Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học luyện nói trong môn tiếng việt 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.53 KB, 34 trang )

Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

THÔNG TIN CHUNG

Họ và tên tác giả sáng kiến:

Đinh Thị Kiều Khương

Ngày, tháng, năm sinh:

08/05/1980

Đơn vị công tác:

Trường PT Đoàn Thị Điểm Ecopark

Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học
Quyền hạn, nhiệm vụ được giao hoặc đảm nhận: Giáo viên
Đề nghị xét, công nhận sáng kiến: (Cấp tỉnh, ngành, huyện/TP hoặc Trường)
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
Tên đề tài SKKN, lĩnh vực áp dụng: Một số biện pháp nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh khi học luyện nói trong môn Tiếng Việt 1 – Lĩnh
vực áp dụng môn Tiếng Việt.

Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

1



Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Môn Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông nói chung và trường Tiểu học
nói riêng có một vị trí vô cùng quan trọng. Môn học này là cơ sở, là nền tảng giúp
học sinh học tốt các môn học khác. Tiếng Việt vừa là một khoa học vừa là công cụ,
phương tiện giúp học sinh lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư
duy. Việc dạy Tiếng Việt ở trường tiểu học với tư cách là dạy tiếng mẹ đẻ luôn là
vấn đề được quan tâm chú trọng. Trong đó lớp Một có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặt
những viên gạch nền móng cho hệ thống giáo dục phổ thông và quan trọng hơn là
sự hình thành và phát triển nhân cách con người sau này.
Mục tiêu chủ yếu của môn Tiếng Việt lớp 1 hiện nay là chú trọng dạy chữ trên
cơ sở dạy âm và dạy âm là để dạy chữ. Quan điểm mới trong dạy học Tiếng Việt là
quan điểm dạy giao tiếp.
Chương trình Tiếng Việt mới nhấn mạnh chủ trương “Hình thành và phát triển
ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ (nghe – nói - đọc - viết) để học tập và
giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi”. – Quan điểm giao tiếp nói cụ thể
hơn là quan điểm phát triển lời nói định ra nguyên tắc, phương hướng xây dựng
chương trình môn Tiếng Việt. Mỗi phân môn, mỗi tiết học, mỗi nội dung dạy học đều
hướng tới mục đích phát triển lời nói.
Vấn đề phát triển lời nói cho học sinh đã được chủ tịch Hồ Chí Minh dạy:
“Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng
ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”. Và
cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng nói: “Trường học có trách nhiệm lớn
lao trong việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Phải làm cho thế hệ trẻ nói và
viết tốt hơn chúng ta”. Muốn thực hiện được lời dạy đó, trường tiểu học cần phải

có cách thức tổ chức và phương pháp dạy học hợp lý, tích cực nhằm nâng cao chất
lượng dạy - học môn Tiếng Việt, giúp học sinh sử dụng thành thạo Tiếng Việt.
Cho đến nay, việc triển khai chương trình Tiếng Việt 1 mới trên toàn quốc
đã lâu nhưng phần lớn giáo viên vẫn tỏ ra lúng túng, e ngại khi tổ chức dạy luyện
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

2


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

nói cho học sinh, còn học sinh rất khó khăn khi học phần này. Nhìn chung, việc
dạy học nội dung này vẫn chưa đạt hiệu quả cao.
Đây cũng là lý do tôi viết sáng kiến kinh nghiệm với chủ đề: “Một số biện
pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học luyện nói
trong môn Tiếng Việt ở lớp 1”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung và nội
dung luyện nói nói riêng ở lớp 1.
- Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học luyện nói trong môn
Tiếng Việt 1.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Nội dung luyện nói và phương pháp dạy luyện nói môn Tiếng Việt lớp 1.
4. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM:
- Học sinh lớp 1A3 trường Phổ thông Đoàn Thị Điểm Ecopark.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liêu:
Nghiên cứu sách Tiếng Việt 1, sách giáo viên và các tài liệu tham khảo khác

có liên quan đến phần luyện nói của học sinh.
5. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tế:
- Điều tra việc nói của học sinh trong giờ Học Vần và Tập đọc.
- Điều tra về dạy luyện nói của bản thân và đồng nghiệp.
5. 3. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến dạy luyện nói
cho học sinh lớp 1; những hứng thú của học sinh khi nói.
5.4. Phương pháp thực nghiệm:
Áp dụng những biện pháp tìm được vào việc giảng dạy phần luyện nói cho
học sinh lớp 1A3 trường Phổ thông Đoàn Thị Điểm Ecopark.
5.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

