Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn tổ CHỨC SINH HOẠT CHUYÊN môn THEO NGHIÊN cứu bài học TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG ở bộ môn NGỮ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.74 MB, 19 trang )

TỔ CHỨC SINH HOẠT CHUYÊN MÔN THEO NGHIÊN CỨU BÀI HỌC
TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG Ở BỘ MÔN NGỮ VĂN
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sinh hoạt chuyên môn (SHCM) là hoạt động thường xuyên của nhà trường và
là một trong những hình thức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm
cho giáo viên, hình thành các mối quan hệ đồng nghiệp tốt đẹp, xây dựng môi trường
học tập và tự học suốt đời. Từ đó, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng
giáo dục của nhà trường. Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục không thể không
chú trọng đến việc đổi mới SHCM.
SHCM theo nghiên cứu bài học (NCBH) là một nội dung quan trọng trong
SHCM ở trường phổ thông trong các năm học gần đây. Mục tiêu hướng tới của
SHCM theo NCBH thể hiện sự thay đổi căn bản trong đổi mới dạy học. Tất cả các
khâu soạn bài, lên lớp, dự giờ, đánh giá tiết dạy... đều có sự thay đổi về quy trình, nội
dung, phương pháp, cách thức tổ chức. Sự thay đổi cơ bản nhất là: thay vì nghiên cứu,
phân tích và đánh giá hoạt động dạy của giáo viên, SHCM theo NCBH tập trung
nghiên cứu, phân tích hoạt động học của học sinh. Từ đó, giáo viên điều chỉnh, thay
đổi nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh theo định
hướng phát triển năng lực người học. SHCM theo NCBH vì thế sẽ phát huy hiệu quả
tích cực, tạo môi trường tốt để giáo viên nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là
việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Chính từ sự thay đổi căn bản trên mà khi tổ chức SHCM theo NCBH, các tổ
chuyên môn ở các trường phổ thông đã và đang gặp phải những khó khăn nhất định
trong quá trình thực hiện. Cách thức tổ chức chưa bài bản, đúng quy trình; khi thực
hiện chưa đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của SHCM theo NCBH; giáo viên chưa
nắm vững các kĩ thuật trong dự giờ và đánh giá tiết dạy theo hướng phân tích hoạt
động học tập của học sinh... Năm học 2015-2016, cùng với các tổ chuyên môn khác
trong trường THPT Trần Phú, tổ Văn đã thực hiện tổ chức SHCM theo NCBH và đạt
được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, SHCM theo NCBH là một nội dung mới
chưa có đơn vị nào trong tỉnh phổ biến sáng kiến kinh nghiệm về đề tài này để đơn vị
học hỏi nên các thầy cô bộ môn Văn chủ yếu vẫn vừa làm, vừa học, vừa rút kinh
nghiệm, do vậy hiệu quả chưa như mong muốn. Là người trực tiếp tham gia giảng dạy


và chỉ đạo chuyên môn bộ môn Ngữ văn của trường, tôi đã không ngừng động viên
các giáo viên trong tổ cố gắng thực hiện việc SHCM theo NCBH xuyên suốt năm học.
Tôi cũng trực tiếp tham gia dự giờ tiết dạy, dự SHCM với tổ Văn của trường và tham
gia dự giờ, dự SHCM ở tổ Văn của một số trường khác. Từ thực tế đó, tôi đã rút ra
được một số kinh nghiệm về "Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài
học trong trường phổ thông ở bộ môn Ngữ văn" trong trường phổ thông, từ đó đã
chỉ đạo áp dụng trong tổ Văn của trường, đồng thời tư vấn cho một số tổ Văn ở các
trường bạn, bước đầu đã mang lại hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng sinh hoạt

1


của tổ chuyên môn theo tinh thần các văn bản chỉ đạo của Bộ GD&ĐT và Sở
GD&ĐT Đồng Nai.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
NCBH là quá trình nghiên cứu, học hỏi từ thực tế của một nhóm hay nhiều giáo
viên trong một nhà trường nhằm đáp ứng tốt nhất việc học tập có chất lượng của từng
học sinh.
SHCM theo NCBH là hoạt động giáo viên cùng nhau học tập từ thực tế việc
học của học sinh. Ở đó, giáo viên cùng nhau thiết kế kế hoạch bài học, cùng dự giờ,
quan sát, suy ngẫm và chia sẻ bài học (tập trung chủ yếu vào việc học của học sinh).
Đồng thời đưa ra những nhận xét về sự tác động của lời giảng, các câu hỏi, các nhiệm
vụ học tập mà giáo viên đưa ra,… có ảnh hưởng đến việc học của học sinh. Trên cơ
sở đó, giáo viên được chia sẻ, học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm và điều chỉnh nội
dung, phương pháp dạy học vào bài học hằng ngày một cách hiệu quả.
Triết lí theo NCBH là: đảm bảo cơ hội học tập cho từng học sinh; đảm bảo cơ
hội phát triển chuyên môn cho từng giáo viên; tạo môi trường làm việc dân chủ, thân
thiện, hướng tới sự phát triển cho các thành viên trong nhà trường; mỗi học sinh đến
trường đều phải được học và học được; giáo viên phải chấp nhận mọi em học sinh với

