MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học giữ vai trò quan
trọng với mục tiêu là hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để
học sinh tiếp tục học lên bậc trung học cơ sở. Hiệu trưởng trường Tiểu học
là người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc quản lý nhà
trường, thực hiện mục tiêu giáo dục của Tiểu học. Trong đó, quản lý hoạt
động dạy học là nội dung quan trọng nhất của công tác quản lý nhà trường,
một hoạt động trung tâm của việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông.
Đối với bậc Tiểu học nói riêng, dạy - học hai buổi/ngày đã trở thành
mục tiêu của giáo dục Tiểu học để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, phát triển sự nghiệp GD&ĐT. Dạy học hai buổi/ngày là chủ
trương đúng đắn, phù hợp với kinh tế xã hội hiện nay, khi mà đất nước
bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ưu điểm nổi bật của dạy
hai buổi/ngày là giáo viên có nhiều thời gian sâu sát học sinh hơn, giáo viên
nắm được điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh và có hướng bồi dưỡng
phù hợp. Dạy học hai buổi/ngày là điều kiện đảm bảo dạy học đủ thời gian,
chất lượng học tập các môn bắt buộc sẽ tốt hơn. Học sinh có điều kiện cân
đối việc học tập, rèn luyện và tăng cường các hoạt động giáo dục sức khoẻ,
thẩm mỹ, thể chất. Đồng thời học thêm các môn năng khiếu, tăng cường phát
triển năng lực qua các môn tự chọn, góp phần hình thành nhân cách và phát
triển toàn diện cho học sinh. Dạy học hai buổi/ngày còn đáp ứng nhu cầu của
một số bậc cha mẹ học sinh muốn gửi con ở trường cả ngày để an tâm công
tác, tránh những tác hại ảnh hưởng xấu đến trẻ khi không có sự hướng dẫn
của gia đình và nhà trường.
Thực hiện chủ trương dạy học hai buổi/ngày của Bộ GD&ĐT,
Phòng GD & ĐT thành phố Hưng Yên đã triển khai chủ trương này ở các
1
trường Tiểu học toàn Thành phố. Trong quá trình thực hiện đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông, tỉnh Gưng Yên nói chung, giáo dục Tiểu
học của thành phố Hưng Yên nói riêng đã đạt được những thành quả nhất
định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, nhiều địa phương trong đó có thành
phố Hưng Yên vẫn còn lúng túng trong việc xác định mô hình tổ chức hiệu
quả cho dạy học hai buổi/ngày; chưa xây dựng được chương trình, nội dung
dạy học có chất lượng cho tiết tự học; hình thức tổ chức dạy học còn đơn
điệu; cơ chế, chính sách chưa đáp ứng được thỏa đáng chất xám của giáo
viên,…Do đó, việc xây dựng các biện pháp quản lý hoạt động dạy học hai
buổi/ngày của hiệu trưởng trường Tiểu học yêu cầu cấp thiết trong giai
đoạn hiện nay. Để hoạt động dạy học trong các nhà trường được thực hiện
tốt, điều then chốt là phải tăng cường công tác quản lý của hiệu trưởng đối
với hoạt động này. Từ đó, đánh giá kịp thời, chính xác và có những điều
chỉnh, cải tiến đáng kể, nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học
trong nhà trường. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang thực hiện
việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm đáp ứng yêu cầu đổi
mới của đất nước.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu sáng kiến
“Quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày ở trường Tiểu học thành phố Hưng
Yên” .
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng quản lý hoạt
động dạy học hai buổi/ngày của hiệu trưởng trường Tiểu học thành phố
Hưng Yên, đề xuất biện pháp quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày
nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường Tiểu học.
3. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, việc quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày ở trường
Tiểu học trên địa bàn thành phố Hưng Yên còn nhiều hạn chế do một số
nguyên nhân như: Các trường chưa xây dựng được nội dung, chương
2
trình dạy học hợp lý cho tiết tự học; hình thức tổ chức dạy học còn đơn
điệu; cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu...Vì vậy, nếu đề xuất được biện
pháp quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày phù hợp và khả thi thì sẽ
nâng cao chất lượng dạy học Tiểu học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý hoạt động
dạy học hai buổi/ngày của hiệu trưởng trường Tiểu học.
4.2. Đánh giá thực trạng của quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày
của hiệu trưởng trường Tiểu học thành phố Hưng Yên và nguyên nhân của
thực trạng.
4.3. Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày của
hiệu trưởng trường Tiểu học thành phố Hưng Yên
3
Chương 1 : Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày của
Hiệu trưởng trường Tiểu học.
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Việc nâng cao chất lượng giáo dục phải được tiến hành ngay từ bậc
Tiểu học, bậc học trang bị cho người học những kiến thức nền tảng quan
trọng nhất để họ có thể tiếp tục phát triển ở các bậc học cao hơn và ngoài
xã hội. Mỗi một nhà trường Tiểu học cần phải xác định cần có sự đầu tư
đúng mức cho hoạt động dạy học nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
và không ngừng biến đổi của xã hội.
Dạy học hai buổi/ngày đã được nghiên cứu và triển khai từ rất sớm
ở các nước phát triển trên thế giới. Các công trình nghiên cứu đã chứng
minh học sinh Tiểu học sẽ được phát triển năng lực cá nhân, hình thành
giá trị đích thực của nhân cách học sinh nhờ sự kết hợp hài hòa giữa học
tập, rèn luyện và vui chơi. Nhiều nước trên thế giới thực hiện hoặc hướng tới
thực hiện 5 ngày học/tuần, thời gian học của học sinh cũng được kéo dài cả
ngày với nội dung đan xen phù hợp giữa những môn học và thời gian vui
chơi. Như ở Anh, các trường Tiểu học thường được tổ chức theo mô hình
sau:
a, Buổi sáng học Toán, Tiếng Anh; buổi chiều học các môn học
khác.
b, Buổi sáng học Toán, Tiếng Anh và các môn học khác; buổi chiều
học các môn học khác.
c, Học Toán và Tiếng Anh vào các thời điểm khác nhau, khi học
sinh cảm thấy khỏe khoắn. Thậm chí nhiều nước còn cung cấp bữa ăn
trưa miễn phí cho học sinh. Một số nước ở châu Á, như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Indonexia, Philippin, Thái Lan, Singapore… Đã có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học về vấn đề này và đã tổ chức thực hiện tốt việc cho học
sinh học hai buổi/ngày tại trường.
