A. Khát vọng giàu sang
B. Khát vọng về chính nghĩa và lẽ công bằng.
C. Khát vọng hạnh phúc.
D. Khát vọng yêu thương.
5. “Tin em, em cướp mất chồng”
Nhân vật “em” mà lời thơ nhắc đến là nhân vật nào trong truyện?
6. Liệt kê nhân vật “người ngoan” và “người gian” trong truyện Tấm Cám.
7. Giá trị tư tưởng của truyện cổ tích thần kỳ Tấm Cám là:.....
(Viết không quá 5 câu để cụ thể hóa giá trị tư tưởng ấy).
Cách ra đề trên đã có hướng đổi mới tích cực, có thể làm đề mẫu để tập huấn
cho giáo viên khi biên soạn đề đọc hiểu. Người biên soạn không lấy ngữ liệu từ truyện
Tấm Cám ( như thường thấy trong cách ra đề bình thường) mà dùng ngữ liệu trích từ
bài thơ Lời của Tấm của tác giả Ánh Tuyết để làm cơ sở cho việc đọc hiểu văn bản.
Như vậy, học sinh muốn làm được đề này phải hiểu được truyện Tấm Cám ( chương
trình Ngữ Văn 10), từ đó có cách hiểu bài thơ để trả lới 7 câu hỏi trên. Đề mẫu này đã
tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi tìm ngữ liệu để ra đề đọc hiểu, một mặt vừa
gắn với nội dung chương trình đã học, một mặt thể hiện sự mới mẻ, kích thích tư duy
học sinh trong quá trình làm bài.
- Ngay trong phần Luyện tập sách giáo khoa Ngữ văn 10 HKI trang 43 bài số 3

cũng có yêu cầu Tìm một số bài thơ viết về Mị Châu-Trọng Thuỷ và nêu lên sức sống
lâu bền của truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thuỷ. Điều đó chứng tỏ yêu
cầu thơ hoá đã được đưa vào chương trình Ngữ văn nhằm giúp học sinh mở rộng kiến
thức, phát huy tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình đọc hiểu văn bản.
b. Khó khăn
Việc sử dụng văn bản thơ có nội dung liên quan để hỗ trợ đọc hiểu, ra đề kiểm
tra đánh giá trong quá trình dạy học Ngữ văn ở trường THPT hiện nay vẫn còn mới
mẻ, chưa được thực hiện rộng rãi.
Về phía giáo viên, đa số chủ yếu tập trung đọc hiểu văn bản trong hoặc ngoài
chương trình, đi thẳng vào văn bản, chứ không đi qua hình thức gián tiếp là lấy một
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

văn bản thơ viết về những vấn đề liên quan đến ngữ liệu có trong chương trình để
triển khai việc đọc hiểu. Trên thực tế, ngữ liệu văn bản thơ có nội dung liên quan
không nhiều. Nếu có thì rất ít bài thơ có nội dung, nghệ thuật phù hợp với trình độ
học sinh ( ví dụ như 100 bài thơ Chân dung nhà thơ của Xuân Sách). Vì thế, giáo viên
ít vận dụng văn bản thơ có nội dung liên quan trong quá trình đọc hiểu và kiểm tra
đánh giá năng lực học sinh.
Về phía học sinh, khi tiếp cận hình thức văn bản thơ có nội dung liên quan
trong đọc hiểu văn bản và làm bài tập, các em phải hiểu cùng một lúc hai văn bản: văn
bản đang học trong chương trình và văn bản thơ có nội dung liên quan. Trong khi đó,
việc đọc hiểu văn bản trong chương trình cho thấu đáo đã là việc khó vì các em phải
nhận biết, thông hiểu, vận dụng trả lời rất nhiều dạng câu hỏi mà theo đề xuất của

PGS-TS Đỗ Ngọc Thống là các loại: Câu hỏi về thể loại; Câu hỏi hướng vào yếu tố
ngoài văn bản;Câu hỏi về vai trò người tiếp nhận;Câu hỏi hướng vào yếu tố văn
bản...thì đọc hiểu những bài dạng thơ có nội dung liên quan lại nâng thêm một tầm
hiểu biết cao hơn. Đó là một trong những thách thức lớn đối với học sinh.
Tuy nhiên, cái khó ló cái khôn, không phải vì khó khăn mà chúng ta chùn bước
hoặc không dám tìm hiểu khám phá, nhất là một khi trong tài liệu tập huấn về đổi mới
giảng dạy Ngữ văn THPT của Bộ GD-ĐT đã đề cập, mở đường cho hướng tiếp cận
mới này thì việc vận dụng thơ có nội dung liên quan lại cần đặt ra và thực hiện tiếp
tục.
3/-Phạm vi thực hiện đề tài
Chương trình Ngữ văn THPT đề cập rất nhiều loại văn bản, gắn liền với 3 phân
môn: Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn. Phân môn nào muốn tiếp cận cũng đầu bắt đầu
từ đọc hiểu. Việc sử dụng văn bản thơ có nội dung liên quan cũng sẽ được thực hiện
để hiểu các văn bản thuộc 3 phân môn trên.Với điều kiện và khả năng có hạn, trong
sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ nghiên cứu trong diện hẹp sử dụng văn bản thơ có
nội dung liên quan để hỗ trợ đọc hiểu một số văn bản tiêu biểu thuộc chương trình
ngữ văn THPT, tập trung chủ yếu phần đọc văn và bài tập Đọc hiểu văn bản.
III/-TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
1/- Một số khái niệm của đề tài
- Theo Trần Đình Sử “đọc hiểu văn bản trước hết là đọc hiểu văn bản ngôn từ,
đọc hiểu thông báo và đọc hiểu ý nghĩa. Việc đọc hiểu ý nghĩa không chỉ dựa vào các
liên hệ bên trong văn bản văn học, mà còn dựa vào ngữ cảnh khi tác phẩm được viết
ra hoặc dựa vào ngữ cảnh khi người đọc đọc tác phẩm... Có ít nhất bốn cách tiếp cận
đọc hiểu văn bản. Một là đọc thông, đọc hiểu văn bản ngôn từ. Hai là đọc hiểu thông
báo của văn bản. Ba là đọc hiểu ý nghĩa. Bốn là đọc tổng hợp, phát hiện ý nghĩa của
văn bản”.( Nguồn />Như vậy, đọc hiểu văn bản là khâu đầu tiên, khâu quan trọng nhất trong giảng
dạy Ngữ văn ở nhà trường. Theo chương trình Ngữ văn hiện nay, nội dung đọc hiểu
đã được mở rộng, không những tập trung ở văn bản nghệ thuật ( thơ, truyện, kịch,
kí…) mà còn đọc hiểu văn bản nhật dụng, văn bản nghị luận, văn bản khoa học, văn
bản Tiếng Việt, văn bản làm văn. Yêu cầu của đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông là

Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

phải lấy văn bản làm trung tâm. Chỉ ý nghĩa có căn cứ trong văn bản mới có giá trị.
Cần phải coi trọng ngữ cảnh, coi trọng tổ chức nội bộ của văn bản.Đọc hiểu phải dựa
vào cấu trúc ngôn ngữ, không được thoát li ngôn ngữ.
-Về khái niệm Thơ và văn bản thơ có nội dung liên quan đến văn bản trong
chương trình Ngữ văn THPT :
+ Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm
trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có
nhịp điệu.
+Văn bản thơ có nội dung liên quan đến văn bản trong chương trình Ngữ
văn THPT là những văn bản thơ được hình thành nhờ lấy cảm hứng từ những văn bản
có trong sách giáo khoa. Phần văn bản này do các nhà thơ, tác giả sáng tác.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.1/- Sử dụng Văn bản thơ có nội dung liên quan đến văn bản trong chương
trình hỗ trợ đọc hiểu phần tiểu dẫn trong sách giáo khoa ngữ văn THPT
2.1.1/ Trong giờ Đọc văn, phần Tiểu dẫn giống như khúc dạo đầu của một bản
nhạc, mở đường cho giáo viên bước vào bản nhạc chính là phần Văn bản. Phần Tiểu
dẫn là cơ sở khoa học để lí giải những vấn đề liên quan đến Văn bản. Tuy nó có nội
dung gắn với các yếu tố ngoài văn bản như tiểu sử tác giả, hoàn cảnh sáng tác, sự
nghiệp sáng tác, thể loại, phong cách nghệ thuật nhưng lại là chỗ dựa vững chắc để
hiểu về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của văn bản. Phần tiểu dẫn thường được giới
thiệu ngắn gọn, dưới dạng phương thức biểu đạt thuyết minh. Tri thức đọc hiểu phần

này được các nhà biên soạn sách giáo khoa viết thành những đoạn văn xuôi ngắn gọn,
cô đọng. Khi tìm hiểu phần này, nếu chủ quan, chúng ta sẽ hướng dẫn học sinh một
cách qua loa, sơ sài; nhưng nếu sa đà, tìm hiểu quá kĩ thì lại mất thời gian, ảnh hưởng
đến phần đọc hiểu văn bản. Nguyên nhân tình trạng này là do phần Tiểu dẫn cung cấp
thông tin cụ thể nên giáo viên thường lướt qua, chỉ cho học sinh đọc, chứ không cần
hiểu.
2.1.2/ Các bước sử dụng Văn bản thơ có nội dung liên quan để hỗ trợ đọc
hiểu phần Tiểu dẫn
a. Trước hết là thao tác Đọc: Nếu phần tiểu dẫn dài, trong phần dặn dò học sinh
chuẩn bị bài mới, giáo viên yêu cầu học sinh đọc trước ở nhà, xác định những ý chính,
tìm bố cục, tóm tắt thành những luận điểm. Khi lên lớp, giáo viên kiểm tra việc chuẩn
bị bài của học sinh, cho học sinh phát biểu cá nhân, trình bày ngắn gọn những nội
dung cơ bản. Giáo viên sơ kết những ý học sinh đã trình bày, chỉnh lí, bổ sung. Nếu
phần tiểu dẫn ngắn, giáo viên cho học sinh đọc một lần, sau đó học sinh trình bày
những ý chính.
b.Đọc hiểu phần cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả: để làm mềm phần
tiểu sử, con người và sự nghiệp sáng tác của tác giả đã được giới thiệu trong Tiểu dẫn,
tạo hứng thú cho học sinh ngay từ lúc vào bài, giáo viên có thể trích dẫn một số đoạn
thơ, bài thơ liên quan. Sau đó, giáo viên sử dụng thao tác so sánh giữa từ ngữ, ý thơ
được sử dụng trong bài thơ với những chi tiết quan trọng trong cuộc đời tác giả để
thấy được nét giống nhau và nét độc đáo giữa hai văn bản. Từ đó, định hướng cho học
sinh hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời, con người nhà thơ. Đọc hiểu phần Tiểu dẫn bài thơ
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ( Ngữ văn 10, tập I, tr 126), giáo viên có thể sử dụng
bài thơ Lời thơ-lời sấm của Nguyễn Vũ Tiềm để hỗ trợ, bổ sung tri thức đọc hiểu tiểu
sử, con người và thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Biển xanh thành nương dâu
Thơ báo trước việc đời năm thế kỷ
Thiên chức nhà thơ với cõi trần đến thế
Hành tinh này còn có ở nơi đâu?
Mặc thế cuộc vần xoay
Đối nhân bằng nhân bản
Con người ấy với thiên nhiên bầu bạn
Đời bon chen sao kham nổi hiền tài.
Lời sấm truyền khó thấy một câu sai
Duy một việc ông tính lầm dễ thấy:
Thân áo vải, đầu trần thanh thản vậy
Lại đóng gông trong mũ áo triều đình!
Câu thơ Biển xanh thành nương dâu có ý nghĩa ẩn dụ về thực trạng trên đường
xuống dốc của xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI mà nhà thơ đang sống. Thơ cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm là thơ báo trước, là Lời sấm truyền dự đoán về xã hội hiện tại và
tương lai rất chính xác. Về con người Nguyễn Bỉnh Khiêm, qua các từ ngữ nhân bản,
thiên nhiên bầu bạn,thanh thản trong bài thơ, giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu đúng
về vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ. Đó là con người không những có học vấn uyên thâm
mà còn là người có chí khí, chọn lối sống nhàn, không mưu cầu danh lợi.
Khi dạy phần Tiểu dẫn bài thơ TỰ TÌNH(II) (SGK, ngữ văn 11, Tập I, tr 18),
nhằm giúp học sinh hiểu thêm về tác giả Hồ Xuân Hương, có thể chọn bài thơ sau:
"Kính chào chị Hồ Xuân Hương
Ôi một tài thơ cỡ khác thường
"Xiên ngang mặt đất" câu thơ nhọn
"Dê cỏn buồn sừng" chữ hóc xương
Không chịu cam tâm làm phận gái

Chế giễu nam nhi cả một phường
"Bà chúa thơ Nôm" ai sánh kịp
Ra ngoài lề lối của văn chương"
(Hồ Xuân Hương - Tế Hanh)
Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh giữa nội dung phần Tiểu dẫn trong sách
giáo khoa với bài thơ của Tế Hanh, phát hiện ra nét giống nhau và khác nhau giữa hai
văn bản. Tế Hanh sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật để cảm tác về con
người và sự nghiệp sáng tác của nữ sĩ. Đó là một tài thơ cỡ khác thường, một "Bà
chúa thơ Nôm", cũng giống như nhận định bà là một hiện tượng rất độc đáo ( theo
SGK). Bài thơ còn giúp học sinh nhận biết những câu thơ, ý thơ có trong 3 bài thơ
của Hồ Xuân Hương: "Xiên ngang mặt đất";"Dê cỏn buồn sừng";Chế giễu nam nhi...
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

- Đọc hiểu phần sự nghiệp sáng tác: Trong phần Tiểu dẫn, sau khi giới thiệu tác
giả, SGK còn giới thiệu tác phẩm chính của họ bằng hình thức liệt kê, sắp xếp theo
trật tự thời gian. Thông thường học sinh chỉ nhớ tên một tác phẩm đang học chính
thức hoặc đọc thêm, còn tên tác phẩm khác thì lại quên. Để tạo điều kiện cho các em
nhớ lâu, giáo viên có thể dùng văn bản thơ có nội dung liên quan đến sự nghiệp sáng
tác của tác giả để xâu chuỗi tên một số tác phẩm chính của nhà văn, nhà thơ trong
một bài thơ ngắn. Không ngoại trừ trường hợp ngoài việc nhận biết tên tác phẩm,
người tạo nên bài thơ đó còn ẩn ý gửi gắm tư tưởng, tình cảm- ý nghĩa ngầm của bài
thơ. Tuỳ theo yêu cầu đọc hiểu Tiểu dẫn, giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện tên
tác phẩm hoặc tìm ý nghĩa qua tên tác phẩm đó. Tôi xin chọn 2 trường hợp sau để