đặc điểm riêng của học sinh.
Nhằm hỗ trợ các trường phổ thông triển khai có hiệu quả việc đổi mới đồng bộ
phương pháp dạy học (PPDH) và kiểm tra, đánh giá (KTĐG) chất lượng giáo dục,
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên về phát triển kế hoạch giáo dục
nhà trường theo định hướng phát triển năng lực học sinh, Bộ GD&ĐT có công văn số
5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08/10/2014. Theo đó, các tổ/nhóm chuyên môn ở các
trường phổ thông chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện phân phối chương trình, xây
dựng các chuyên đề dạy học, biên soạn hệ thống câu hỏi/bài tập, thiết kế lại tiến trình
dạy học (gồm các hoạt động học của học sinh), tổ chức dạy học và dự giờ (theo các
chuyên đề dạy học đã xây dựng), phân tích, rút kinh nghiệm bài học.
Sở GD&ĐT Đồng Nai đã tổ chức tập huấn cho đội ngũ tổ trưởng chuyên môn
các trường THPT, Trung tâm GDTX trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai về các nội dung đổi
mới SHCM, đồng thời đã có các văn bản chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện công văn
nói trên của Bộ GD&ĐT.
Công văn số 2507/SGDĐT-GDTrH ngày 27/10/2014 của Sở GD&ĐT Đồng
Nai về việc hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và
kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học
qua mạng, đã hướng dẫn bổ sung một số nội dung sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn,
trong đó yêu cầu các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh phải "Tổ chức tốt việc sinh
hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học". Công văn số 2102/SGDĐTGDTrH ngày 09/9/2015 của Sở GD&ĐT Đồng Nai về việc Hướng dẫn thực hiện
2


nhiệm vụ Giáo dục trung học phổ thông năm học 2015-2016 cũng nêu rõ: "Trên cơ
sở kế hoạch dạy học đã được phê duyệt của Lãnh đạo nhà trường, tổ/nhóm chuyên
môn, giáo viên tổ chức sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và
kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn qua mạng cho
mỗi chủ đề theo hướng dẫn tại Công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày
08/10/2014 của Bộ GDĐT và Công văn số 2507/SGDĐT-GDTrH ngày 27/10/2014
của Sở GDĐT", đồng thời nhấn mạnh: "Tiếp tục đổi mới sinh hoạt tổ/nhóm chuyên

môn trong các cơ sở GDTrH dựa trên nghiên cứu bài học".
Như vậy, SHCM theo NCBH là một trong những hoạt động chuyên môn quan
trọng, mang tính bắt buộc đối với các tổ/nhóm chuyên môn ở các trường phổ thông,
nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học theo hướng tiếp cận năng lực hiện nay.
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tế ở các trường phổ thông hiện nay, SHCM luôn được duy trì hàng tháng
trong năm học (tối thiểu 2 lần/tháng). Việc SHCM cũng đã được đổi mới: ít hành
chính sự vụ hơn, tập trung nhiều vào hoạt động chuyên môn. Tuy nhiên, không phải
trường nào, tổ/nhóm chuyên môn nào cũng xây dựng được kế hoạch và thực hiện tốt
nội dung SHCM theo hướng NCBH.
Tình trạng phổ biến nhất là "đầu voi đuôi chuột". Nghĩa là đầu năm học cũng
chỉ đạo, cũng xây dựng kế hoạch nhưng quá trình thực hiện gặp khó khăn, giáo viên
không nhiệt tình hưởng ứng, người tổ trưởng không kiên quyết đeo bám, nên bài học
nghiên cứu dang dở, có khi dừng lại ở khâu soạn giáo án, có khi đã thực hiện dạy mẫu
trên lớp nhưng tổ chuyên môn chưa ngồi lại để nghiên cứu bài học rút ra những kết
luận: cần điều chỉnh nội dung đối với bài dạy, cần thay đổi phương pháp đối với đối
tượng học sinh như thế nào.
Bên cạnh đó là tình trạng là chưa hiểu rõ bản chất của SHCM theo NCBH nên
thực hiện chưa đúng nguyên tắc và quy trình. Vẫn xảy ra tình trạng chỉ một giáo viên
chọn bài, soạn bài và lên lớp mà không có sự tham gia của cả tổ/nhóm chuyên môn.
Sản phẩm bài dạy mang đậm tính cá nhân của người soạn. Vì vậy, khi dự giờ, các
giáo viên khác vẫn chỉ chăm chú vào việc ghi chép nội dung bài dạy, quan sát giáo
viên mà "quên" nhiệm vụ chính của người dự là quan sát hoạt động học của học sinh.
Đến khi góp ý bài dạy cũng chỉ tập trung nhận xét ưu điểm, hạn chế của người dạy
giống như tiết dự giờ thao giảng bình thường. Thậm chí, có tổ chuyên môn còn đề ra
"sáng kiến" sử dụng bài dạy minh họa làm tiết thao giảng để đánh giá, xếp loại giáo
viên.
Việc SHCM theo NCBH rõ ràng là còn khá "lạ" với nhiều giáo viên, nhiều tổ
chuyên môn. Trong khi đó, các đề tài nghiên cứu khoa học ứng dụng, sáng kiến kinh
nghiệm về SHCM theo NCBH chưa được quan tâm nhiều, chưa được phổ biến rộng

rãi trong toàn ngành để các trường học tập, áp dụng. Vì vậy, có thể năm học 20162017, nghĩa là sau gần 3 năm công văn 5555/BGDĐT-GDTrH của Bộ GD&ĐT ra
đời, ở nhiều trường, nhiều tổ chuyên môn, SHCM theo NCBH vẫn chưa được thực
hiện một cách bài bản đến nơi đến chốn. Những giải pháp sau đây hy vọng phần nào