4
Ở Việt nam, rất nhiều hội thảo, đề tài, công trình nghiên cứu nhằm đưa
ra những biện pháp tốt nhất cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện
ngay từ bậc Tiểu học. Muốn nâng cao chất lượng toàn diện, một trong các giải
pháp là nhà trường Tiểu học phải tăng quỹ thời gian học tập ở trường cho học
sinh, tạo điều kiện đổi mới nội dung và phương pháp dạy học.
Để thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, Bộ GD&ĐT đã triển
khai hình thức dạy học hai buổi/ngày ở các địa phương có điều kiện
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục trong toàn ngành, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo người công dân trong tương lai, cống hiến
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng đất nước.
Trong Hội nghị bàn về kế hoạch chuyển dần trường Tiểu học sang học
hai buổi/ngày được tổ chức tại Đà Nẵng tháng 04 năm 1994, Hội nghị đã
kết luận:“Chuyển dần trường Tiểu học sang học hai buổi/ngày là công
việc lớn của ngành ta”. Do đây cũng là chủ trương lớn của Bộ GD&ĐT
nên trong hướng dẫn nhiệm vụ năm học của Vụ Giáo dục Tiểu học - Bộ
GD&ĐT từ năm học1995-1996 cho đến nay đều đề cập tới việc tổ chức
dạy học hai buổi/ngày và việc chuyển dần trường Tiểu học sang học hai
buổi/ngày.
Điều lệ trường Tiểu học (Quyết định số 3257/GDĐT ngày 8/11/1994
của Bộ GD&ĐT) có ghi rõ: “Trường Tiểu học có thể tổ chức nội trú hoặc
bán trú một phần hoặc toàn thể học sinh, tuỳ theo yêu cầu và khả năng của
trường, của cha mẹ học sinh và của địa phương...” và “...ở những nơi có điều
kiện, có thể tổ chức cho học sinh học tập hai buổi/ngày”. [6]
Ngày 28/12/1994, Vụ Giáo dục Tiểu học - Bộ GD&ĐT đã có công văn
909/TH về hướng dẫn thực hiện kế hoạch cho trường, lớp Tiểu học dạy học hai buổi/ngày.
Trong chỉ thị của Bộ Trưởng Bộ GD&ĐT về việc dạy thêm ngoài giờ
số 17/GD ngày 31/8/1995 chỉ đạo: “Riêng ở bậc Tiểu học, khuyến khích các
trường Tiểu học có điều kiện tổ chức dạy hai buổi/ngày hoặc tổ chức bán trú
5
ngay trong trường” và chỉ thị số 15/2000/CT-BGD&ĐT ngày 17/5/2000 về
các biện pháp cấp bách tăng cường quản lý dạy thêm, học thêm có hướng
dẫn “Tổ chức tốt để thu hút tối đa học sinh vào các lớp học hai buổi/ngày
theo nguyện vọng của gia đình học sinh”.
Để tiếp tục tạo điều kiện triển khai tốt hơn nhiệm vụ tổ chức dạy
học hai buổi/ngày, ngày 03/03/2010, Bộ GD&ĐT đã tổ chức Hội thảo “Đào
tạo và bồi dưỡng giáo viên hướng tới dạy học cả ngày ở Tiểu học”.
Các công trình nghiên cứu khoa học về dạy học hai buổi/ngày ở trường
Tiểu học và quản lý dạy học hai buổi/ngày ở trường Tiểu học và các bậc học
khác cũng được nhiều tác giả triển khai nghiên cứu ở một số địa phương trong
cả nước với những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.
Tác giả Dương Kim Tuyến, (2003) đã nghiên cứu để đề xuất một số
biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả dạy học hai
buổi/ngày ở trường Tiểu học quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Tác giả Lê Thành Danh (2006) đã nghiên cứu một số biện pháp quản lý
của hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả dạy học hai buổi/ngày tại một số
trường Trung học phổ thông khu vực Thành phố Hồ Chí Minh.
Các tác giả cũng đã tập trung khai thác nghiên cứu vấn đề này ở các địa
phương khác nhau như: Thái Thị Bích Vân (2008) với đề tài “Biện pháp
quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày của hiệu trưởng các trường Tiểu
học quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng”, Dương Thị Hồng Minh (2008) với
“Thực trạng dạy học hai buổi/ngày ở trường Tiểu học thuộc quận Đống Đa,
Hà Nội và đề xuất biện pháp quản lý”, Nguyễn Văn Phước (2010) với “Một
số biện pháp quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày của hiệu trưởng các
trường Tiểu học trên địa bàn quận ba, thành phố Hồ Chí Minh”, Hoàng Thị
Minh Hương (2013) với “Biện pháp quản lý dạy học hai buổi/ngày ở trường
Tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội”.
Trong những năm qua, giáo dục Thành phố Hưng Yên có nhiều khởi
sắc và cũng đã đạt được nhiều thành tích. Toàn ngành GD&ĐT Thành phố
6
Hải Dương cũng có nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của
các cấp học. Các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học ở trường
Tiểu học được triển khai nghiên cứu khá phong phú, nhưng nghiên cứu về
quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày của hiệu trưởng trường Tiểu học
thành phố Hưng Yên chưa được đề cập đến.
1.2. Hoạt động dạy học hai buổi/ngày ở trường Tiểu học
1.2.1. Khái niệm hoạt động dạy học
Khái niệm hoạt động dạy
Hoạt động dạy là hoạt động của giáo viên, có đối tượng là học sinh với
hoạt động học của các em. Bằng hoạt động dạy, giáo viên tổ chức cho học sinh
thực hiện hoạt động học, tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh nội dung học tập.
Hoạt động dạy của giáo viên là đưa học sinh vào quá trình thực hiện
các hành động học bằng hệ thống thao tác xác định thông qua những việc
cụ thể sau:
- Đưa ra mục đích, yêu cầu, nghĩa là xác định sản phẩm học tập và tiêu
chuẩn đó đối với mỗi tiết học, mỗi bài học.
- Cung cấp phương tiện, điều kiện để học sinh thực hiện hoạt động học
phù hợp với nội dung học tập.
- Vạch ra trình tự thực hiện các hành động, thao tác và những quy định
chặt chẽ phải tuân theo khi thực hiện các hành động, các thao tác theo quy
trình đó.
- Chỉ dẫn học sinh làm theo quy trình, đồng thời trong quá trình đó giáo
viên theo dõi, giúp đỡ học sinh trong trường hợp học sinh gặp khó khăn.
- Đánh giá và hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả học tập.
Đó là những việc chính trong quá trình thực hiện hoạt động dạy cụ thể
của giáo viên. Trên thực tế không phải môn học nào, tiết học nào cũng diễn ra
như vậy mà tùy thuộc vào nội dung và phương tiện cụ thể mà hoạt động dạy
của giáo viên thực hiện theo những phương pháp khác nhau.