minh chứng:
+ Phần tiểu dẫn bài Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài) ( Ngữ văn 12, Tập 2, tr 4) có
giới thiệu: Tác phẩm chính: Dế mèn phiêu lưu kí( truyện, 1941),O chuột ( tập truyện,
1942)...Miền Tây ( tiểu thuyết, 1967)...Trong bài thơ Tô Hoài của Xuân Sách, tác giả
viết:
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để O Chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.
Khi dùng bài thơ để hỗ trợ hiểu về sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, học
sinh sẽ nhớ kĩ hơn. Vì tác giả đã lồng ghép một số tác phẩm chính của Tô Hoài
bằng thể thơ lục bát, một thể thơ dân tộc dễ nhớ, dễ thuộc. Một bài thơ 4 câu đã
ghép được 6 tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ còn thú vị ở từ sen ở câu thứ 3 vì gợi
nhớ tên thật của Tô Hoài là Nguyễn Sen. Để hiểu được bài thơ, học sinh phải tập
trung vào phần Tiểu dẫn, đọc kĩ, rồi so sánh đối chiếu nhằm phát hiện, chỉ ra tên
tác phẩm.
+ Phần tiểu dẫn bài Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu) ( Ngữ văn 12,
Tập 2, tr 69) có giới thiệu: Tác phẩm chính: Cửa sông( tiểu thuyết, 1967),Những vùng
trời khác nhau( tập truyện ngắn, 1970),Dấu chân người lính ( tiểu thuyết, 1972),
Miền cháy ( tiểu thuyết, 1977), Cỏ lau(1989)...Trong bài thơ Nguyễn Minh Châu của
Xuân Sách, tác giả viết:
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi đi ra những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?
Giống như bài thơ Tô Hoài, khi viết về Nguyễn Minh Châu, nhà thơ Xuân
Sách đã ghép tên 6 tác phẩm tiêu biểu của nhà văn trong một bài thơ lục bát.
Trước khi cho học sinh tiếp cận bài thơ này, giáo viên hướng dẫn các em đọc kĩ

phần Tiểu dẫn, tập trung phần giới thiệu tác phẩm. Sau đó, giáo viên viết bài thơ
của Xuân Sách trên tờ giấy khổ lớn ( hoặc trình chiếu ppt), công bố trước học
sinh và đề nghị nhận biết tên tác phẩm có trong bài thơ. Học sinh sẽ dùng thao
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

tác so sánh, đối chiếu để tìm ra câu trả lời chính xác nhất. Giờ học sẽ trở nên
sinh động, bất ngờ ngay từ lúc mới vào bài.
2.2/- Sử dụng Văn bản thơ có nội dung liên quan đến văn bản trong chương
trình hỗ trợ đọc hiểu phần Tác giả văn học
2.2.1/ Đối với những tác giả lớn, SGK Ngữ văn THPT không trình bày nhập
chung phần TIỂU DẪN với VĂN BẢN trong một bài, mà tách riêng thành hai phần
TÁC GIẢ-TÁC PHẨM với thời lượng giảng dạy nhiều hơn. Cụ thể:
- Ngữ văn 10, HK2:
+Tiết 59,60,61. Bài: Đại cáo bình Ngô ( Nguyễn Trãi). Phần 1: tác giả. Phần 2:
tác phẩm;
+Tiết 81,82. Bài: Truyện Kiều ( Nguyễn Du). Phần 1: tác giả. Tiết 83: Trao
duyên...
- Ngữ văn 11, HK1:
+Tiết 20,21,22. Bài: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu). Phần 1:
tác giả. Phần 2: tác phẩm;
+Tiết 50: Phần 1: tác giả Nam Cao. Tiết 52,53,54: Chí Phèo
- Ngữ văn 12, HK1:
+Tiết 4. Bài: Tuyên ngôn Độc lập ( Hồ Chí Minh). Phần 1: tác giả. Tiết 7,8 Phần

2: tác phẩm;
+Tiết 22. Bài: Việt Bắc ( Tố Hữu). Phần 1: tác giả. Tiết 25,26: tác phẩm...
Vì thời lượng dành cho đọc hiểu tác giả khá rộng ( từ 1 đế 2 tiết) nên để hệ thống
hoá kiến thức về tác giả, sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật..., bên cạnh các
phương pháp như dùng phiếu học tập, bản đồ tư duy, sử dụng bảng biểu..., giáo viên
cũng có thể vận dụng Văn bản thơ có nội dung liên quan đến văn bản trong chương
trình trên lớp, nhằm kích thích tinh thần tự học, sáng tạo của học sinh. Ở đây, tôi xin
giới thiệu cách đọc hiểu bài Tác giả Tố Hữu ( tiết 22, Ngữ văn 12 HK2) bằng hình
thức này.
2.2.2/ Bài Tác giả Tố Hữu dạy trong 1 tiết với ba nội dung chính: Vài nét về tiểu
sử-Đường cách mạng, đường thơ-Phong cách thơ Tố Hữu. Ở hai nội dung đầu, tôi lấy
ngữ liệu từ những đoạn thơ trích trong những bài thơ tiêu biểu trong suốt chặng
đường thơ của Tố Hữu để cho học sinh thực hiện 2 cấp độ tư duy là nhận biết và
thông hiểu.
- Đọc hiểu phần vài nét về tiểu sử: Cột bên trái trích dẫn những câu thơ, đoạn
thơ, đặt tên là Thơ viết về Tiểu sử. Mục bên phải yêu cầu học sinh dựa vào SGK để
ghi lại những dữ kiện như năm sinh (1), quê hương ( 2), các mốc thời gian quan trọng
(3,4,5,6,7), năm mất (8):
TT
1
2

Thơ viết về Tiểu sử
Liên Xô nở trước đời tôi ba tuổi
(Hy vọng - Từ ấy)
Huế ơi, quê mẹ của ta ơi!
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười

Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất


Tiểu sử tiêu biểu

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

3

4

5

6

7

8

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi...
( Quê mẹ -Gió lộng)
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lí chói qua tim.
Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực

Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
(Tâm tư trong tù —Từ ấy)
Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy
Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi!
Nước mắt ta trào, húp mí, tràn môi
Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc!
[...] Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió
mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hoá mặt trời
(Huế tháng Tám —Từ ấy)
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chường trên ngực Dân
tộc ta, dân tộc anh hùng !
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên — Việt Bắc)
Tôi lại nhìn, như đôi mắt trẻ thơ
Tổ quốc tôi. Chưa đẹp thế bao giờ !
Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển
Xanh trời, xanh của những giấc mơ...
Tôi bay giữa màu xanh giải phóng
Tầng thấp, tầng cao, chiều dài, chiều rộng
Ôi Việt Nam ! Yêu suốt một đời
Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi
(Vui thế hôm nay- Máu và hoa)
Tạm biệt đời ta yêu quý nhất,
Còn mấy dòng thơ, một nắm tro.
Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất,
Sống là cho. Chết cũng là cho.

( Tạm biệt-Tố Hữu)

Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Học sinh đọc và tìm trong văn bản phần Tác giả trong SGK, so sánh với ngữ liệu
giữa 8 trích đoạn thơ, nêu được các sự kiện chính mà thơ Tố Hữu gợi ra : (1) Tố Hữu
sinh năm 1920, sau cách mạng thánh Mười Nga 3 năm ( 1917) ; (2) Xứ Huế là quê
hương của nhà thơ. (3) Năm 1937, Tố Hữu được giác ngộ lí tưởng cộng sản ; (4) Năm
1939, ông bị thực dân Pháp bắt giam qua nhiều nhà tù ở miền Trung và Tây Nguyên ;
(5) Niềm vui chiến thắng Điện Biên Phủ ; (6) Tố Hữu làm chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa
ở Huế.(7) Niềm vui thống nhất đất nước năm 1975 của nhà thơ. (8)Năm mất: 2002.
- Đọc hiểu phần Đường cách mạng, đường thơ: Cột bên trái trích dẫn những câu
thơ, đoạn thơ, đặt tên là Đường cách mạng, đường thơ. Mục bên phải yêu cầu học
sinh dựa vào SGK để nhận biết, ghi lại các tập thơ của Tố Hữu. Giáo viên lưu ý học
sinh đọc kĩ từng đoạn thơ, tìm ra trong mỗi đoạn thơ một từ khoá có tên tập thơ:
TT
Đường cách mạng, đường thơ
Các tập thơ
1
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lí chói qua tim.
Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