3


giúp các tổ chuyên môn (trong đó có bộ môn Ngữ văn) thực hiện hiệu quả hơn việc tổ
chức SHCM theo NCBH trong trường phổ thông.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
1. Giải pháp 1: Nắm vững nguyên tắc của SHCM theo NCBH
Nguyên tắc của SHCM theo NCBH được đặt ra cho tất cả các yếu tố, nhân tố
có liên quan đến SHCM theo NCBH như: mục đích hướng tới, thiết kế bài dạy, giáo
viên dạy minh họa, giáo viên dự giờ, thảo luận bài dạy minh họa…
1.1. Mục đích
- Trong SHCM theo NCBH, mục đích hướng tới là nhằm nâng cao năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học, đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo. Vì vậy, không được sử dụng tiết dạy minh họa để đánh giá, xếp loại giờ dạy
theo tiêu chí, quy định.
- Người dự giờ tiết dạy NCBH tập trung phân tích các hoạt động của học sinh
để rút kinh nghiệm cho bài dạy, chứ không tập trung quan sát các hoạt động của
người dạy để nhận xét giáo viên.
- Sau khi nghiên cứu, thảo luận bài dạy mẫu, mỗi giáo viên tự rút ra những kinh
nghiệm để vận dụng vào thực tiễn dạy trên lớp của bản thân.
1.2. Thiết kế bài dạy minh họa
- Bài dạy minh họa được các giáo viên trong tổ thiết kế chủ động linh hoạt
không phụ thuộc máy móc vào quy trình, các bước dạy học trong Sách Giáo viên hiện
hành. Nội dung bài học vẫn đảm bảo chuẩn kiến thức – kĩ năng nhưng được thiết kế

linh hoạt phù hợp với từng đối tượng học sinh. Thiết kế bài dạy là các hoạt động chứ
không phải các bước lên lớp như giáo án thông thường trước đây.
Bảng so sánh:
Giáo án: (5 bước lên lớp)
Thiết kế bài học: (5 hoạt động chính)
Bước 1: Kiểm tra bài cũ
Bước 2: Bài mới
Bước 3: Luyện tập
Bước 4: Củng cố
Bước 5: Dặn dò

Hoạt động 1: Trải nghiệm/Khởi động
Hoạt động 2: Hình thành kiến thức
Hoạt động 3: Thực hành
Hoạt động 4: Vận dụng
Hoạt động 5: Bổ sung

- Giáo viên và tổ/nhóm chuyên môn khi thiết kế bài dạy cần sáng tạo trong việc
sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, đảm bảo các phương pháp và
kĩ thuật dạy học phải phát huy được các năng lực học sinh bao gồm năng lực chung và
năng lực đặc thù của bộ môn Ngữ văn. Các phương pháp dạy học nêu vấn đề, thảo
luận nhóm…, các kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật hỏi chuyên
gia… thường phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, từ đó giúp các em
hình thành được các năng lực theo mục tiêu bài dạy.
4


1.3. Giáo viên dạy minh họa
- Giáo viên dạy minh họa là một thành viên trong tổ/nhóm, được tổ/nhóm phân
công hoặc tự nguyện đảm nhận vai trò chính trong việc soạn bài và là người thực hiện

bài dạy trên lớp. Giáo viên dạy minh họa chính là người thay mặt tổ/nhóm thể hiện
các ý tưởng đã thiết kế trong bài học. Ghi nhớ nguyên tắc này sẽ giúp tổ/nhóm chuyên
môn tránh được tình trạng khi thảo luận, nghiên cứu bài học không sa vào việc góp ý,
nhận xét các hạn chế thuộc về khâu thiết kế bài dạy (vì đó là sản phẩm của cả tổ/nhóm
trong đó có chính mình) mà tập trung phân tích các hoạt động dạy và học. Khuyến
khích tự nguyện nhưng đảm bảo tính luân phiên trong việc phân công giáo viên dạy
minh họa vì như thế giáo viên nào trong tổ/nhóm cũng được trải nghiệm, được "đóng
nhiều vai" trong hoạt động chuyên môn này.
- Giả sử lớp được chọn để NCBH có 40 học sinh thì khi giáo viên lên lớp thực
hiện bài dạy minh họa phải luôn xác định mình đang dạy 40 học sinh trong 1 lớp chứ
không phải dạy 1 lớp 40 học sinh. Dạy 40 học sinh thì trách nhiệm của người giáo
viên sẽ nặng nề hơn nhiều, đòi hỏi người dạy phải thực sự có năng lực. Học sinh gặp
khó khăn trong học tập được giáo viên hướng dẫn, giúp đỡ kịp thời, đảm bảo tất cả
học sinh trong lớp đều có cơ hội học tập, không có học sinh nào bị "bỏ quên".
1.4. Giáo viên dự giờ
- Giáo viên chọn vị trí thích hợp để quan sát tốt nhất hoạt động của học sinh
trong giờ học. Vì vậy, khác với kiểu dự giờ truyền thống, giáo viên dự giờ có thể
đứng, ngồi ở nhiều vị trí khác nhau trong lớp.
- Các giáo viên dự giờ được phân công nhiệm vụ cụ thể trước đó, thực hiện
quan sát, ghi chép, chụp hình, quay phim… những hành vi, tâm lí, thái độ của học
sinh để có dữ liệu phân tích việc học tập của học sinh.
- Tác nghiệp của các giáo viên dự giờ đảm bảo không làm ảnh hưởng đến việc
học tập của học sinh.
1.5. Tổ chức nghiên cứu bài dạy
- Trên cơ sở thực tế bài dạy và kết quả quan sát, ghi chép, thu nhận của những
người dự, các giáo viên cùng nhau phân tích tìm ra những chỗ bài dạy chưa đáp ứng
được mục tiêu đề ra. Từ đó, đề xuất điều chỉnh nội dung bài dạy, thay thế phương
pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp.
- Không khí sinh hoạt phải thân thiện cởi mở, theo tinh thần trao đổi, chia sẻ,
tập trung vào phân tích các hoạt động của học sinh và tìm ra các nguyên nhân và giải

pháp khắc phục.
- Người chủ trì tôn trọng và lắng nghe tất cả ý kiến của giáo viên, không áp đặt
ý kiến của mình hoặc của một nhóm người. Mỗi giáo viên phải tự rút ra bài học và áp
dụng vào thực tế giảng dạy của mình.
2. Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch SHCM theo NCBH cụ thể, chi tiết
Về cơ bản, quy trình SHCM theo NCBH có 4 bước, gồm:
- Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu
- Tiến hành dạy minh họa và dự giờ
5