Khái niệm hoạt động học
7
Hoạt động học là hoạt động chiếm lĩnh, hay nói cách khác là hoạt động
lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo tương ứng với tri thức đó. Nghĩa là tri thức,
kỹ năng kỹ xảo là đối tượng của hoạt động học.
Như vậy, học sinh thực hiện hoạt động học cũng chính là để chiếm lĩnh
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới. Khi một học sinh thực hiện hoạt động học thì
chính học sinh đó đã trở thành chủ thể chiếm lĩnh nội dung học tập mới, chủ
thể hành động tích cực cả trí óc và tay chân. Trong quá trình này, các chức
năng tâm lý học sinh được vận hành tích cực.
Hoạt động học làm thay đổi chính chủ thể. Bằng hoạt động học, mỗi
chủ thể (học sinh) lĩnh hội được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, nhờ vậy mà tạo
được sự phát triển tâm lý của người học. Nhờ hoạt động học mà học sinh có
sự phong phú về tâm hồn, hình thành và hoàn thiện nhân cách. Có thể nói
rằng, hoạt động học tạo sự biến đổi ở chính người học, hình thành nhân cách
học sinh.
Có thể hiểu tổ chức hoạt động học cho học sinh cần quan tâm đến
những vấn đề sau:
- Nội dung chính của hoạt động học chính là đối tượng mà học sinh cần
chiếm lĩnh, đó là hệ thống tri thức thuộc các môn học và hệ thống kỹ năng, kỹ
xảo tương ứng.
- Động cơ hoạt động học của học sinh chính là nhu cầu được mỗi học
sinh nhận thức là tất yếu, trở thành động lực thôi thúc các em học, hay nói
cách khác là cái mà vì nó học sinh thực hiện hoạt động học.
- Nhiệm vụ của hoạt động học là hình thức cụ thể hóa nội dung học tập
thành việc học cụ thể mà mỗi học sinh phải thực hiện để có được sản phẩm
nhất định. Đó chính là các đơn vị kiến thức và kỹ năng cụ thể cùng với
phương tiện cần thiết tương ứng để học sinh có thể thực hiện các hành động
bằng hệ thống các thao tác tương ứng để đạt sản phẩm học tập theo quy định.
Nhiệm vụ học tập là nhân tố quan trọng của hoạt động học, vì không có nó thì
hoạt động học không được cụ thể hóa (không thể thực hiện các hành động,
8
các thao tác học) và như vậy sẽ không thể đạt được kết quả (không thể đạt
được mục đích yêu cầu của việc học, như hiện nay thường xác định là mục
tiêu của từng tiết học).
1.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học
Sự phát triển về mặt sinh lý
Nhìn chung ở lứa tuổi học sinh Tiểu học có những thay đổi cơ bản về
những đặc điểm giải phẫu sinh lý, biểu hiện:
- Hệ xương cứng cáp hơn tuổi mẫu giáo, độ cong của xương sống được
hình thành nên khả năng vận động nhạy bén và chính xác hơn.
- Hệ cơ tăng quá nhanh, có sự đàn hồi tốt hơn tuổi mẫu giáo nên có khả
năng vận động dễ dàng, cơ lớn phát triển hơn cơ nhỏ, dẫn đến học sinh thực
hiện động tác chính xác, tỉ mỉ.
- Hệ tuần hoàn, cơ tim tăng trưởng mạnh nhưng co bóp yếu, đường
huyết mạch tương đối lớn, nên máu đưa lên não đủ, nhờ vậy hoạt động không
mệt mỏi.
- Hệ thần kinh, trọng lượng của não tăng nhanh, gần bằng não người
lớn (90% trọng lượng não người lớn). Tương quan giữa hưng phấn và ức chế
đã có sự thay đổi nhưng hưng phấn vẫn chiếm ưu thế.
Điều kiện về mặt xã hội
Môi trường sống có nhiều thay đổi đưa đến sự thay đổi:
- Thay đổi căn bản vị trí của trẻ trong gia đình và ngoài xã hội.
- Thay đổi cả nội dung và tính chất của hoạt động chủ đạo từ hoạt động
vui chơi sang hoạt động học tập.
Vì vậy, các yêu cầu đặt ra cho trẻ cao hơn, nhiều hơn, buộc trẻ khắc
phục khó khăn.
Hoạt động học tập
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh Tiểu học.
Đây là bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ so với hoạt
9
động vui chơi ở tuổi mẫu giáo.
Hoạt động học tập tốt không chỉ đòi hỏi một trình độ phát triển trí tuệ
cho phép để tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn cần một năng
lực, ý chí nhất định giúp học sinh tự kiềm chế bản thân, vượt khó khăn, cố
gắng thực hiện những yêu cầu cần thiết mà bản thân hoạt động này đòi hỏi.
Về bản chất, hoạt động học tập có đối tượng là các khái niệm khoa học,
các quy luật khoa học và phương pháp nhằm chiếm lĩnh nó nên khi chuyển
sang hoạt động mới, học sinh gặp một số khó khăn nhất định. Khó khăn đó là
khó khăn trong quan hệ với thầy cô giáo, với bạn bè và với gia đình. Khó
khăn xuất hiện khoảng 2 - 3 tháng sau khi nhập trường, trường lớp nhộn nhịp,
chuẩn sách vở, quần áo mới,...mất đi tính hấp dẫn của nó dẫn đến học sinh
Tiểu học xuất hiện tính lơ là trong học tập, nội dung học tập, nhiệm vụ học
tập trở nên nặng nề, mệt mỏi.
Hoạt động lao động
Ngoài lao động tự phục vụ như tuổi mẫu giáo thì ở tuổi này các em bắt
đầu làm những việc nhỏ nhằm giúp bố mẹ trong gia đình, qua đó dạy trẻ
những kỹ năng lao động và hình thành những tình cảm, xúc cảm với lao động.
Hoạt động vui chơi
Ở lứa tuổi này trò chơi vẫn cuốn hút các em và chiếm nhiều thời gian
mặc dù nó không còn là hoạt động chủ đạo.
Một số đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học
*Sự phát triển của các quá trình nhận thức
- Tri giác: Phát triển hơn ở mẫu giáo, đặc biệt là tri giác có chủ định: Tri
giác không gian và tri giác thời gian. Tri giác phát triển dần trong hoạt động.
- Trí nhớ: Nhờ hoạt động học tập mà trí nhớ có sự biến đổi về chất so
với giai đoạn trước. Trí nhớ có chủ định được phát triển dần dần trong quá
trình học tập. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu trí nhớ không chủ định vẫn tồn tại.