2
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền''
3
Sóng bồi thêm bãi, thuyền thêm bến
Gió lộng đường khơi, rộng đất trời!
4
Thời đại lớn cho ta đôi cánh
Không có gì hơn Độc lập Tự do!
Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ.
5
Không nỗi đau nào của riêng ai
Của chung nhân loại chiến công này.
Việt Nam ơi, máu và hoa ấy
Có đủ mai sau, thắm những ngày?
Còn khổ đau nào đau khổ hơn
6
Trái tim luôn sát muối oán hờn
Còn đây một chút trong đêm lạnh
Đầm ấm bên em một tiếng đờn.
7
Phải trái dại khôn đầu vẫn sáng
Thủy chung đen bạc mắt chưa nhòa
Sợ chi khúc khuỷu đường muôn dặm
Ta vẫn là ta ta với ta
Học sinh xác định đúng các tập thơ đó là : (1) Từ ấy( 1937-1946); (2) Việt Bắc
( 1946-1954); (3) Gió lộng ( 1955-1961);(4)Ra trận(1962-1971); (5) Máu và hoa

( 1972-1977); (6) Một tiếng đờn ( 1992).(7) Ta với ta ( 1999).
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.3/- Sử dụng Văn bản thơ có nội dung liên quan đến văn bản trong chương
trình hỗ trợ đọc hiểu phần Văn bản thuộc phân môn Đọc văn
2.3.1/ Tiếp theo phần Tiểu dẫn, phần Văn bản trong phân môn Đọc văn là phần
quan trọng nhất. Theo yêu cầu đổi giảng dạy, ở phần Văn bản, giáo viên tập trung vận
dụng đa dạng về phương pháp để hướng dẫn học sinh Đọc hiểu, cảm thụ tác phẩm
theo đặc trưng thể loại. Hướng đọc hiểu hiện nay là dạy học theo chủ đề, dạy học tích
hợp kiến thức liên môn giải quyết những vấn đề thực tiễn, dạy học theo phát triển
năng lực học sinh v.v. Dù dạy bằng hình thức nào đi nữa thì bước đọc hiểu vẫn nắm
vai trò chủ đạo, trong đó giáo viên là người hướng dẫn học sinh làm việc, học sinh thể
hiện tính chủ động, tích cực sáng tạo trong giờ học. Sử dụng thơ hoá phần đọc hiểu
văn bản trở thành một trong những cách thức hỗ trợ giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp
nhận và tạo lập văn bản.
2.3.2/ Các dạng Văn bản thơ có nội dung liên quan đến văn bản trong chương
trình hỗ trợ đọc hiểu phần Văn bản
- Phần Văn bản văn xuôi ( Truyện, kí, tuỳ bút…)
Tác phẩm văn xuôi trong chương trình THPT rất đa dạng về thể loại. Văn học
dân gian có truyện cổ dân gian (Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười…).
Văn học trung đại có truyền kì, chí…Văn học hiện đại có truyện ngắn, tiểu tuyết, bút
kí, tuỳ bút…Tuỳ theo đặc trưng mỗi thể loại mà giáo viên hướng dẫn học sinh có cách
đọc hiểu văn bản khác nhau. So với tác phẩm trữ tình, tác phẩm văn xuôi có dung

lượng dài hơn, khó nhớ hơn. Một điểm đổi mới cũng là yếu tố thuận lợi cho học sinh
hiện nay là trong cách ra đề của Bộ GD-ĐT khi kiểm tra đánh giá năng lực lĩnh hội và
tạo lập văn bản, đề ra đã cung cấp văn bản ( thơ và văn xuôi), tránh tình trạng học
sinh nhớ máy móc, học vẹt. Tuy nhiên, vẫn có thể xảy ra tình trạng đề ra không thể
cấp văn bản như dạng đề nghị luận về một ý kiến bàn về văn học. Khi ý kiến đó có
tầm bao quát toàn bộ một tác phẩm trong chương trình thì không thể cấp cả một tác
phẩm dài trong khi ra đề. Vì vậy, khi dạy phần đọc văn, giáo viên cũng cần lưu ý học
sinh đọc kĩ tác phẩm và phải ghi nhớ những dẫn chứng tiêu biểu để trích dẫn chính
xác trong bài làm.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học:“Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện được triển
khai, nhân vật được khắc hoạ nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa
dạng; bao gồm chi tiết sự kiện, xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình của nhân vật,
chi tiết tính cách, chi tiết nội thất, ngoại cảnh, phong tục, đời sống văn hoá, lịch sử,
lại còn có cả những chi tiết liên tưởng, tưởng tượng, hoang đường mà không một
nghệ thuật nào tái hiện được”. Hiểu một cách ngắn gọn, đặc trưng của tác phẩm tự sự
là có cốt truyện, nhân vật và lời kể . Vì vậy, việc đọc hiểu một tác phẩm tự sự chủ yếu
tập trung vào đặc trưng đó. Học sinh phải nhận biết, thông hiểu ý nghĩa của cốt
truyện; nhớ chính xác các sự việc, chi tiết liên quan đến nhân vật ( nhất là nhân vật
chính); nắm được lời kể, giọng điệu riêng của mỗi tác giả. Thực tế hiện nay học sinh
ít có thói quen đọc văn bản nói chung, đọc truyện nói riêng. Nếu đọc thì cũng đọc qua
loa, chiếu lệ, đọc mà không hiểu hoặc hiểu sai, hiểu không đến nơi đến chốn. Khi làm
bài nghị luận văn học, học sinh rơi vào tình trạng kể lể dài dòng, có khi không trung
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


thành với văn bản gốc, lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, khiến cho bài văn trở nên đơn
điệu, nhàm chán, việc cảm nhận rơi vào sơ sài, thiếu rung cảm.
Để khắc phục tình trạng trên, ngay từ bước lĩnh hội văn bản tự sự thông qua
đọc hiểu, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh tìm hiểu đặc trưng thể loại. Đặc
biệt, khi đọc hiểu nhân vật tự sự, việc đi vào khai thác những sự việc, chi tiết tiêu biểu
liên quan đến nhân vật rất quan trọng, bởi vì chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Làm
thế nào để học sinh nhận biết, thông hiểu các chi tiết tiêu biểu của nhân vật tự sự, để
rồi vận dụng tạo lập văn bản cảm nhận về hình tượng nhân vật đó? Một trong những
cách được sử dụng để giải quyết điều đó chính là sử dụng văn bản thơ có nội dung
liên quan đến nhân vật tự sự. Trong thực tế, một số nhà thơ quen thuộc đã sáng tác
những bài thơ có giá trị tư tưởng và nghệ thuật dựa trên cái nền là tác phẩm tự sự. Khi
tiến hành đọc hiểu văn bản tự sự, giáo viên có thể dùng những bài thơ này để hướng
dẫn học sinh tìm hiểu, phát hiện những sự việc,chi tiết tiêu biểu. Vì khi sáng tác, các
nhà thơ đã chọn lựa các sự việc, chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm tự sự để diễn đạt lại
lần nữa bằng ngôn ngữ trữ tình. Tôi xin minh chứng điều này qua 3 tác phẩm tiêu biểu
ở 3 khối như sau:
- Khi dạy bài An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thuỷ ( Ngữ văn 10, HKI),
tôi đã sử dụng văn bản thơ viết về truyền thuyết này để giúp học sinh nắm vững cốt
truyện, nhân vật, chi tiết tiêu biểu.
+ Có thể mượn bài thơ sau:
CHUYỆN TÌNH MỴ CHÂU
Nghe truyện kể hai ngàn năm trước
Quân Triệu Đà từ nước Tần sang
Đánh chiếm Âu Lạc lân bang
Thua trận liên tiếp phải sang cầu hòa
Nhân cơ hội Triệu Đà lập kế
Cho con trai ở rể làm tin
Mỵ Châu trao cả trái tim
Trọng Thủy yêu nước hay tìm tình yêu?