- Suy ngẫm, thảo luận về bài dạy minh họa (tổ chức nghiên cứu bài học)
- Áp dụng cho thực tiễn giảng dạy.
Thực tế quá trình thực hiện SHCM theo NCBH luôn phát sinh nhiều vấn đề
khiến cho việc tiến hành các bước NCBH gặp nhiều trở ngại, khó khăn. Do vậy, ở
mỗi bước, cần chú ý thực hiện đảm bảo đúng các nguyên tắc trong giải pháp 1 (đã
trình bày ở trên), đồng thời, phải có sự chuẩn bị thật kĩ càng để đảm bảo quá trình
thực hiện không gặp trở ngại từ thực tế của việc NCBH.
Xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu là bước đầu tiên và rất quan trọng. Kế
hoạch NCBH phải được xây dựng từ đầu năm học nằm trong kế hoạch hoạt động
chuyên môn của tổ/nhóm. Cần chọn các bài học phục vụ cho việc NCBH sao cho đến
thời điểm dạy mẫu phải trùng với tiến độ thực hiện phân phối chương trình của bộ
môn. Trong kế hoạch cần thể hiện rõ các mốc thời gian và phân công nhiệm vụ cụ thể.
Ví dụ:
Tháng

Nội dung

Tuần


công việc

Người
thực hiện

Tuần 3



Tuần 4

Chọn các bài sẽ Tổ
nghiên cứu trong trưởng
năm học

Tuần 5

Phân công GV thiết Lê
kế bài dạy (chủ đề 1) A

Tuần 1



Tuần 2

Góp ý hoàn chỉnh Cả tổ
thiết kế bài dạy

Tuần 3




Tuần 4

Tiến hành dạy mẫu

Th.gian
thực
hiện/hoàn
thành


nhân/bộ
phận
phối hợp

Tiết
SHCM

Cả tổ

Tháng 8

Tháng 9


A

Văn Trước

12/9

Ghi chú

TTr gửi
cho GV
các bài
dự kiến
trước qua
e-mail tổ

Nguyễn
Thị B

Trước
19/9

Văn Tiết
1/thứ
3/ngày…

-Cả tổ
-GVCN
lớp 10a1
-Phụ
trách
phòng

-Cô H in
phiếu

quan sát
- Thầy T
chuẩn bị
máy quay

6


máy…

Tháng 10

Tuần 1

Thảo luận, phân tích Cả tổ
bài học

-GVCN
10a1
hướng
dẫn HS
sắp xếp
bàn ghế

Từ 13h30 Phụ trách
thứ Hai phòng
máy
3/10




3. Giải pháp 3: Xây dựng các chủ đề dạy học để thực hiện SHCM theo NCBH
Để thực hiện SHCM theo NCBH có hiệu quả, việc chọn bài học nghiên cứu là
rất quan trọng. Thông thường, các tổ/nhóm chuyên môn hay chọn một bài học trong
chương trình với tiêu chí hàng đầu là bài khó và hay (vì như thế mới đáng để nghiên
cứu). Điều này hoàn toàn đúng. Và lại thường chọn các tiết/bài "có sẵn" trong phân
phối chương trình. Chẳng hạn, trong chương trình Ngữ văn 10 thì chọn các bài: Tấm
Cám, Trao duyên, Chí khí anh hùng, Độc Tiểu Thanh kí, Chuyện chức phán sự đền
Tản Viên, Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, Phương pháp thuyết minh…; Ngữ văn 11
thì chọn các bài: Chiếu cầu hiền, Chữ người tử tù, Đây thôn Vĩ Dạ, Người cầm quyền
khôi phục uy quyền, Thao tác lập luận bình luận,... Điều này cũng không sai. Nhưng
để thực hiện việc thiết kế bài học theo định hướng phát triển năng lực học sinh (thiết
kế bài học bao gồm các hoạt động) thì việc chọn kiểu tiết/bài như đã nói ở trên sẽ khó
khăn cho việc tổ chức các hoạt động. Bởi vì, giáo viên thiết kế bài học phải đảm bảo
về mặt thời gian cho 1 đơn vị bài học theo phân phối chương trình. Mà nếu thế, trong
một thời gian nhất định (1 tiết hoặc 2 tiết), giáo viên không thể tổ chức tốt các hoạt
động: trải nghiệm/khởi động, hình thành kiến thức mới, thực hành, vận dụng... Vì một
hoạt động (chẳng hạn hoạt động trải nghiệm/khởi động), để đáp ứng các yêu cầu: vừa
huy động kiến thức cũ có liên quan đến kiến thức mới sắp hình thành, vừa tạo tâm thế,
hứng thú cho học sinh, thì vài ba phút rất khó thực hiện hiệu quả. Còn nếu dành nhiều
thời gian để đạt được mục tiêu cho hoạt động này thì sẽ khó hoàn thành bài học (ta
vẫn gọi là "cháy giáo án").
Giải pháp để khắc phục tình trạng trên chính là kết hợp với dạy học theo chủ
đề. Một số tiết/bài trong phân phối chương trình sẽ được kết nối, hệ thống thành các
chủ đề dạy học. Chẳng hạn, ở Ngữ văn lớp 10: các tiết/bài về văn học dân gian trong
chương trình học kì I gồm: Khái quát văn học dân gian Việt Nam, Chiến thắng Mtao
Mxây, Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy, Tấm Cám, Tam đại con gà,
Nhưng nó phải bằng hai mày, Ôn tập văn học dân gian Việt Nam sẽ được xây dựng
thành Chủ đề Truyện dân gian Việt Nam, các tiết/bài trong chương trình học kì II
7