- Tư duy: Ở giai đoạn đầu tư duy trực quan - hành động vẫn chiếm ưu
thế. Tư duy phân tích bắt đầu được hình thành nhưng còn yếu nên các biểu
10
tượng được hình thành chưa thực sự chính xác và vững chắc. Cùng với việc
học tập, tư duy logic (dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ) dần dần thay thế tư duy
trực quan hình tượng.
- Tưởng tượng: Óc tưởng tượng của các em đi từ sự phản ánh không
đầy đủ, đúng đắn hiện thực khách quan đến việc phản ánh đúng đắn, đầy đủ.
- Ngôn ngữ của học sinh Tiểu học
Ngữ âm: Nắm được ngôn ngữ nói một cách thành thạo, tuy nhiên vẫn
còn một số từ phát âm chưa đúng.
Ngữ pháp: Đã hoàn chỉnh hơn mẫu giáo nhưng vẫn còn diễn đạt chưa
đầy đủ, khúc triết, chưa biết đặt câu.
Từ ngữ: Trong sáng, giàu hình ảnh, tuy nhiên cách dùng từ chưa hợp lý.
* Chú ý của học sinh Tiểu học phát triển khá mạnh
Giai đoạn đầu mang tính không chủ định, chỉ tập trung chú ý hiện
tượng kỳ lạ, màu sắc rực rỡ, có tính hấp dẫn ngay lập tức. Dần dần, do sự thúc
đẩy của nhiệm vụ học tập mà các em điều khiển và duy trì chú ý một cách bền
vững để lĩnh hội tri thức mới. Đây là điều kiện để chú ý có chủ định hình
thành và phát triển.
* Sự phát triển nhân cách của học sinh
- Sự phát triển của xúc cảm, tình cảm :
Đời sống xúc cảm, tình cảm của học sinh nhỏ khá phong phú, đa dạng
và cơ bản là mang tính tích cực. Tâm trạng sảng khoái, vui tươi thường bền
vững, lâu dài là biểu hiện vốn có ở học sinh. Hay xúc cảm, dễ xúc động và
khó kiềm chế cảm xúc của mình. Tuy nhiên, các em đã biết điều khiển tâm
trạng của mình, thậm chí là che dấu khi cần thiết. Các em hiểu được nguyên
nhân dẫn đến tình cảm của mình nhưng xúc cảm, tình cảm không bền vững,
dễ chuyển hoá (vui đó nhưng lại buồn ngay). Đặc biệt, vào giai đoạn giữa lứa
tuổi này, tình cảm cao cấp phát triển, đó là tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ
và thẩm mĩ.
- Sự phát triển ý chí :
11
Ở lứa tuổi này, hành vi ý chí còn lệ thuộc rất nhiều vào tình cảm ham
muốn nhất thời. Các phẩm chất ý chí như tính độc lập, tính kiềm chế, khả
năng tự chủ,... còn thấp, các em rất dễ bắt chước hành động của người khác,
dễ phạm lỗi trong những hoạt động đòi hỏi tính nghiêm ngặt và căng thẳng
kéo dài.
- Sự tự ý thức :
Được hình thành thông qua hoạt động học tập và giao lưu với mọi
người xung quanh. Trong học tập, các em thực hiện các yêu cầu do giáo viên
đề ra do vậy các em bộc lộ năng lực của mình, tự nhận thức được mình và
hình thành biểu tượng, thái độ đối với bản thân. Trong giao lưu, các em nhận
thức được sự đánh giá người khác về bản thân mình, xác định vị thế của bản
thân đối với họ, nhờ vậy hiểu bản thân mình.
- Sự tự đánh giá :
Tự đánh giá được nảy sinh trên cơ sở tự nhận thức nhưng tự đánh giá
của học sinh Tiểu học lệ thuộc vào những ý kiến, nhận xét, đánh giá của
mọi người xung quanh. Yếu tố quan trọng giúp trẻ tự đánh giá là cha mẹ
cần hướng dẫn trẻ, giúp đỡ trẻ đạt kết quả cao trong học tập cũng như trong
lao động,...
1.2.3. Hoạt động dạy học hai buổi/ngày ở trường Tiểu học
Giáo dục trong thời kì đất nước phát triển và hội nhập phải là một nền
giáo dục tiên tiến. Để đạt được yêu cầu này, cấp Tiểu học phải được học đầy
đủ các môn học, đồng thời tăng quỹ thời gian học tập ở trường, điều đó cũng
có nghĩa là học sinh phải được học hai buổi/ngày, tạo điều kiện cho các em
được học tập và giáo dục có chất lượng.
Chính vì vậy, việc tổ chức dạy học hai buổi/ngày ở trường sẽ là điều
kiện đảm bảo dạy học đủ thời gian, chất lượng học tập các môn bắt buộc sẽ
tốt hơn. Học sinh có điều kiện đảm bảo cân đối việc học tập, rèn luyện và
tăng cường các hoạt động giáo dục sức khỏe, thẩm mỹ, thể chất. Đồng thời
12
học thêm các môn năng khiếu: Thể dục, Mỹ thuật, Hát - nhạc, tăng cường
phát triển năng lực qua các môn tự chọn.
Hoạt động dạy học hai buổi/ngày ở trường Tiểu học gồm những những
nội dung sau:
a, Mục đích của hoạt động dạy học hai buổi/ngày ở trường Tiểu
học
Dạy học hai buổi/ngày là chủ trương đúng đắn, phù hợp với kinh tế
xã hội hiện nay, khi mà đất nước bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Dạy học hai buổi/ngày sẽ là điều kiện đảm bảo dạy học đủ thời
gian, chất lượng học tập các môn bắt buộc sẽ tốt hơn. Học sinh có điều kiện
cân đối việc học tập, rèn luyện và tăng cường các hoạt động giáo dục sức
khoẻ, thẩm mỹ, thể chất. Đồng thời học thêm các môn năng khiếu, tăng
cường phát triển năng lực qua các môn tự chọn, góp phần hình thành nhân
cách và phát triển toàn diện cho học sinh.
Việc dạy - học hai buổi/ngày nhằm tạo điều kiện để:
* Học - dạy đủ thời gian và có chất lượng các môn học bắt buộc,
tránh được việc dạy thêm, học thêm tràn lan, tiếp thu và chiếm lĩnh tri thức
có hiệu quả cao, giảm bớt thời gian học bài và làm bài ở nhà.
* Tăng cường các hoạt động giáo dục sức khoẻ, thẩm mỹ, lối sống,
môi trường và phát triển các môn học năng khiếu. Tăng cường phát triển
năng lực qua các môn tự chọn và qua hoạt động giáo dục ngoài giờ.