An Dương Vương có nhiều cân nhắc
Hay quá tin vững chắc nỏ thần?
Mỵ Châu đâu có phân vân
Trái tim yêu dấu không cần hoài nghi.
Trọng Thủy bước chân đi vì nước
Điều gì hơn Tổ quốc sinh thành
Tình riêng chung có phân minh?
Nỏ thần tráo lẫy, ngay tình lý gian!
Nào áo gấm vua ban phía trước
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Nào tổ tiên, đất nước đằng sau
Ai đem tất đổi Mỵ Châu?
Cơn mê tình ái dễ đâu trả lời
Một say đắm cuộc đời tan nát
Hai đắm say xé toạc cơ đồ
Lông ngỗng rải xuống mơ hồ
Yêu một khắc phá cơ đồ nghìn năm
An Dương Vương hờn căm trút giận
Thù sau lưng lửa hận bừng bừng
Thần Kim Quy nói thẳng thừng
Nghĩa non bùng cháy, dửng dưng tình nhà
Mỵ Châu đó tay cha hóa kiếp

Máu đỏ loang sóng biếc cuộn trào
Khi ba lần trái tim trao
Minh châu lại hóa thân vào ngọc trai
Câu chung thủy tương lai còn khắc
Lửa tình yêu son sắc có nhòa?
Trái tim, khối óc không hòa
Tim sai một nhịp, óc lòa thiên thu.
(Đinh Kim Chung)
Giáo viên có thể đặt câu hỏi nhận biết để học sinh tìm hiểu: Đọc bài thơ trên,
tìm hệ thống từ ngữ liên quan đến những sự việc tiêu biểu được tác giả kể trong
truyền thuyết An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thuỷ . Từ đó, em hãy kể tóm tắt
cốt truyện truyền thuyết này?
Với câu hỏi trên, học sinh sẽ nhận biết hệ thống từ ngữ trong bài thơ như lập
kế, cầu hoà,cho con ở rể (nói về Triệu Đà);Nỏ thần tráo lẫy( nói về Trọng Thuỷ);Yêu
một khắc phá cơ đồ nghìn năm ( nói về Mỵ Châu);Nghĩa non bùng cháy, dửng dưng
tình nhà (nói về An Dương Vương); Minh châu lại hóa thân vào ngọc trai
( nói về ngọc trai, giếng nước)…Từ đó, lấy văn bản trong SGK làm chuẩn, học sinh
kết hợp với bài thơ để tiến tới bước thứ hai là thông hiểu cốt truyện và nội dung chính
của truyền thuyết là: Bi kịch nước mất nhà tan-Bi kịch tình yêu tan vỡ- Hình ảnh
Ngọc trai, giếng nước.
+ Cũng trong truyền thuyết này, khi tiến hành đọc hiểu chi tiết nghệ thuật đặc
sắc, tôi sử dụng trích đoạn bài thơ sau ( vì bài thơ tương đối dài)
Mị CHÂU (Vương Trọng)
(…)
Lông ngỗng rơi, lông ngỗng rơi trắng lối
Dứt áo ra như dứt thịt da mình
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016



SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Phút ly loạn, chàng ở đâu chẳng tới
Trọng Thủy ơi, thiếp đã chạy xa thành!
Nước mắt rơi xoay tròn cơn gió
Lưng Cha cùng lưng ngựa đẫm mồ hôi
Lông ngỗng hết, thiếp sẽ rời lưng ngựa
Làm chiếc lông cuối cùng đợi chàng đấy, chàng ơi.
…………………………………………..
Không phải lông ngỗng rơi mà đầu lăn xuồng đất
Nằm cuối đường như dấu chấm câu
Sao bị chém? Mị Châu không hề biết
Máu tụ thành sỏi đỏ đất Hoan Châu.
……..
Khi sáng tác bài thơ Mị Châu, nhà thơ Vương Trọng đã nhìn truyền thuyết An
Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thuỷ bằng ngôn ngữ trữ tình.Trong ba đoạn thơ
trên, chi tiết lông ngỗng được lặp lại nhiều lần, trở thành dụng ý nghệ thuật của nhà
thơ hiện đại khi viết về nhân vật Mị Châu. Ông đã nói thay tâm trạng của nàng trong
giây phút cùng vua cha bỏ trốn. Chi tiết này cũng được nhắc đến hai lần trong truyền
thuyết. Lần thứ nhất thể hiện trong câu trả lời của Mị Châu khi sắp chia tay Trọng
Thuỷ: Thiếp có áo lông ngỗng(…)đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để
làm dấu. Lần thứ hai thể hiện qua câu:Trọng Thuỷ nhận dấu lông ngỗng mà đuổi.
Trên cơ sở sự giống nhau về chi tiết nghệ thuật giữa truyền thuyết và các đoạn thơ,
giáo viên cho học sinh tiến hành đọc hiểu chi tiết tiêu biểu liên quan đến nhân vật Mị
Châu. Có thể đặt ra các câu hỏi gợi mở để học sinh thảo luận trả lời:
(1)Sau khi đọc truyện An Dương Vương,Mị Châu và Trọng Thuỷ và ba đoạn
thơ trong bài Mị Châu của Vương Trọng, em hãy chỉ ra chi tiết nào giống nhau ? Chi

tiết đó liên quan đến nhân vật nào?( câu hỏi nhận biết).
(2) Nêu ý nghĩa nghệ thuật của chi tiết vừa phát hiện? Có thể nói đó là chi tiết
tiêu biểu trong truyện được không? Vì sao? ( câu hỏi thông hiểu).
(3) Phát hiểu ngắn gọn suy nghĩ của em về thái độ, tình cảm của nhà thơ Vương
Trọng dành cho nhân vật Mị Châu qua đoạn thơ? Thái độ, tình cảm đó có giống với
thái độ, tình cảm của nhân dân dành cho nàng trong truyền thuyết không? Vì sao?
( câu hỏi vận dụng)…
Như vậy, nếu biết cách vận dụng văn bản thơ có nội dung liên quan đến văn
bản đang dạy đúng lúc, vừa phải như trường hợp trên, giáo viên sẽ giúp học sinh
nhanh chóng nhận ra chi tiết nghệ thuật tiêu biểu nhờ có đoạn thơ định hướng, đồng
thời sẽ cảm thụ, rung động trước vẻ đẹp của hình tượng nghệ thuật được gửi gắm
trong truyền thuyết dân gian, cũng như tạo hứng thú, dễ nhớ khi tiếp cận văn bản.
+ Để thực hiện phần củng cố phần Đọc văn truyền thuyết này, tôi đã sử dụng
một đoạn thơ quen thuộc của nhà thơ Tố Hữu trong bài Tâm sự, sáng tác tháng 2 năm
1967:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu...
Bốn câu thơ trên đã đức kết gần như trọn vẹn nội dung chính của truyện An
Dương Vương,Mị Châu và Trọng Thuỷ mà học sinh vừa đọc hiểu xong. Nên nỗi cơ

đồ đắm biển sâu... là bi kịch nước mất nhà tan. Trái tim lầm chỗ để trên đầu là bi kịch
tình yêu tan vỡ. Từ đó, giáo viên đặt câu hỏi liên hệ thực tế để học sinh rút ra bài học
nhận thức và hành động của tuổi trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về
bài học tình yêu đôi lứa…
- Để hỗ trợ Đọc văn bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam, tôi đã sử dụng bài thơ sau:
Cho ta về lại Cẩm Giàng
Dọc miền thương nhớ ngỡ ngàng nắng rơi
Bờ tre văng vẳng “chiều rồi”
Sân ga thấp thoáng bóng người về đâu ?
Lắt lay mấy ngọn đèn dầu
Màn đêm đặc quánh, còi tàu vọng lên …
Ta về gặp chị em Liên
Hỡi cô hàng xén ngoan hiền năm nao !
Đêm hè ngồi đếm trời sao
Kìa Con Vịt lội ào ào sông Ngân
Chợ quê đêm lặng dần dần
Mùi quê, mùi đất quen thân một thời …
Ta về gặp tiếng à ơi
Rạ rơm muôn kiếp thơm mùi rạ rơm.
Phố xưa lồng lộng gió nồm
Chiều sương bảng lảng
vọng hồn người xưa …
(Vọng chiều Thạch Lam- Lê Đức Đồng)
Văn bản Hai đứa trẻ ( Ngữ văn 11, Tập I) khá dài ( 6 trang) đã được tác giả Lê
Đức Đồng làm mềm hoá bằng hình thức một bài thơ ngắn gọn, trong đó có đầy đủ nội
dung nói về tác giả và truyện ngắn. Bản thân Mỗi truyện của Thạch Lam như một bài
thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân
thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người (
SGK, ngữ văn 11, tập I, Tr 94). Vì thế, thêm một bài thơ trữ tình Vọng chiều Thạch
Lam như trên làm cho truyện Hai đứa trẻ có sức hấp dẫn đặc biệt. Chất thơ bàng bạc