3


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

Tổng kết kinh nghiệm đúc rút được trong quá trình dạy luyện nói cho học
sinh lớp 1.
6. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:
- Phạm vi: Phần luyện theo chủ đề của phân môn Học vần; Phần luyện nói
ở cuối tiết 2 phân môn Tập đọc.
- Thời gian nghiên cứu: Từ đầu tháng 8 – 2015 đến cuối tháng 3 năm 2016.

Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

4



Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

PHẦN II. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Mục tiêu của môn Tiếng Việt mới đã thể hiện được quan điểm mới trong
dạy học đó là quan điểm giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bao gồm các hành vi nhận
thông tin và phát thông tin. Trong ngôn ngữ mỗi hành vi đều có thể thực hiện bằng
hai hình thức là khẩu ngữ (nghe, nói) và bút ngữ (đọc, viết). Dạy học theo quan
điểm giao tiếp là xu thế phổ biến trong các tài liệu dạy tiếng mẹ đẻ cũng như dạy
ngoại ngữ ở các nước tiên tiến hiện nay. Quan điểm này được thể hiện trên cả hai
phương diện nội dung và phương pháp dạy học.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về giao tiếp nhưng tựu chung thì về
vấn đề cốt lõi của các định nghĩa là: giao tiếp là hoạt động tiếp xúc, trao đổi giữa
con người với con người trong xã hội, nhằm truyền đạt cho nhau những nhận thức,
những tư duy hoặc nhằm bày tỏ, chia sẻ những tình cảm, thái độ, đối với nhau
cũng như đối với các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan. Như vậy, điều
kiện trước tiên đảm bảo cho một cuộc giao tiếp diễn ra bình thường là phải có ít
nhất hai đối tượng tham gia:1 đóng vai người nói và 1 đóng vai người nghe. Hai
vai này sẽ luân phiên thay đổi nhau trong suốt quá trình giao tiếp, họ cũng phải sử
dụng một thứ ngôn ngữ nhất định, cùng chịu sự chi phối của hoàn cảnh và nội
dung giao tiếp để hướng tới mục đích đã đề ra.
Trong quá trình dạy học luyện nói, lý thuyết giao tiếp giúp giáo viên có sự
định hướng về nội dung và phương pháp dạy học nhằm đạt được mục tiêu dạy học
đề ra. Đó là nhằm phát triển lời nói cho từng cá nhân học sinh. Vì vậy, đòi hỏi giáo
viên cần biết chuyển nội dung dạy học thành những tình huống giao tiếp gần gũi,
giúp học sinh vận dụng kinh nghiệm của mình thực hiện hoạt động giao tiếp. Từ đó

học sinh sẽ có kỹ năng giao tiếp và tất nhiên sẽ phát triển được lời nói cho các em.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Chúng ta cũng đã biết trước khi vào lớp 1, trẻ đã được làm quen với Tiếng
Việt (tiếng mẹ đẻ) trong cuộc sống hàng ngày. Đó là một phương tiện quan trọng
giúp các em giao tiếp với mọi người, với xã hội, giúp các em phát triển tư duy. Khi
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

5


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

vào lớp 1, việc học môn Tiếng Việt một cách có tổ chức, có phương pháp khoa học
sẽ giúp các em củng cố thêm hiểu biết cũng như các kỹ năng, kỹ xảo sử dụng tiếng
mẹ đẻ của mình, từ đó giúp các em học tốt các môn học khác và giao tiếp tốt hơn.
Việc dạy học nội dung luyện nói thực chất là dạy các em tạo lập nên những
ngôn bản nói để phục vụ hoạt động học tập và giao tiếp. Vì vậy nếu giáo viên vận
dụng các phương pháp dạy học một cách phù hợp nhằm phát triển kỹ năng nói để
tổ chức dạy học nội dung luyện nói trong môn Tiếng Việt 1 thì sẽ phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Từ đó nâng cao được hiệu quả dạy
học, tăng cường năng lực sử dụng ngôn ngữ nói của học sinh.
Những yêu cầu về luyện nói ở lớp 1:
Chuẩn kĩ năng nói cho lớp 1:
Chủ đề
-Phát âm