* Tạo ra cho học sinh ý thức tự lập, tự rèn luyện, biết cách chung
sống, hình thành thái độ, giá trị đích thực, nhân cách của học sinh, đáp ứng
nhu cầu chăm sóc, giáo dục trẻ em của gia đình và cộng đồng.
Việc tổ chức dạy học hai buổi/ngày ở trường tạo điều kiện để thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, đảm bảo chất lượng của bậc học, tạo cho
trẻ môi trường học tập và vui chơi lành mạnh, đồng thời, thời gian tăng
thêm so với kế hoạch dạy 5 buổi/tuần chủ yếu dành cho việc tổ chức các
13
hoạt động (trong và ngoài lớp) về thực hành và rèn luyện kỹ năng, tự học và
phát triển thể lực, năng khiếu về nghệ thuật, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh, không yêu cầu học sinh làm bài
tập ở nhà.
b, Chương trình dạy học hai buổi/ngày ở trường Tiểu học
Ở Tiểu học, năm học ở nước ta trước đây là 33 tuần, theo chương
trình mới là 35 tuần nhưng vẫn ngắn hơn 5 tuần so với quốc tế là 40 tuần.
Tuần học ở nước ta trước đây là 6 buổi, hiện nay là 5 buổi/tuần và
chỉ mới có khoảng 35% số trẻ được học hai buổi/ngày. Phần lớn học sinh
Tiểu học ở Việt Nam, đặc biệt là khu vực nông thôn chỉ được một buổi/
ngày, không đầy nửa thời lượng so với chuẩn quốc tế.
So sánh thời lượng học tập toàn bậc Tiểu học của Việt Nam với một số
nước trong khu vực và trên thế giới, ta thấy: Ở các nước đó, học sinh được học
một thời lượng từ gấp rưỡi đến gấp đôi thời lượng học của học sinh nước ta.
Bảng 1.1: So sánh thời lượng học tập bậc Tiểu học của Việt Nam
với một số nước trong khu vực
STT
Nước
Nội dung
Số giờ học/ngày
Số ngày học/tuần
Số tuần học/năm
Số năm học bậc Tiểu học
Số giờ học/năm
Số giờ học ở bậc Tiểu học
Việt Nam
Thái Lan
3
5
35
5
495
2475
6
5
40
6
1200
7200
Srilanca
6
5
40
5
1200
6000
(Nguồn: Cung cấp giáo dục cơ bản cho mọi người - Steve Passingham DFDO/2002)
1
2
3
4
5
6
Các trường cần sắp xếp thời khoá biểu sao cho linh hoạt, hợp lý mà
vẫn đảm bảo được nội dung chương trình, kế hoạch mà Bộ GD&ĐT đã đề
ra. Tùy điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng trường để chủ động tiến
hành.
Bên cạnh đó, nhà trường còn phải chú ý đến các hoạt động giáo
14
dục khác như hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoài
giờ lên lớp; kết hợp với các hoạt động giáo dục, dạy học ở buổi thứ hai để
tạo môi trường vui chơi, rèn luyện kiến thức bộ môn nghệ thuật, giảm
căng thẳng trong học tập ở trường.
c, Nội dung hoạt động dạy học hai buổi/ngày ở trường Tiểu học
- Theo quy định của Bộ GD&ĐT, nội dung dạy học hai buổi/ngày ở
trường Tiểu học cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Thời lượng dạy - học buổi sáng hoàn thành chương trình chính
khóa và buổi chiều là các tiết ôn tập, phát triển năng khiếu, hướng dẫn tự
học, cả ngày không quá 7 giờ (420 phút, mỗi tiết học trung bình 35 phút).
- Các tiết ôn luyện văn hoá, nâng cao năng khiếu do sự chủ động của
người quản lý nhà trường, chủ yếu ôn luyện các nội dung sau:
+ Làm bài tập, ôn kiến thức vừa học đối với môn Toán, Tiếng Việt và
một số môn khác.
+ Soạn bài, chuẩn bị bài hôm sau cho môn Tập đọc, Tập làm văn.
+ Nâng cao hơn ở một số môn như Toán, Tập đọc, Tập làm văn.
+ Bổ sung thêm một số tiết năng khiếu như Mĩ Thuật, Nhạc, Múa,
Thể dục,...
Ngoài ra, ở các trường có điều kiện, tổ chức cho học sinh phát triển
thêm các môn năng khiếu theo năng lực, sở trường của trẻ.
+ Đối với những nơi có dạy ngoại ngữ, tin học, cần sắp xếp các tiết học
này vào chương trình học hai buổi/ ngày của học sinh.
d, Hình thức tổ chức hoạt động dạy học hai buổi/ngày
Hình thức dạy học hai buổi/ngày cần tổ chức linh hoạt, mềm dẻo và
phong phú. Khi lên lớp dạy học ở buổi 2 nếu hình thức dạy học đơn điệu,
nghèo nàn, học sinh sẽ rất ngại học, chán học. Bởi thế, bên cạnh việc chủ
động chọn nội dung, thời lượng thích hợp thì hiệu trưởng cũng như giáo viên
cần quan tâm đến việc làm phong phú các hình thức dạy học nhằm chống
15
chán, tạo nhu cầu học, hứng thú học cho học sinh để phát huy tốt nhất vai trò
chủ động, sáng tạo. ý thức tự học, tự rèn luyện của học sinh.
Có một số hình thức tổ chức dạy học ở buổi 2 như là:
* Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động thực tế tại địa phương.
* Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp thông qua các trò
chơi, câu lạc bộ,…
* Tổ chức các hoạt động ngoại khoá…
* Tổ chức đan xen giữa hình thức học cá nhân, học nhóm, học cả lớp.
* Thay đổi giữa các bài tập trắc nghiệm, bài tập tự luận, câu đố, xen
giữa việc dùng các đồ dùng học tập như bảng con, phiếu bài tập, vở ô ly,…
Dù sử dụng hình thức dạy học nào cũng cần đảm bảo:
- Không ảnh hưởng đến thời lượng các tiết đó được cơ cấu cứng ở buổi hai.
- Tạo niềm tin, ổn định tâm lý, tạo tâm thế, nhu cầu học cho học sinh.
- Cách thức dạy học kết hợp nghệ thuật chủ nhiệm phù hợp với tính
cách, năng lực, đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh từng học sinh để mọi học sinh đều
thích học.
e, Điều kiện tổ chức dạy học hai buổi/ngày
Các nhà trường Tiểu học cần chú ý đến một số điều kiện sau khi tổ
chức dạy học hai buổi/ngày để nâng cao chất lượng dạy và học gồm:
* Tổ chức cho học sinh để sách, vở, đồ dùng học tập tại lớp nếu có
điều kiện.