trong truyện lại một lần nữa được cảm nhận qua bài thơ. Nhờ có bài thơ, học sinh dễ
nhớ những chi tiết giàu giá trị nghệ thuật trong truyện. Khi sử dụng bài thơ này, trước
khi dạy bài Hai đứa trẻ,tôi dặn dò học sinh ở nhà đọc kĩ văn bản truyện, đồng thời cấp
trước cho các em văn bản bài thơ để các em có điều kiện so sánh, đối chiếu. Khi lên
lớp, tôi sử dụng phiếu học tập dưới hình thức bảng biểu để các em điền vào những ô
trống, tìm ra những dẫn chứng trong truyện gắn liền với từ ngữ hình ảnh trong bài thơ.
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Từ đó, các em sẽ nhận biết các chi tiết nghệ thuật cần tập trung phân tích. Cụ thể như
sau :
Trích từ ngữ, câu thơ

Nhận biết câu văn trong
truyện

Thông hiểu ý nghĩa nghệ
thuật các câu văn đó

Bờ tre văng vẳng
“chiều rồi”
ngọn đèn dầu
Màn đêm đặc quánh,
còi tàu vọng lên …

Hỡi cô hàng xén
ngoan hiền năm nao !
Đêm hè ngồi đếm trời
sao
Kìa Con Vịt lội ào ào
sông Ngân
-Mùi quê, mùi đất
quen thân một thời …
-Rạ rơm muôn kiếp
thơm mùi rạ rơm.
Những từ ngữ, câu thơ được trích ra trong bài thơ Vọng chiều Thạch Lam được
sử dụng có khi xen kẽ, có khi cùng một lúc trong quá trình đọc hiểu Hai đứa trẻ. Sau
khi làm việc theo nhóm, đại diện mỗi nhóm lần lượt trình bày kết quả, giáo viên cho
nhóm còn lại góp ý bổ sung. Sau cùng, giáo viên chốt lại. Kết quả gợi ý như sau:
Trích từ ngữ, câu thơ
Bờ tre văng
“chiều rồi”

ngọn đèn dầu

Nhận biết câu văn trong
Thông hiểu ý nghĩa nghệ
truyện
thuật các câu văn đó
vẳng -Dãy tre làng trước mặt đen
Tạo chất thơ trong văn
lại
Thạch Lam, gợi bước chân
- Chiều. Chiều rồi
nhẹ nhàng của thời gian

buổi chiều buồn đang dần
chuyển về đêm ở phố huyện
nghèo. Qua đó, nhà văn thể
hiện sự cảm nhận tinh tế và
sự gắn bó sâu nặng với quê
hương, với ruộng đồng.
-Đèn treo trong nhà bác phở
-Đó là thứ ánh sáng
Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong yếu ớt, le lói như những
nhà ông Cửu và đèn dãy sáng kiếp người nghèo khổ nơi
xanh trong hiệu khách...
phố huyện.
- Một khe sáng ở một vài cửa
- Biểu trưng cho
hàng.
những kiếp người nhỏ bé

Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Màn đêm đặc quánh,còi tàu vọng lên …

-


-

Hỡi cô hàng xén
ngoan hiền năm nao !
Đêm hè ngồi đếm trời
sao
Kìa Con Vịt lội ào ào
sông Ngân

-Mùi quê, mùi đất
quen thân một thời …
-Rạ rơm muôn kiếp
thơm mùi rạ rơm.

- Quầng sáng thân mật
quanh ngọn đèn chị Tí.
- Một chấm lửa nhỏ trong
bếp lửa bác Siêu.
- Ngọn đèn của Liên “thưa
thớt từng hột sáng lọt qua
phên nứa”.
-Dấu hiệu đầu tiên:
+ Liên cũng trông thấy ngọn
lửa xanh biếc.
+ Hai chị em nghe thấy tiếng
dồn dập, tiếng xe rít mạnh
vào ghi.
-Khi tàu đến:
+ Các toa đèn sáng trưng,
chiếu ánh cả xuống đường.

+ Những toa hạng trên sang
trọng lố nhố những người,
đồng và kền lấp lánh, và các
cửa kính sáng.
-Khi tàu đi vào đêm tối:
+ Để lại những đốm than đỏ
bay tung trên đường sắt.
+ Chiếc đèn xanh treo trên
toa sau cùng, xa xa mãi rồi
khuất sau rặng tre.
-Liên trông thấy động lòng
thương ( mấy đứa trẻ con nhà
nghèo)
-Chị là người con gái lớn và
đảm đang
-An và Liên lặng ngước mắt
lên nhìn các vì sao để tìm
sông Ngân Hà và con vịt theo
sau ông Thần Nông…
-Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi
nóng của ban ngày lẫn với
mùi cát bụi quen thuộc quá,
khiến chị em Liên tưởng là
mùi riêng của đất, của quê
hương này.

Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

sống leo lét, tàn lụi trong
đêm tối mênh mông của xã

hội cũ.

Hình ảnh con tàu:
- Biểu tượng của một thế
giới đáng sống: sự giàu
sang và rực rỡ ánh sáng, nó
đối lập với cuộc sống mỏi
mòn, nghèo khổ, tối tăm
của người dân phố huyện.
- Đánh thức những kí ức
tuổi thơ êm đềm về Hà Nội
của hai đứa trẻ.
- Là khát vọng vươn ra ánh
sáng, vượt qua cuộc sống tù
túng, quẩn quanh, không
cam chịu cuộc sống tầm
thường, nhạt nhẽo đang
vây quanh.

Liên là một cô bé có tâm
hồn nhạy cảm, tinh tế, có
lòng trắc ẩn, yêu thương
con người.

Dù sống trong cuộc sống
tù đọng, leo lét, mòn mỏi
nhưng con người vẫn thiết
tha với cuộc sống nơi phố
huyện.


Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

- Để hỗ trợ Đọc văn bài Vợ nhặt của Kim Lân ( Ngữ văn 12, tập II), tôi đã sử
dụng bài thơ sau:
“Muốn ăn cơm trắng với giò
Lại đây mà đẩy xe bò với anh”.
Câu hò thả giữa trời xanh
Mà duyên mà nợ kết thành lứa đôi…
Đói, dù đói mấy cũng cười
Gặp nhau hai kẻ buông lời hờn nhau.
Nào người tận đẩu tận đâu
Giạt trôi cơn đói, bạc màu nắng mưa
Bánh đúc ngon đến bất ngờ
Đói vàng con mắt, bây giờ đã qua …
Theo anh về tận miền xa
Nón mê che nửa, chiều tà nắng rơi
Bàn chân bước lẫn bồi hồi
Mặc ai ganh tị, em cười bên anh …
Thế rồi một mái nhà tranh
Thế rồi hôm sớm ngọt lành có nhau
Một mai sương đọng mái đầu
Câu hò xưa vọng xanh màu yêu thương …
(Câu hò bữa ấy- Lê Đức Đồng)
Tiếp theo bài thơ Vọng chiều Thạch Lam, tác giả Lê Đức Đồng có thêm bài thơ
Câu hò bữa ấy để thơ hoá truyện Vợ nhặt của Kim Lân. Bài thơ viết theo thể lục bát