gồm: Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh, Lập dàn ý bài văn thuyết minh,
Tính chuẩn xác, hấp dẫn của văn bản thuyết minh, Phương pháp thuyết minh, Luyện
tập viết đoạn văn thuyết minh, Tóm tắt văn bản thuyết minh sẽ được xây dựng thành
Chủ đề Văn thuyết minh.
Khi đã xây dựng các chủ đề dạy học, các tổ/nhóm chuyên môn hoàn toàn chủ
động về việc phân chia số tiết cho mỗi đơn vị kiến thức bài học. Chính vì thế, trong
một tiết, giáo viên chỉ cần tổ chức thực hiện một hoặc hai hoạt động học nào đấy,
miễn sao các hoạt động này đáp ứng được các yêu cầu và mục tiêu của bài học là
nhằm hình thành và phát huy phẩm chất, năng lực học sinh. Bởi vì, "tiến trình dạy học
theo chủ đề được tổ chức thành các hoạt động học của học sinh để có thể thực hiện ở
trên lớp và ở nhà, mỗi tiết học trên lớp có thể chỉ thực hiện một số hoạt động trong
tiến trình sư phạm của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng" (công văn
5555/BGDĐT-GDTrH của Bộ GD&ĐT).
4. Giải pháp 4: Nắm vững kĩ thuật trong dự giờ NCBH
4.1. Chọn vị trí quan sát
- Người dự giờ nên chọn vị trí có thể quan sát các hoạt động của học sinh một
cách tốt nhất. Thông thường, nếu bố trí bàn ghế học sinh trong lớp theo kiểu truyền
thống (tất cả đều hướng lên trên bàn giáo viên) thì người dự giờ có thể đứng/ngồi ở
hai bên hoặc ở phía trước lớp học. Nhưng nếu bố trí bàn ghế để học sinh ngồi theo
từng nhóm thì người dự giờ có thể linh hoạt chọn vị trí sao cho thuận lợi nhất để quan
sát hoạt động học của học sinh.
- Trong quá trình giáo viên và học sinh thực hiện các hoạt động dạy và học,
người dự giờ tránh đi lại khiến học sinh bị chi phối, làm ảnh hưởng đến lớp học.
4.2. Ghi chép khi dự giờ
- Trong quá trình quan sát, người dự giờ cần đánh dấu, ghi chép những biểu
hiện tâm lí, thái độ, hành vi của một số học sinh (có thể quan sát được) trong các hoạt
động/tình huống cụ thể như: Hoạt động nào? Bài tập nào? Thời điểm nào? Biểu hiện
của học sinh đó như thế nào? Vì sao lại như vậy?

- Tránh việc chỉ quan tâm ghi chép tiến trình và ghi tất cả nội dung kiến thức,
lời nói của giáo viên… theo như cách dự giờ truyền thống. Sử dụng phiếu quan sát để
ghi chép nhanh các thông tin một cách ngắn gọn, cụ thể.
MẪU PHIẾU QUAN SÁT
Nội dung hoạt động

Biểu hiện của HS

Nguyên nhân, biện pháp

Hoạt động 1:

- Cảm xúc, thái độ, hành vi, - Vì…
trả lời câu hỏi.
- Tên hoạt động:
- Nên…
- Nội dung của hoạt động: - Bài tập, sản phẩm…
- Có thể là…
nhiệm vụ, các câu hỏi…

8


Hoạt động 2: …

4.3. Quan sát khi dự giờ
- Người dự giờ tập trung vào việc học của học sinh là chủ yếu và trả lời được
các câu hỏi gợi ý sau:
+ Thái độ của học sinh khi tham gia học thể hiện qua nét mặt, hành vi như thế
nào? (thích thú, tích cực, chán nản, uể oải…)

+ Khả năng thực hiện các hoạt động học tập có vừa sức với học sinh không? Học
sinh có hiểu lời hướng dẫn của giáo viên không?
+ Sự tương tác giữa các học sinh trong giờ học như thế nào?
+ Hoạt động nào học sinh hứng thú hay không hứng thú? Vì sao?
+ Hoạt động nào thu hút tất cả học sinh tham gia? Vì sao?
+ Giáo viên làm thế nào để cuốn hút học sinh tham gia?
+ Những học sinh nào chưa/không tham gia vào hoạt động?
- Chú ý đến học sinh tích cực và học sinh chưa tích cực, quan sát khi học sinh
làm việc cá nhân/hoạt động nhóm:
+ Khi học sinh làm việc theo nhóm, thời gian có đủ để học sinh thực hiện nhiệm
vụ được giao hoặc nắm được nội dung bài học không?
+ Có bao nhiêu học sinh tham gia vào thực hiện nhiệm vụ?
+ Có học sinh nào không tham gia vào việc thực hiện nhiệm vụ? Vì sao? Trong
trường hợp đó, nên làm gì để tất cả các học sinh tham gia một cách có ý nghĩa?
5. Giải pháp 5: Nắm vững nội dung, phương pháp, kĩ thuật phân tích bài học
Mỗi bài học bao gồm các hoạt động học theo tiến trình sư phạm của phương
pháp dạy học tích cực được sử dụng. Mỗi hoạt động học có thể sử dụng một kĩ thuật
dạy học tích cực nào đó để tổ chức nhưng đều được thực hiện theo các bước như sau:
- Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp với khả
năng của học sinh, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành khi
thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được
hứng thú nhận thức của học sinh; đảm bảo cho tất cả học sinh tiếp nhận và sẵn sàng
thực hiện nhiệm vụ.
- Thực hiện nhiệm vụ học tập: khuyến khích học sinh hợp tác với nhau khi thực
hiện nhiệm vụ học tập; phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh và có biện
pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không có học sinh bị "bỏ quên".
- Báo cáo kết quả và thảo luận: hình thức báo cáo phù hợp với nội dung học
tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; khuyến khích cho học sinh trao đổi,
9