Mức độ cần đạt
-Nói rõ ràng đủ nghe. Nói liền


mạch cả câu.
-Sử dụng nghi thức lời nói - Có thái độ lịch sự, mạnh dạn,

Ghi chú

- Nói đúng lượt

tự nhiên khi nói.

lời, nhìn vào

- Biết nói lời chào hỏi, chia tay

người nghe khi

-Đặt và trả lời câu hỏi

trong gia đình, trường học.
nói.
- Biết trả lời đúng vào nội dung

-Thuật việc, kể chuyện

câu hỏi. Nói thành câu.
- Kể được một đoạn hoặc cả
mẩu chuyện có nội dung đơn
giản được nghe thầy, cô kẻ trên
lớp (kết hợp với nhìn tranh
minh hoạ, đọc lời gợi ý dưới


-Phát biểu, thuyết trình

tranh)
- Biết giới thiệu một vài câu về
mình, về bản thân hoặc một vài
đồ vật quen thuộc.

Hệ thống bài tập luyện nói trong SGK lớp 1:
Sách Tiếng Việt có hai phần:
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

6


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

Phần Học vần có 103 bài được chia làm ba dạng bài cơ bản:
- Làm quen với âm và chữ cái: từ bài 1 đến bài 6
- Dạy – học âm vần mới: từ bài 7 đến bài 103 (82 bài).
- Ôn tập âm vần mới: Cứ 6, 7 bài học âm vần mới lại có một bài ôn.
Nội dung luyện nói trong từng bài được sách giáo khoa xác định rất rõ ràng.
Mỗi bài luyện nói có một tên gọi cụ thể (trừ 5 bài trong phần Làm quen với âm và
chữ). Các bài tập luyện nói được sắp xếp cuối mỗi bài dạy âm, vần mới và được
trình bày bằng tranh minh hoạ, có từ, ngữ chứa âm, vần đã học nói lên chủ đề
luyện nói. Ở phần này yêu cầu luyện nói được lặp đi lặp lại và cách trình bày đơn
giản cho phù hợp với giai đoạn học chữ của trẻ. Mục tiêu của phần này là giúp học
sinh làm quen với không khí học tập mới, mạnh dạn nói cho các bạn nghe và lắng

nghe bạn nói.
Phần Luyện tập tổng hợp
- Trong phần luyện tập tổng hợp được bố trí các bài theo tuần với ba chủ điểm lớn:
Nhà trường, Gia đình, Thiên nhiên – Đất nước (từ tuần 25 trở về sau) Các bài của
mỗi tuần tập trung vào một chủ điểm – Cứ ba tuần hết một lượt chủ điểm. Việc
quay vòng chủ điểm này không phải là sự lặp lại y hệt mà vòng sau mở rộng hơn
vòng trước. Cụ thể:
Loại I: Luyện nói câu chứa tiếng có vần ôn trong bài tập đọc:
+ Kiểu 1: Nói câu chứa tiếng có vần cho trước. Kiểu này có 14 bài.
VD: Nói câu chứa tiếng có vần anh – ach.
M:- Nước chanh mát và bổ.
- Quyển sách này rất hay.
(Tiếng Việt 1 tập hai trang 59).
+Kiểu 2: Nhìn tranh nói câu chứa tiếng có vần cho trước. Kiểu này có 1 bài.
VD: Nhìn tranh nói câu chứa tiếng có vần ăc- ăt. (Tiếng Việt 1 tập hai trang 110).
Loại II: Luyện nói theo đề tài.
+ Kiểu 1: Bài tập nói theo bài
Dạng 1: Trả lời câu hỏi theo tranh: Dạng này có 1 bài. Ví dụ: trả lời các câu hỏi
theo tranh:
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