quen thuộc, lấy cảm hứng từ câu hò vu vơ của nhân vật Tràng ở đầu truyện để làm
nguồn cảm hứng, khơi mạch cảm xúc. Nếu ở trong truyện của Kim Lân, câu hò và
bốn bát bánh đúc là những chi tiết tiêu biểu, tạo tình huống truyện độc đáo, bất ngờ,
éo le, cảm động(tình huống nhặt vợ) thì ở bài thơ này, chi tiết ấy tiếp tục được sử
dụng để tạo sự rung cảm sâu xa trong lòng người đọc. Khi đem bài thơ đặt cạnh
truyện ngắn để đọc hiểu, giáo viên sẽ giúp học sinh nhanh chóng nhận ra chi tiết câu
hò và hình ảnh bánh đúc giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Căn cứ vào những câu
thơ tiêu biểu, giáo viên hướng dẫn học sinh gợi nhớ lại cốt truyện, nhân vật…trong
truyện Vợ nhặt. Chẳng hạn như:
+ Tại sao câu hò“Muốn ăn cơm trắng với giò/Lại đây mà đẩy xe bò với anh”của
nhân vật Tràng trở thành Mà duyên mà nợ kết thành lứa đôi…?
+ Dựa và truyện Vợ nhặt, em hãy chỉ ra ý nghĩa hiện thực và nhân đạo trong câu
thơ Đói, dù đói mấy cũng cười?
+ Câu thơ Bánh đúc ngon đến bất ngờ gợi cho em nhớ đến câu văn nào trong
truyện Vợ nhặt? Nêu hiệu quả nghệ thuật của chi tiết bốn bát bánh đúc trong truyện?
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

+ Các từ ngữ Nón mê che nửa;bước lẫn bồi hồi thể hiện tâm trạng của nhân vật
nào trong truyện? Tâm trạng đó xuất hiện trong hoàn cảnh nào? Nêu ý nghĩa của tâm
trạng?
+ Từ bài thơ và truyện ngắn Vợ nhặt, em có suy nghĩ gì về hạnh phúc gia đình
trong cuộc sống hôm nay?
Những câu hỏi mang tính gợi mở như trên có được nhờ cách dùng văn bản thơ

có nội dung liên quan đến văn bản đang dạy học để hỗ trợ. Bài thơ có tác dụng dẫn
đường, gợi hướng đi cho học sinh xác định được trọng tâm của bài đọc hiểu. Mượn
bài thơ làm nền, giáo viên dẫn dắt học sinh đi vào văn bản truyện để phát hiện cái
hay, cái đẹp của hình tượng văn học, đáp ứng yêu cầu của bài dạy. Và một lần nữa,
học sinh được rung động trước những giá trị tư tưởng và nghệ thuật mà tác giả Lê
Đức Đồng và nhà văn Kim Lân đã gửi gắm qua tác phẩm của mình.
- Đọc hiểu phần Văn nghị luận
Trong chương trình Ngữ văn THPT ( phần cơ bản), văn nghị luận chiếm số
lượng không ít. Cụ thể:
+ Lớp 10: “Bình Ngô đại Cáo” - Nguyễn Trãi; Tựa “Trích diễm thi tập”
( trích ) - Hoàng Đức Lương; Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ( Trích Bài kí đề
danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba ) - Thân Nhân Trung; Hưng
Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn ( Trích Đại Việt sử kí toàn thư ) - Ngô Sĩ Liên; Thái
sư Trần Thủ Độ ( Trích Đại Việt sử kí toàn thư ) - Ngô Sĩ Liên.
+ Lớp 11: Chiếu cầu hiền – Ngô Thì Nhậm; Xin lập khoa luật ( trích tế cấp bát
điều – Nguyễn Trường Tộ ); Về luân lí xã hội ở nước ta – Phan Châu Trinh; Một thời
đại trong thi ca – Hoài Thanh và Hoài Chân; Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc
bị áp bức – Nguyễn An Ninh; Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ph. Ăng – ghen.
+ Lớp 12: Tuyên ngôn Độc lập- Hồ Chí Minh; Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao
sáng trong văn nghệ dân tộc- Phạm Văn Đồng; Mấy ý nghĩ về thơ –Nguyễn Đình Thi;
Đôt Xtôi ép Xki – Xvaigơ; “ Thông điệp nhân ngày phòng chống AIDS 1-12-2001” –
Côphianan;“ Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” - Trần Đình Hượu.
So với văn bản thơ, văn bản tự sự, khi tổ chức giờ đọc hiểu văn bản nghị luận,
giáo viên sẽ đứng trước một số khó khăn nhất định. Đây là thể văn mà tính khoa học,
tư duy lô gich, tính chiến đấu kết hợp chặt chẽ với tính truyền cảm. Qua mỗi văn bản,
các tác giả đều bộc lộ tư tưởng chính trị rõ ràng, đúng đắn, đều gửi gắm những bức
thông điệp mang chiều sâu triết lí và đậm chất nhân văn. Vì thế, với trình độ học sinh
ở lứa tuổi THPT, việc hiểu và cảm được những áng văn nghị luận không phải là điều
dễ dàng. Mặt khác, trong nội dung kiểm tra đánh giá, thông tường người ra đề ít chú
trọng lấy những văn bản nghị luận trong chương trình làm ngữ liệu, có chăng chỉ

dùng những ngữ liệu văn nghị luận có nội dung tương tự với ngữ liệu ngoài chương
trình làm cơ sở cho đề phần Đọc hiểu, ít sử dụng để tạo lập văn bản phần làm văn. Vì
thế, dẫn đến tình trạng giáo viên ít chú tâm giảng dạy và học sinh cũng lơ là trong
việc đọc hiểu văn bản nghị luận. Thực ra, văn nghị luận được đưa vào chương trình
với số lượng như trên đã điểm qua đều có ý nghĩa trong quá trình học giảng dạy Ngữ
văn. Đọc hiểu văn nghị luận, ngoài nội dung cần lĩnh hội, học sinh sẽ học được
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

phương pháp nghị luận trong từng văn bản cụ thể, từ đó rút ra bài học để các em vận
dụng tạo lập văn bản với hai dạng bài: nghị luận xã hội ( nghị luận về một hiện tượng
đời sống; nghị luận về một tư tưởng đạo lí) và nghị luận văn học.
Để tháo gỡ khó khăn trên, bên cạnh phương pháp đọc hiểu văn bản nghị luận
theo đặc trưng thể loại, tôi đã sử dụng văn bản thơ để hỗ trợ, giúp các em hiểu và nhớ
lâu hơn về văn bản nghị luận, nhất là những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật
cao, được xem là áng “thiên cổ hùng văn” như Bình Ngô Đại Cáo; Tuyên ngôn Độc
lập…Xin minh chứng bằng bài đọc hiểu Tuyên ngôn Độc lập- Hồ Chí Minh ( Ngữ
văn 12, HKI). Tôi chọn một số đoạn thơ trong bài thơ Theo chân Bác của Tố Hữu để
làm cơ sở đọc hiểu bài này:
Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ... chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!