* Khuyến khích tổ chức bán trú cho học sinh một cách linh hoạt, đa
dạng hoạt động bán trú, có thể tổ chức các hoạt động như: Xem phim, xem
tivi, đọc sách, tham gia các trò chơi dân gian,…cùng với nghỉ trưa trong
thời gian giữa hai buổi học.
* Động viên phụ huynh, cộng đồng, đầu tư, đóng góp nhân lực, vật
lực, tài lực để thực hiện giáo dục toàn diện cho học sinh trong hoạt động tổ
chức dạy học hai buổi/ngày.
16
1.3. Quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày của hiệu trưởng
trường Tiểu học
1.3.1. Quản lý nhà trường Tiểu học
Hiệu trưởng trường Tiểu học là người đứng đầu nhà trường, có
quyền cao nhất về hành chính và chuyên môn trong nhà trường, chịu trách
nhiệm trước Nhà nước về mọi mặt hoạt động của nhà trường; thay mặt nhà
trường xây dựng mối liên kết giữa nhà trường và cộng đồng. Chịu trách
nhiệm điều hành, quản lý mọi hoạt động của nhà trường.
Hiệu trưởng trường Tiểu học quản lý nhà trường theo chế độ một
thủ trưởng, chịu sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong trường, cùng các
tổ chức quần chúng phối hợp hoạt động.
Người hiệu trưởng chịu trách nhiệm quản lý toàn diện các mặt
hoạt động trong nhà trường, mà trọng tâm là quản lý quá trình giảng
dạy - giáo dục, trong đó bao gồm: Đảm bảo chương trình, nội dung giảng
dạy các môn, cải tiến việc dạy và việc học, cung ứng những điều kiện dạy
học.
Vị trí, vai trò chức năng của hiệu trưởng được quy định rõ tại điều 54
chương III của Luật Giáo dục. Hiệu trưởng là người do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Nhà nước, nhân dân và cấp
trên. Trực tiếp quản lý, điều hành toàn bộ bộ máy và hoạt động của nhà
trường, thực hiện toàn bộ các nội dung định hướng và phát triển giáo dục đào
tạo trong sự vận hành hệ thống giáo dục quốc dân. Năng lực của hiệu trưởng
có ý nghĩa quyết định đối với quá trình xây dựng và phát triển nhà trường.
Hiệu trưởng trước hết phải là người có phẩm chất đạo đức, tư tưởng
chính trị tốt, biết tập hợp quần chúng tự giác thực hiện nhiệm vụ, phải có “tầm
nhìn” chiến lược đưa nhà trường đạt đến mục tiêu dạy học.
Mục tiêu giáo dục Tiểu học đã khẳng định:
Học xong bậc Tiểu học, học sinh cần phải đạt được yêu cầu chủ yếu
sau đây:
17
+ Có lòng nhân ái, mang bản sắc con người Việt Nam: Yêu quê hương,
đất nước, hòa bình và công bằng bác ái. Biết kính trên nhường dưới, đoàn kết
và sẵn sàng hợp tác với mọi người, có ý thức về bổn phận của mình đối với
người thân, đối với bạn bè, đối với cộng đồng và môi trường sống. Tôn trọng
và thực hiện đúng pháp luật và các quy định ở nhà trường, khu dân cư, nơi
công cộng, sống hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin, trung thực.
+ Có kiến thức cơ bản về tự nhiên, xã hội, con người và thẩm mỹ, có kỹ
năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán, có thói quen rèn luyện thân
thể, giữ vệ sinh và bảo vệ sức khỏe.
+ Biết cách học tập, biết tự phục vụ, biết sử dụng một số đồ dùng trong
gia đình và công cụ lao động thông thường, biết vận dụng làm một số việc
giúp gia đình.
Để nâng cao hiệu quả của dạy học hai buổi/ ngày ở cấp Tiểu học, cần
phải kết hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục: Nhà trường - Gia đình - Xã hội.
Sự kết hợp thống nhất ba môi trường giáo dục là tất yếu trong giáo dục trẻ
em. Song, giáo dục nhà trường bao giờ cũng được coi là khâu trung tâm, có
vai trò chủ đạo, tổ chức phối hợp và định hướng công tác của các lực lượng
giáo dục khác trong xã hội.
Trong những năm trở lại đây, do nhu cầu của các bậc cha mẹ học sinh
muốn gửi con học cả ngày ở trường nên đã đóng góp kinh phí để học sinh ăn
bữa trưa, bữa phụ buổi chiều, bồi dưỡng cho giáo viên dạy buổi thứ hai và
tăng cường trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ dạy và học.
Để nâng cao hiệu quả dạy học hai buổi/ngày ở cấp Tiểu học, ngoài việc
đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ, đổi mới phương pháp dạy học và cách
thức tổ chức thực hiện dạy học hai buổi/ngày, cơ sở vật chất, trang thiết bị
dạy học và nhiều vấn đề liên quan đến các hoạt động giáo dục diễn ra trong
trường thì vấn đề cấp thiết nhất là phải tăng quỹ thời gian học tập ở trường
cho học sinh, tạo điều kiện đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Nhưng
trên thực tế, chúng ta chưa thực hiện được điều đó. Theo kết quả nghiên cứu
18
thực trạng về thời lượng dạy học và hoạt động giáo dục ở trường Tiểu học của
Việt Nam nói chung đều ít hơn so với mức trung bình và chỉ đạt khoảng 2/3
thời lượng dành cho các hoạt động tương ứng của các nước khác trong khu
vực như Thái Lan (cao hơn 47,36%), Malaixia (cao hơn 113,25%) và trên thế
giới như Pháp (cao hơn 71,40%), Australia (cao hơn 44,80%). (Nguồn: Cung
cấp giáo dục cơ bản cho mọi người - Steve Passingham DFD0/2002).
1.3.2. Những chức năng cơ bản của quản lý
Lý thuyết cổ điển trong quản lý đề xuất 4 chức năng quản lý cơ bản và
đến nay cách tiếp cận này được thừa nhận rộng rãi. Những ý tưởng của
H.Emerson từ những năm đầu của thế kỷ XX về các nguyên tắc xác định cách
thức sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên của tổ chức. Từ đó, xác định
trách nhiệm của ban quản trị đối với quản lý công việc.
- Chức năng kế hoạch hóa:
Đây là chức năng cơ bản nhất của quản lý, là bước soạn thảo và thông
qua được những quyết định về chủ trương quản lý quan trọng. Trên cơ sở
những yêu cầu cơ bản kết hợp với những thực tiễn của tổ chức để đưa ra các
mục tiêu, những phương hướng kế hoạch cho sát hợp và có tính khả thi cao.