7


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

M: Tranh 1: Ai nấu cơm cho bạn ăn?
-Mẹ tôi nấu cơm cho tôi ăn

Tranh 2: Ai mua quần áo cho bạn?
Tranh 3: Ai chăm sóc bạn khi ốm?
Tranh 4: Ai vui khi bạn được cô khen?
(Tiếng Việt 1, tập hai – trang 56)
Dạng 2: Nói về một sự vật, sự việc…có nội dung liên quan đến bài tập đọc.
Dạng này có 11 bài. Ví dụ: Gọi tên các loài hoa trong ảnh (Tiếng Việt 1, tập hai
– trang 65)
Dạng 3: Kể về một người, một việc,…có liên quan đến nội dung bài tập. Dạng này
có 5 bài. VD: Kể về người bạn tốt của em (Tiếng Việt 1, tập hai – trang 107)
+ Kiểu 2: Bài tập hỏi - đáp
Dạng 1: Hỏi – đáp về một sự việc, một người, một sự vật, hiện tượng….có liên
quan đến bài tập đọc.
Dạng này có 10 bài: Ví dụ: Hỏi nhau về những việc làm buổi sáng?
M: Sáng sớm, bạn làm việc gì?
-Tôi tập thể dục, sau đó đánh răng, rửa mặt….
(Tiếng Việt 1 tập hai - trang 68)
Dạng 2: Hỏi - đáp theo nội dung bài bài tập đọc. Dạng này có 2 bài. Ví dụ: Hỏi đáp theo bài thơ:
M: Con gì hay nói ầm ĩ?
- Con vịt bầu.
( Tiếng Việt 1 tập hai - trang 113)
Loại III: Luyện nói theo nghi thức lời nói:
Nói lời chào của nhân vật theo tình huống trong bài học. VD: Nói lời
chào của Minh khi gặp bác đưa thư, khi mời bác uống nước. (Tiếng Việt 1 tập
2- trang 137).
Là một giáo viên đã nhiều năm liền dạy lớp 1 nên tôi biết luyện nói là một
nội dung cần thiết, có vai trò quan trọng trong việc góp phần phát triển ngôn ngữ
cho học sinh, là tiền đề cho môn Tập làm văn sau này nhưng không phải là phần dễ
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

8



Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

dạy. Nhiều giáo viên cũng xác định đây là một bộ phận quan trọng trong giờ học
học vần hoặc tập đọc lớp 1, song vì lượng thời gian dành cho nội dung này còn hạn
chế (khoảng 10 phút cuối trong tiết học), nên đôi lúc bị “bỏ qua” hoặc có tiến hành
thì chỉ được tổ chức một cách qua quýt. Còn về phần học sinh thì khả năng luyện
nói trong các giờ học này thường chỉ dừng lại ở việc trả lời các câu hỏi trong sách
hoặc của giáo viên, rất hiếm có học sinh nào biết tự nói một số câu về chủ đề bài
học đưa ra.
3. TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN:
3.1. Về phía giáo viên:
- Xét về nguyên nhân chủ quan đầu tiên cần phải kể đến là quan niệm của giáo
viên, một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ chú
trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học Tiếng Việt thời lượng dành cho hoạt
động nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học sinh tham gia
nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em mạnh dạn, hay
phát biểu mà thôi.
- Giáo viên chưa tập trung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý, môi trường sống của
học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh gặp phải nên
khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay nói trả lời.
Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, nói
ngọng vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô
tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn.
- Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu hỏi dễ lại
dành cho học sinh khá, câu hỏi khó đôi khi muốn học sinh yếu trả lời,…
- Dạy phần luyện nói chỉ đơn giản là gọi học sinh trả lời 2, 3 câu hỏi; chưa hướng

dẫn học sinh biết liên kết các câu thành một đoạn đơn giản đúng chủ đề.
- Có sửa sai nhưng chưa kiên trì, uốn nắn trong mọi tình huống, mọi hoạt động của
bài cũng như ở những giờ học khác.
- Chưa sáng tạo, linh hoạt, chưa biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học trong quá
trình lên lớp và điều chỉnh những nội dung cần thiết, phù hợp để phần luyện nói
đạt kết quả tốt.
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