Người đứng trên đài, lặng phút giây
Trông đàn con đó, vẫy hai tay
Cao cao vầng trán... Ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây!
Người đọc tuyên ngôn.... Rồi chợt hỏi:
"Đồng bào nghe tôi nói rõ không?"
Ôi câu hỏi, hơn một lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng!
Cả muôn triệu một lời đáp: "Có!"
Như Trường Sơn say gió biển Đông
Vâng, Bác nói, chúng con nghe rõ
Mỗi tiếng Người mang nặng núi sông.
Trời bỗng xanh hơn, nắng chói loà
Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà!
Hai câu thơ Hôm nay sáng mồng hai tháng chín/Thủ đô hoa, vàng nắng Ba
Đình sẽ hỗ trợ cho giáo viên hướng dẫn học sinh đọc hiểu phần Tiểu dẫn khi hỏi học
sinh trình bày hiểu biết về hoàn cảnh ra đời bản Tuyên ngôn Độc lập? Câu thơ gợi
nhớ đến mốc thời gian quan trọng nhất: mồng hai tháng chín, thời khắc khai sinh ra
đất nước, khai tử kẻ thù; gợi nhớ đến địa danh Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh đọc Tuyên
ngôn Độc lập.
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


Đoạn thơ thứ hai: Người đứng trên đài…Độc lập bây giờ mới thấy đây hỗ trợ
học sinh hiểu về tâm trạng, tình cảm của Bác khi đọc Tuyên ngôn Độc lập. Giáo viên
có thể đặt câu hỏi thông hiểu để học sinh trả lời. Cụ thể: Khi đọc “Tuyên ngôn Độc
lập”, Hồ Chí Minh đã “lặng phút giây”. Em hãy lý giải vì sao Bác có cảm xúc đó?
Câu trả lời có thể là: Tuyên ngôn Độc lập ra đời là một trong những niềm xúc động,
hạnh phúc lớn lao nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Phía
sau những lập luận chặt chẽ, sắc sảo, đanh thép, đầy tính đối thoại, xác định giá trị
pháp lí của chủ quyền dân tộc là dòng cảm xúc, tình cảm của người viết Tuyên ngôn.
Những lời tuyên bố trong bản Tuyên ngôn là kết quả bao nhiêu máu đã đổ của các
chiến sĩ, đồng bào trong cả nước. Mỗi dòng chữ là chan chứa niềm tự hào dân tộc.
Mỗi dòng chữ là một niềm hạnh phúc vô biên khi đất nước đã được độc lập, tự do.
Mỗi dòng chữ cũng là những đau đớn, nhức nhối khi nhìn lại bao rên xiết lầm than
của nhân dân ta.Vì vậy, sức thuyết phục của Tuyên ngôn Độc lập không chỉ ở hệ
thống lập luận sắc sảo mà còn ở tình cảm chan chứa, sâu sắc của tác giả. Vì thế, Hồ
Chí Minh đã xúc động sâu sắc khi đọc bản Tuyên ngôn. Ngoài ra giáo viên có thể đặt
thêm câu hỏi: câu thơ Độc lập bây giờ mới thấy đây gợi nhớ câu văn nào trong Tuyên
ngôn Độc lập ( phần cuối của văn bản). Nêu hiệu quả nghệ thuật của câu văn đó? Học
sinh có thể chọn câu sau: Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám
mươi năm nay,một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy
năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Hiệu quả nghệ
thuật: Trong đoạn văn của Hồ Chí Minh, các điệp ngữ có tác dụng nhấn mạnh tinh
thần đấu tranh của dân tộc và sự xứng đáng được hưởng quyền tự do độc lập của dân
tộc ấy.
Câu cuối của đoạn thơ Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà! gợi nhớ đến lời
tuyên bố kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập: Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ
lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới
rằng:Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước
tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Từ sự nhận biết này, giáo

viên hướng dẫn học sinh đọc hiểu phần cuối bản Tuyên ngôn Độc lập bằng hệ thống
câu hỏi như: Hồ Chí Minh tuyên bố với toàn thể nhân dân trên thế giới điều gì? Người
còn nêu lên quyết tâm gì của dân tộc? Nhận xét hệ thống từ ngữ và giọng điệu trong
đoạn văn? Học sinh có thể trả lời : Trong bản tuyên ngôn, đây mới là đoạn văn tràn
đầy khí phách dân tộc Việt Nam, thể hiện ý chí sắt đá nhất, yêu cầu hòa bình nhưng
không sợ chiến tranh, sẵn sàng đón nhận phong ba bão táp. Hồ Chí Minh tuyên bố với
thế giới về nền độc lập của dân tộc Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.”, đồng thời bày tỏ ý chí bảo
vệ nền độc lập của cả dân tộc: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”.Tác giả
dùng những từ ngữ trang trọng: “trịnh trọng tuyên bố”, “có quyền hưởng”, sự thật
đã thành” vang lên mạnh mẽ, chắc nịch như lời khẳng định một chân lí. Lời văn đanh
thép như một lời thề, thể hiện ý chí, quyết tâm của cả dân tộc.
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.4/- Sử dụng văn bản thơ có nội dung liên quan trong việc ra đề kiểm tra
đánh giá phần đọc hiểu
Theo tinh thần đổi mới việc ra đề kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển
năng lực học sinh, việc ra đề dạng Đọc hiểu là phần không thể thiếu, dù đó là đề kiểm
tra định kì ( hệ số 1, hệ số 2), kiểm tra học kì, đặc biệt là kì thi Quốc gia THPT hằng
năm. Ngữ liệu để đưa ra trong đề đọc hiểu thường là ngữ liệu nằm ngoài chương trình
nhưng có nội dung gần gũi, phù hợp với trình độ, năng lực và phát huy sáng tạo của
học sinh. Để tập luyện cho học sinh tiếp cận những ngữ liệu văn bản ngoài chương

trình khi làm bài tập đọc hiểu, trước hết giáo viên chọn ngữ liệu là những văn bản có
trong chương trình. Khi các em đã làm quen với cách làm bài đọc hiểu dạng này, giáo
viên sẽ đưa ra ngữ liệu văn bản ngoài chương trình, những văn bản học sinh chưa biết
trước đó, để học sinh làm bài. Việc chọn ngữ liệu là những văn bản dưới dạng văn
bản thơ có nội dung liên quan cũng góp phần đổi mới trong việc ra đề, kiểm tra đánh
giá. Bởi vì, những bài thơ, đoạn thơ có nội dung hỗ trợ đọc hiểu tất cả các văn bản ở
mục 2.1,2.2,2.3 mà tôi đã trình bày ở trên đều là những ngữ liệu văn bản xếp vào loại
nằm ngoài chương trình nhưng đảm bảo yêu cầu gần gũi, dễ nhận dạng, có những
điểm tương đồng với văn bản trong chương trình. Vì thế, giáo viên có thể vận dụng để
ra đề kiểm tra đọc hiểu cho học sinh.
Việc ra đề kiểm tra đọc hiểu dựa trên văn bản thơ có nội dung liên quan đến
văn bản trong chương trình cũng phải theo quy trình như đề đọc hiểu khác. Đó là phải
thực hiện qua 4 bước:
- Bước 1: Lựa chọn chủ đề: Đọc hiểu văn bản, Làm văn, Tiếng Việt căn cứ vào
chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học). Mỗi chủ đề lớn có thể chia thành những chủ
đề nhỏ để xây dựng câu hỏi/ bài tập.
- Bước 2: Xác định mục tiêu kiểm tra, yêu cầu của kiến thức, nội dung đạt
được trong bài làm của học sinh: Chuẩn kiến thức- kỹ năng theo yêu cầu của môn
học. Chú ý kĩ năng cần hướng đến những năng lực có thể hình thành và phát triển sau
mỗi bài tập.
- Bước 3: Lập bảng mô tả mức độ đánh giá theo định hướng năng lực. Bảng mô
tả mức độ đánh giá theo năng lực được sắp xếp theo các mức: nhận biết - thông hiểu vận dụng - vận dụng cao. Khi xác định các biểu hiện của từng mức độ, đến mức độ
vận dụng cao chính là học sinh đã có được những năng lực cần thiết theo chủ đề.
- Bước 4: Xác định hình thức công cụ đánh giá (các dạng câu hỏi/bài tập). Chú
ý các bài tập thực hành gắn với các tình huống trong cuộc sống, tạo cơ hội để học sinh
được trải nghiệm theo bài học.
Tôi xin minh hoạ 03 đề và đáp án kiểm tra hệ số 1 của khối 12 và 11 có sử
dụng văn bản thơ để làm ngữ liệu trong đề đọc hiểu.
Đề 1: Ngữ văn 12
A/ XÁC ĐỊNH CHUẨN KIẾN THỨC KỸ NĂNG

- Biết cách xác định nội dung chính, biện pháp tu từ trong văn bản.
- Biết vận dụng để viết đoạn văn ngắn
B/ MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA
Người thực hiện: Nguyễn Hiếu , trường THPT Thống Nhất

Năm học 2015- 2016


×