- Chức năng tổ chức:
Đây là chức năng tổ chức để thực hiện các chủ trương, kế hoạch, các
quyết định bằng cách xây dựng cấu trúc tổ chức của đối tượng quản lý, xây
dựng mạng lưới quan hệ tổ chức tuyển lựa, phân công, sắp xếp bồi dưỡng cán
bộ, làm cho mục tiêu trở lên có ý nghĩa hiện thực và tăng tính hiệu quả về mặt
tổ chức.
- Chức năng chỉ đạo:
Đây là chức năng nhằm chỉ dẫn, vận động, điều chỉnh và phối hợp với
các lực lượng tích cực chủ động theo sự phân công và kế hoạch đã định.
- Chức năng kiểm tra, đánh giá:
19
Đây là chức năng liên quan đến mọi cấp quản lý để đánh giá kết quả
hoạt động của hệ thống. Chức năng này nhằm thực hiện việc xem xét tình
hình thực hiện công việc, đối chiếu với yêu cầu để có cơ sở đánh giá.
1.3.3. Nội dung quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày của hiệu
trưởng trường Tiểu học
Từ những phân tích trên, có thể hiểu quản lý dạy học hai buổi/ngày ở
trường Tiểu học là quá trình hiệu trưởng sử dụng tối ưu các nguồn lực bên
trong và phối hợp với các điều kiện bên ngoài nhà trường, nhằm đảm bảo và
nâng cao chất lượng dạy học hai buổi/ngày, đáp ứng yêu cầu của Ngành và
của cha mẹ học sinh.
1.3.3.1. Quản lý hoạt động dạy của giáo viên
Giáo viên là người tổ chức các hoạt động trong mỗi tiết học, là người
hướng dẫn, điều khiển để học sinh tìm tòi, sáng tạo và chiếm lĩnh kiến thức
trong quá trình học tập. Người giáo viên bằng khả năng kiến thức, trí tuệ, và
năng lực sư phạm của mình làm sao phát huy được tối đa khả năng, trí lực của
học sinh. Để thực hiện được mục tiêu giáo dục toàn diện ở cấp Tiểu học,
trước hết là dạy đủ, dạy tốt, có chất lượng các môn bắt buộc (Toán, Tiếng
Việt, Tự nhiên - xã hội( Khoa học, lịch sử, địa lý), , Kĩ thuật, Mỹ thuật, Hát Nhạc, Thể dục, Đạo đức) đòi hỏi giáo viên phải được đào tạo toàn diện,
chuyên sâu và có năng lực sư phạm.
Quản lý hoạt động dạy của giáo viên gồm:
(1) Quản lý việc thực hiện chương trình, thời khoá biểu trong giờ lên
lớp của giáo viên trong dạy học hai buổi/ngày;
(2) Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp, việc dự giờ đồng nghiệp
và phân tích bài dạy, rút kinh nghiệm sư phạm cho mỗi tiết dạy;
(3) Quản lý hoạt động kiểm tra - đánh giá kết quả việc học tập của
học sinh;
(4) Quản lý hồ sơ chuyên môn của giáo viên;
20
(5) Quản lý việc sử dụng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu
cầu dạy học hai buổi/ngày;
(6) Quản lý dạy học buổi thứ hai theo đúng quy chế chuyên môn.
1.3.3.2. Quản lý hoạt động học của học sinh
Quản lý hoạt động học của học sinh gồm:
(1) Quản lý việc hình thành nền nếp, thái độ học tập của học sinh;
(2) Quản lý việc hướng dẫn học sinh phương pháp học tập, phương
pháp tự học phù hợp nội dung dạy học hai buổi/ngày;
(3) Quản lý việc phát triển năng khiếu cho học sinh;
(4) Quản lý hoạt động học tập, vui chơi, ngoại khóa.
1.3.3.3. Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy học hai
buổi/ngày
Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học rất cần thiết cho quá trình dạy học
của giáo viên và học tập của học sinh. Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị
dạy học là quản lý trường lớp, phòng học, quản lý thiết bị, đồ dùng dạy học và
giáo dục, quản lý thư viện trường học, quản lý những phương tiện phục vụ
cho hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh. Trong công tác này, hiệu
trưởng giữ vai trò quyết định trong việc tìm hiểu, tăng cường và mở rộng hợp
lý cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học.... Quản lý cơ sở vật chất
trước hết là tìm cách đẩy mạnh việc xây dựng trường lớp đảm bảo cho học
sinh đủ chỗ học tập và tham gia các hoạt động khác trong nhà trường. Trong
tình hình hiện nay, quỹ đất eo hẹp, thì đây là một vấn đề vô cùng khó khăn
cần được các lực lượng xã hội quan tâm nhiều hơn đến công tác giáo dục.
Công tác quản lý trang thiết bị dạy học, ngoài việc quản lý một cách
khoa học các đồ dùng, phương tiện dạy học, người hiệu trưởng còn phải có
những biện pháp để giáo viên sử dụng triệt để các đồ dùng dạy học trong mỗi
tiết học và ý thức sáng tạo, tự làm đồ dùng dạy học cho mình và đồng nghiệp
để nâng cao hiệu quả giờ dạy. Người hiệu trưởng phải có kế hoạch bồi dưỡng,
21
kiểm tra, giúp người cán bộ phụ trách các phòng thư viện, thiết bị làm tốt
công việc của mình.
Đối với nhà trường học hai buổi/ngày, quản lý cơ sở vật chất còn thể
hiện ở việc quản lý hệ thống bếp ăn, vật dụng ăn uống của học sinh như
bát, thìa, cặp lồng, cốc, chén, phòng ăn, nghỉ của học sinh vì các em ở
trường cả ngày.
Nội dung quản lý cơ sở vật chất phục vụ dạy học hai buổi/ngày gồm:
(1) Đẩy mạnh việc xây dựng trường lớp, đảm bảo đủ diện tích cho việc
học tập và tham gia các hoạt động khác trong nhà trường của học sinh;
(2) Khuyến khích giáo viên sử dụng và sáng tạo đồ dùng dạy học cho
mình và đồng nghiệp để nâng cao hiệu quả giờ dạy;
(3) Quản lý hệ thống bếp ăn phục vụ ăn bán trú của học sinh.
1.3.3.4. Quản lý công tác chăm nuôi bán trú
Với đặc thù trường Tiểu học hai buổi/ngày, các em học sinh được học
tập, ăn ngủ cả ngày tại trường, nên công tác chăm nuôi, phục vụ bán trú là rất
quan trọng. Phụ huynh học sinh gửi gắm con em mình cả ngày cho nhà
trường, ngoài việc mong muốn cho các em có kết quả tốt trong học tập, còn
muốn thấy các em được khoẻ mạnh, được chăm sóc chu đáo về bữa ăn, giấc
ngủ. Vì vậy, hiệu trưởng phải chú trọng quản lý công tác chăm nuôi bán trú.