thảo luận với nhau về nội dung học tập; xử lí những tình huống sư phạm nảy sinh một
cách hợp lí.
- Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: nhận xét về quá trình thực hiện
nhiệm vụ học tập của học sinh; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ và những ý kiến thảo luận của học sinh; chính xác hóa các kiến thức mà học sinh
đã học được thông qua hoạt động.
Căn cứ vào đó, chúng ta có thể phân tích các hoạt động của giáo viên và học
sinh theo 03 mức độ khác nhau:
- Mức độ 1: Đạt
- Mức độ 2: Khá
- Mức độ 3: Tốt
* Phân tích hoạt động của giáo viên theo 3 mức độ:
Tiêu chí

Mức độ
Mức 1

Mức 2

Mức 3

Mức độ sinh
động, hấp dẫn
HS
của
phương pháp
và hình thức
chuyển giao
nhiệm vụ học

tập.

HS được giao nhiệm
vụ học tập cụ thể.
Tuy nhiên, phương
thức chuyển giao chưa
lôi kéo được HS vào
nhiệm vụ học tập.
Nhiều HS còn thụ
động với nhiệm vụ
học tập được giao.

HS được giao nhiệm
vụ học tập và được
hướng dẫn cụ thể.
Phương thức chuyển
giao rõ ràng đa số HS
hiểu được nhiệm vụ
học tập.

HS được giao nhiệm
vụ cụ thể, được hướng
dẫn rõ ràng, phương
thức chuyển giao sinh
động, lôi kéo được
tham gia HS, HS hiểu
và chủ động thực hiện
được các nhiệm vụ GV
giao.


Khả
năng
theo
dõi,
quan sát, phát
hiện kịp thời
những
khó
khăn của HS.

Biết thu thập thông tin
phản hồi về mức độ
nhận thức của HS để
điều chỉnh phương
pháp dạy học kịp thời,
song còn hình thức;
một số HS còn gặp
khó khăn trong học
tập GV chưa phát hiện
được.

Biết vận dụng các biện
pháp khác nhau để
quan sát, phát hiện, thu
thập thông tin phản
hồi kịp thời từ phía
HS. Sử dụng các
thông tin thu thập
được để điều chỉnh,
uốn nắn HS kịp thời,

song hiệu quả chưa rõ
ràng.

Khả năng quan sát theo
dõi phát hiện kịp thời
khó khăn của HS tốt:
cử chỉ, hành vi, nét
mặt, thái độ, qua vở ghi
bài, câu hỏi phát vấn,
…) GV kịp thời điều
chỉnh và giúp đỡ HS
còn khó khăn trong học
tập, bước đầu có kết
quả.

Mức độ phù
hợp, hiệu quả
của các biện
pháp hỗ trợ

Trong quá trình học tập
các mối quan hệ tương
tác giữa: HS với HS,
HS với GV, HS với tài

Trong quá trình học tập
các mối quan hệ tương
tác giữa: HS với HS,
HS với GV, HS với tài


Trong quá trình học
tập GV tổ chức được
các mối quan hệ tương
tác giữa HS với HS, HS

10



khuyến
khích HS hợp
tác, giúp đỡ
nhau khi thực
hiện nhiệm vụ
học tập.

liệu học tập đã được
GV chú ý tổ chức song
còn mang tính hình
thức và hiệu quả chưa
cao.

liệu học tập đã được với GV, HS với tài liệu
GV chú ý tổ chức, học tập diễn ra rất tích
bước đầu mang lại kết cực và hiệu quả.
quả nhất định.

Mức độ hiệu
quả hoạt động
của GV trong

việc tổng hợp,
phân tích, đánh
giá kết quả hoạt
động và quá
trình thảo luận
của HS.

Trong quá trình học
tập HS được tổng hợp,
phân tích, đánh giá kết
quả hoạt động và quá
trình thảo luận, song
còn mang tính hình
thức, áp đặt.

Trong quá trình học
tập HS được phân
tích, tổng hợp, đánh
giá kết quả hoạt động
và quá trình thảo luận,
được tự đánh giá bản
thân và đánh giá lẫn
nhau, bước đầu có
hiệu quả. Song mới
chỉ tập trung vào một
số HS.

Trong quá trình học
tập đa số HS được tự
tổng hợp, phân tích kết

quả hoạt động và quá
trình thảo luận, được
đánh giá bản thân và
đánh giá lẫn nhau,
được uốn nắn kịp thời
những sai sót lệch lạc
về kiến thức, kĩ năng,
thái độ và hành vi theo
hướng tích cực: HS
cảm nhận không bị áp
đặt, được tôn trọng và
cảm thấy mình có giá
trị.

* Phân tích hoạt động học của học sinh theo 3 mức độ:
Tiêu chí

Mức độ
Mức 1

Mức 2

Mức 3

Khả năng tiếp
nhận và sẵn
sàng
thực
hiện nhiệm vụ
học tập của

tất cả HS
trong lớp.

Nhiều HS học tập thụ
động, chưa sẵn sàng
nhận và thực hiện
nhiệm vụ học tập.

HS được giao nhiệm
vụ và hướng dẫn trong
các hoạt động học tập.
Song vẫn còn HS
chưa sẵn sàng tiếp
nhận nhiệm vụ được
giao.

HS được giao nhiệm
vụ cụ thể, được hướng
dẫn rõ ràng, hầu hết
HS hiểu và sẵn sàng
thực hiện các nhiệm vụ
GV giao.

Mức độ tích
cực, chủ động,
sáng tạo, hợp
tác của HS
trong việc thực
hiện các nhiệm
vụ học tập.


HS tích cực hợp tác
trong khi thực hiện
nhiệm vụ học tập.
Tuy nhiên vẫn còn HS
thực hiện các nhiệm
vụ học tập một cách
khiên cưỡng, không
tích cực.

HS tích cực, chủ động
hợp tác trong khi thực
hiện nhiệm vụ học tập,
song chưa lôi cuốn
được mọi HS tham gia
vào các hoạt động học
tập và thi đua lành
mạnh.

HS tích cực, chủ động
hợp tác trong khi thực
hiện nhiệm vụ học tập
và xây dựng được môi
trường học tập thân
thiện, hợp tác, thuận
lợi, an toàn, lôi cuốn
được mọi học HS tham

11



gia vào các hoạt động
học tập và thi đua lành
mạnh.
Mức độ tham
gia tích cực của
HS trong trình
bày, trao đổi,
thảo luận về kết
quả thực hiện
nhiệm vụ học
tập.

Đa số HS làm việc thụ
động một chiều (nghe
giảng và ghi chép
thuần túy).

Ít nhất có khoảng 50%
HS thể hiện hứng thú,
sự tự tin và tích cực
tương tác, trao đổi
thảo luận, hỗ trợ nhau
trong quá trình học
tập.

Hầu hết HS đều thể
hiện hứng thú, sự tự tin
và chủ động tích cực
tương tác, trao đổi thảo

luận và hỗ trợ nhau
trong quá trình học tập.

Mức độ đúng
đắn, chính xác,
phù hợp của
các kết quả thực
hiện nhiệm vụ
học tập của HS.

Chỉ có một số HS có
kết quả thực hiện các
nhiệm vụ học tập đúng
đắn, chính xác và đạt
được mục tiêu của hoạt
động.

Đa số HS trong lớp khi
thực hiện các nhiệm vụ
có kết quả học tập
đúng, chính xác và đạt
được mục tiêu, yêu
cầu của nhiệm vụ học
tập. Tuy nhiên vẫn
còn HS có kết quả học
tập còn thiếu chính
xác, sai sót.

Hầu hết HS trong lớp
đều thể hiện được khả

năng hiểu và làm chủ
được các kiến thức,
hình thành được kĩ
năng đáp ứng được
mục tiêu bài học, có
thái độ tích cực; có khả
năng trình bày được
kết quả học tập một
cách tự tin.

* Các bước phân tích hoạt động học của học sinh
Việc phân tích, rút kinh nghiệm 1 hoạt động học cụ thể trong giờ học được thực
hiện theo các bước sau:
Bước 1: Mô tả hành động của học sinh trong mỗi hoạt động học
Mô tả rõ ràng, chính xác những hành động mà học sinh/nhóm học sinh đã thực
hiện trong hoạt động học được đưa ra phân tích. Cụ thể là:
- Học sinh đã tiếp nhận nhiệm vụ học tập thế nào?
- Từng cá nhân học sinh đã làm gì (nghe, nói, đọc, viết) để thực hiện nhiệm vụ
học tập được giao? Chẳng hạn, học sinh đã nghe/đọc được gì, thể hiện qua việc học
sinh đã ghi được những gì vào vở học tập cá nhân?
- Học sinh đã trao đổi/thảo luận với bạn/nhóm bạn những gì, thể hiện thông qua
lời nói, cử chỉ thế nào?
- Sản phẩm học tập của học sinh/nhóm học sinh là gì?
- Học sinh đã chia sẻ/thảo luận về sản phẩm học tập thế nào? Học sinh/nhóm
học sinh nào báo cáo? Báo cáo bằng cách nào/như thế nào? Các học sinh/nhóm học

12


sinh khác trong lớp đã lắng nghe/thảo luận/ghi nhận báo cáo của bạn/nhóm bạn thế

nào?
- Giáo viên đã quan sát/giúp đỡ học sinh/nhóm học sinh trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ học tập được giao thế nào?
- Giáo viên đã tổ chức/điều khiển học sinh/nhóm học sinh chia sẻ/trao đổi/thảo
luận về sản phẩm học tập bằng cách nào/như thế nào?
Bước 2: Đánh giá hiệu quả của hoạt động học
Với mỗi hoạt động học được mô tả như trên, phân tích và đánh giá về kết
quả/hiệu quả của hoạt động học đã được thực hiện. Cụ thể là:
- Qua hoạt động đó, học sinh đã học được gì (thể hiện qua việc đã chiếm lĩnh
được những kiến thức, kĩ năng gì)?
- Những kiến thức, kĩ năng gì học sinh còn chưa học được (theo mục tiêu của
hoạt động học)?
Bước 3: Phân tích nguyên nhân ưu điểm/hạn chế của hoạt động học
Phân tích rõ tại sao học sinh đã học được/chưa học được kiến thức, kĩ năng cần
dạy thông qua mục tiêu, nội dung, phương thức hoạt động và sản phẩm học tập mà
học sinh phải hoàn thành:
- Mục tiêu của hoạt động học (thể hiện thông qua sản phẩm học tập mà học sinh
phải hoàn thành) là gì?
- Nội dung của hoạt động học là gì? Qua hoạt động học này, học sinh được
học/vận dụng những kiến thức, kĩ năng gì?
- Học sinh đã được yêu cầu/hướng dẫn cách thức thực hiện nhiệm vụ học tập
(cá nhân, cặp, nhóm) như thế nào?
- Sản phẩm học tập (yêu cầu về nội dung và hình thức thể hiện) mà học sinh
phải hoàn thành là gì?
Bước 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động học
Để nâng cao hiệu quả hoạt động học của học sinh cần phải điều chỉnh, bổ sung
những gì về:
- Mục tiêu, nội dung, phương thức, sản phẩm học tập của hoạt động học?
- Kĩ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh: chuyển giao nhiệm vụ học tập;
quan sát, hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập; tổ chức, hướng dẫn học

sinh báo cáo, thảo luận về sản phẩm học tập; nhận xét, đánh giá quá trình hoạt động
học và sản phẩm học tập của học sinh.
IV.

HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI

13


- Đề tài "Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học trong trường
phổ thông ở môn Ngữ văn" phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo
định hướng phát triển năng lực học sinh hiện nay. Đề tài có tính cải tiến từ các giải
pháp đã có và đang triển khai, áp dụng tại đơn vị bước đầu đã mang lại hiệu quả.
- Việc tổ chức SHCM theo NCBH trong nhà trường ở môn Ngữ văn đã giúp
giáo viên trong tổ bộ môn có nhận thức đúng đắn về đổi mới phương pháp dạy học
theo định hướng năng lực học sinh. Các giáo viên đã áp dụng được các phương pháp,
kĩ thuật dạy học tích cực trong các tiết dạy mẫu và bước đầu mạnh dạn thực hiện
trong các tiết dạy hàng ngày.
- Việc tổ chức SHCM theo NCBH góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt
chuyên môn của tổ trong những năm học vừa qua, đồng thời đã giúp mỗi giáo viên tự
nâng cao trình độ tay nghề của mình.
- Với những giải pháp trong chuyên đề sáng kiến kinh nghiệm này, tôi cũng đã
tham gia tư vấn cho các tổ chuyên môn của bộ môn Ngữ văn ở các trường THPT Lê
Quý Đôn, THCS-THPT IPS (Biên Hòa), THCS-THPT Tân Phú (Tp. Hồ Chí Minh),
giúp các tổ chuyên môn thực hiện tốt hơn SHCM theo NCBH tại đơn vị.
V.

ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
1. Sự đổi mới nội dung, phương pháp dạy học từ hướng tiếp cận nội dung sang
tiếp cận năng lực là một thay đổi cơ bản, mạnh mẽ của giáo dục Việt Nam, trong đó

SHCM theo NCBH là một hình thức SHCM đáp ứng yêu cầu đổi mới nói trên. Vì
vậy, để các tổ chuyên môn thực hiện tốt việc SHCM theo NCBH, các cấp quản lý
trong nhà trường phải là những người trước tiên cần thay đổi tư duy dạy học theo
hướng phát triển năng lực, nghĩa là phải có năng lực thích ứng với thay đổi trong bối
cảnh đổi mới giáo dục và nhà trường phổ thông hiện nay.
2. Cần kết hợp việc xây dựng các chủ đề dạy học với hoạt động SHCM theo
NCBH (theo tinh thần của công văn 5555/BGDĐT-GDTrH). Tổ/nhóm chuyên môn
cần xây dựng được các chuyên đề dạy học (chọn các bài học có cùng chủ đề để xâu
chuỗi lại thành một chủ đề dạy học gồm nhiều bài, được thực hiện trong nhiều tiết).
Trên cơ sở các chuyên đề dạy học đã được xây dựng sẽ tiến hành SHCM theo NCBH.
3. Giáo viên mạnh dạn thiết kế bài dạy theo mô hình mới (theo hướng tiếp cận
năng lực). Theo đó, thiết kế bài dạy bao gồm các hoạt động (hoạt động khởi động/trải
nghiệm; hoạt động hình thành kiến thức mới; hoạt động thực hành; hoạt động vận
dụng; hoạt động bổ sung) chứ không phải các bước lên lớp như giáo án thông thường.
4. Chọn lớp có sĩ số học sinh không quá đông và có ý thức học tập tương đối
tốt (bởi lớp đông quá sẽ khó tổ chức hoạt động, lớp yếu và ý thức học tập kém quá sẽ
không hợp tác với giáo viên...)
5. Duy trì việc SHCM theo NCBH trong suốt năm học và được tiếp tục ở các
năm học kế tiếp. Cuối mỗi năm học, người quản lí cần yêu cầu các tổ chuyên môn báo
cáo kết quả thực hiện SHCM theo NCBH trong năm học và dự kiến kế hoạch thực
hiện cho năm học tiếp theo, từ đó hình thành ở giáo viên ý thức xem SHCM theo
14


NCBH là một hoạt động thường xuyên để đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao
chất lượng dạy học.
6. Lãnh đạo nhà trường cần phải tạo động lực làm việc cho giáo viên để họ
không xem việc SHCM theo NCBH cũng như các hoạt động chuyên môn khác chỉ là
mang tính đối phó. Có như thế, SHCM theo NCBH mới thực sự mang lại hiệu quả
như mong muốn.


15


VI.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương
pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên
môn của trường trung học/trung tâm giáo dục thường xuyên qua mạng. (Số
5555/BGDĐT-GDTrH)
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu hội thảo – tập huấn đổi mới tổ chức và quản
lý hoạt động giáo dục ở trường THPT theo định hướng phát triển năng lực học
sinh, Hà Nội, 2016.
3. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
4. Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai, Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học
2015-2016. (Số 2102/SGDĐT-GDTrH)
5. Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai, Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi
mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt
động chuyên môn của trường trung học qua mạng. (Số 2507/SGDĐT-GDTrH)

16


VII. PHỤ LỤC
Một số hình ảnh dự giờ tiết dạy minh họa môn Ngữ văn ở trường THPT Trần
Phú (Đồng Nai) và trường THCS-THPT Tân Phú (TP HCM):


Người dự ghi hình hoạt động học của HS

GV quan sát, hướng dẫn HS thực hiện nhiệm vụ học tập

17


Quan sát HS làm việc nhóm

HS báo cáo kết quả làm việc nhóm

18


HS được phát huy năng lực cá nhân

NGƯỜI THỰC HIỆN

Lê Việt Hùng

19



×