Hiệu quả của công tác này cũng chính là chất lượng, uy tín của nhà trường đối
với các trường bạn và đối với cha mẹ học sinh.
Để quản lý công tác chăm nuôi bán trú, người hiệu trưởng phải sát sao,
chú trọng công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, thực phẩm phải rõ nguồn gốc,
xuất xứ. Có kế hoạch cụ thể kiểm tra đột xuất, kiểm tra thường xuyên vệ sinh
bếp ăn và chất lượng bữa ăn. Bên cạnh đó, phải luôn quan tâm đến sức khoẻ
của học sinh vì các em ở trường cả ngày nên công tác y tế học đường phải đặc
biệt chú trọng và xử lý kịp thời các vấn đề liên quan sức khỏe học sinh. Đối
với cán bộ công nhân viên phục vụ công tác nuôi, ăn bán trú phải được tuyển
chọn và kiểm tra thường xuyên, khám sức khoẻ định kỳ. Quản lý, giám sát
22
chặt chẽ bộ phận này sao cho đảm bảo được những yêu cầu của nhà trường về
đạo đức, chuyên môn nấu ăn, sức khoẻ, có nghiệp vụ chăm sóc trẻ và đặc biệt
phải có lòng yêu thương con trẻ như con đẻ của mình.
Ngoài ra, người hiệu trưởng cần có những biện pháp thi đua, động
viên, khích lệ kịp thời những nhân viên làm công tác chăm sóc bán trú như
mọi giáo viên, cán bộ công nhân viên khác để công tác này đạt hiệu quả cao
hơn vì thực hiện tốt công tác này sẽ đảm bảo sức khoẻ, vệ sinh an toàn cho
học sinh, giúp các em khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, có điều kiện học tập tốt hơn.
(1) Quản lý chặt chẽ quy trình vệ sinh an toàn thực phẩm;
(2) Kiểm tra, giám sát để đảm bảo số lượng và chất lượng bữa ăn trưa
cho học sinh;
(3) Tạo điều kiện đảm bảo điều kiện nghỉ trưa cho học sinh và giáo viên;
(4) Tuyển chọn và giám sát, khám sức khỏe định kỳ cho đội ngũ nhân
viên chăm sóc bán trú;
(5) Động viên, khen thưởng kịp thời đội ngũ nhân viên chăm sóc
bán trú.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động dạy học hai
buổi/ngày của hiệu trưởng trường Tiểu học
1.4.1. Nhóm yếu tố thuộc về chủ thể quản lý
Người hiệu trưởng cần chủ động xây dựng chương trình dạy học hai
buổi/ngày, xây dựng quy chế vệ sinh an toàn thực phẩm, đẩy mạnh tăng
cường cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy học hai buổi/ngày, quản lý đội ngũ
giáo viên và nhân viên chăm sóc bán trú…
1.4.2. Nhóm yếu tố thuộc về đối tượng quản lý
- Đội ngũ giáo viên: Nhận thức, năng lực dạy học của giáo viên đáp
ứng yêu cầu dạy học hai buổi/ngày, như khả năng phân phối nội dung và thời
lượng dạy học các môn học, khả năng thu hút và tạo hứng thú cho học sinh
trong dạy học, tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp, năng lực quản lý lớp học,
23
khả năng chăm sóc, quan tâm đến học sinh học hai buổi/ngày, khả năng liên
hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh trong giáo dục và chăm sóc trẻ, …
- Học sinh: Học sinh Tiểu học ở lứa tuổi 6 - 11 tuổi, với điều kiện sức
khỏe, trình độ nhận thức, điều kiện sinh hoạt tại gia đình, khả năng chịu áp
lực học hai buổi/ngày…là khác nhau nên dẫn tới có sự khác biệt trong việc
thích ứng với hoạt động học hai buổi/ngày.
1.4.3. Nhóm yếu tố thuộc về môi trường quản lý
- Ngân sách đầu tư cho giáo dục Tiểu học, đặc biệt cho dạy học hai
buổi/ngày.
- Văn bản chỉ đạo triển khai, kiểm tra đánh giá dạy học hai buổi/ngày
của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT và Phòng GD&ĐT.
- Cơ sở vật chất của nhà trường phục vụ cho dạy học hai buổi/ngày.
- Cha mẹ học sinh: Nhận thức về tầm quan trọng của dạy học hai
buổi/ngày, điều kiện kinh tế,…
- Công tác xã hội hóa giáo dục phục vụ cho dạy học hai buổi/ngày.
24
Chương II : Thực trạng quản lý hoạt động dạy học hai buổi/ngày của
Hiệu trưởng trường Tiểu học Thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
2.1. Đặc điểm tình hình giáo dục Tiểu học của thành phố Hưng
Yên, tỉnh Hưng Yên
2.1.1. Tình hình giáo dục Tiểu học của Thành phố Hưng Yên năm
học 2015 - 2016
Thành phố Hưng Yên là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học
của Tỉnh, trình độ dân trí cao và là nơi có truyền thống hiếu học; đồng thời
được các ban, ngành, đoàn thể, hội cha mẹ học sinh quan tâm tạo mọi điều
kiện về vật chất cũng như tinh thần cho sự nghiệp giáo dục.
Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên nhiệt huyết, có tinh thần trách nhiệm
cao, có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, yêu nghề, tích cực học hỏi, trau dồi
kiến thức nghiệp vụ chuyên môn, tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn cao .
2.1.1.1. Kết quả thực hiện nhiệm vụ giáo dục
- Việc thực hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy
Ngay từ đầu năm học, Phòng GD&ĐT thành phố đã triển khai thực
hiện tốt các văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học của Sở GD&ĐT, Bộ
GD&ĐT. Phòng GD&ĐT đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
năm học và chỉ đạo các trường căn cứ kế hoạch chung để xây dựng kế hoạch
cho phù hợp với thực tế của mỗi đơn vị cơ sở. 100% các trường thực hiện
đúng chương trình, kế hoạch giảng dạy và biên chế năm học đã đề ra, hoàn
thành chương trình giảng dạy và kết thúc năm học đúng thời gian quy định.
- Đổi mới phương pháp dạy, phương pháp học
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy của thầy, phương pháp học của
trò, vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy: Thầy chủ đạo, trò
chủ động tìm tòi, khám phá, phát hiện kiến thức mới. Giao quyền chủ động
việc thực hiện chương trình, kế hoạch bài giảng cho giáo viên. Mỗi giáo viên
phải chủ động xây dựng bài giảng theo yêu cầu đổi mới phương pháp giảng
25