9


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

- Đồ dùng dạy học dành cho phần luyện nói còn chưa phong phú, chưa phù hợp, sơ
sài chủ yếu dựa vào tranh trong sách giáo khoa.
3.2. Về phía học sinh:
- Chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi giáo viên nêu yêu cầu đến lúc trình
bày thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một số trường hợp
chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ chưa giải thích được theo ý mình là
vì sao có, vì sao không ?
- Còn ỷ lại hoặc nói theo các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu trả lời hay cho
chính mình.
- Do tâm lí rụt rè e ngại: Học sinh lớp 1 khả năng giao tiếp, giao lưu trò chuyện với
mọi người xung quanh còn rất ít. Mặt khác do tâm lí sợ nói sai ý của giáo viên, sợ
bạn bè chê cười khi nói không đúng hoặc nói ngọng nên học sinh cũng rất ít thể
hiện mình, rất ít nói thậm chí đến giờ luyện nói có học sinh còn không nói được
câu nào.
- Học sinh lớp 1 đa số rất hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc ghi nhớ

lời thầy cô dạy là chưa vững chắc.
3.3. Một số hạn chế của sách giáo khoa và sách giáo viên
3.3.1. Sách giáo khoa lớp 1:
- Có bài chủ đề luyện nói không liên quan đến chữ, vần của bài đó. Ví dụ: Bài 20k, kh, kẻ, khế thì chủ đề luyện nói lại là “ù ù, vo vo, vù vù, ro ro, tu tu”.
- Một số chủ đề nói chưa gần gũi,chưa phù hợp với học sinh của từng vùng miền.
Ví dụ: Bài 8- le le, bài 9- vó bè, bài 33- Lễ hội, bài 34 – Đồi, núi.
- Phần luyện tập tổng hợp: Số lượng từng dạng bài tập còn chưa hợp lý. Bài tập về
nghi thức lời nói còn ít (chỉ có 2 bài, chỉ xoay quanh vấn đề nói lời chào, lời chia tay)
đó là bài Mẹ và cô - Sách Tiếng Việt 1 tập 2 trang 73 và bài Bác đưa thư - sách Tiếng
Việt 1 tập 2 trang 136. Số lượng nói theo đề tài nhiều và chủ yếu là độc thoại (đây lại
là mức độ cao của dạng thức lời nói, sẽ rất khó với học sinh lớp 1).
- Những đề tài hội thoại có tranh gợi ý không còn phù hợp với thông tư 30. Ví dụ :
Bài 65 trang 133 sách Tiếng Việt 1 tập một
Chủ đề luyện nói : Điểm mười
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

10


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

Hay trong bài tập đọc: Bàn tay mẹ -sách Tiếng Việt 1 tập 2 trang 56

-Ai nấu cơm cho bạn ăn?

Ai mua quần áo mới cho bạn?

-Mẹ tôi nấu cơm cho tôi ăn


Ai chăm sóc khi bạn ốm?

Ai vui khi bạn được điểm mười?

Bài Chuyện ở lớp – Sách Tiếng Việt 1 tập 2 trang 101 : Hãy kể với cha mẹ: Hôm nay
ở lớp em đã ngoan thế nào.

Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

11


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

3.3.2. Sách giáo viên:
- Phần lớn các bài soạn trong sách giáo viên chỉ là gợi ý cách thức, các bước đơn
giản. Các biện pháp đưa ra để luyện nói cho học sinh chỉ là nêu tên mà không chỉ
ra cụ thể cách thức thực hiện. Ví dụ: Phần học vần, sách giáo viên hướng dẫn dạy
học luyện nói lặp đi lặp lại cách làm sau:
+ Bước 1: Học sinh đọc tên bài luyện nói.
+ Bước 2: Giáo viên có các câu hỏi gợi ý theo tranh cho thích hợp.
+ Bước 3: Học sinh trả lời.
Hoặc: Với bài luyện nói “Bạn đã làm gì để bảo vệ loài chim?” (Sách Tiếng Việt 1
tập hai - trang 152), sách giáo viên chỉ hướng dẫn: Chia nhóm, các nhóm kể cho
nhau xem bạn đã làm gì để bảo vệ các loài chim. Cử người kể trước lớp.
- Hệ thống câu hỏi ở một số bài còn hạn chế:
+ Câu hỏi không kích thích tính tư duy của học sinh. Ví dụ: Bài “Le le”- có câu

hỏi: Vịt, ngan được người nuôi ở ao, hồ. Còn loài vịt sống tự do không có người
chăn được gọi là gì?
+ Có câu hỏi quá dài, khiến người nghe khó theo dõi, trong khi đáp án trả lời lại là
“có” hoặc “không”: Ra giữa nắng bắt chuồn chuồn, châu chấu, cào cào, tối về sụt
sịt, mai không đi học được, có tốt không?

Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

12


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

+ Có câu hỏi trong cùng một hệ thống trùng lặp nhau: Chủ đề “Phim hoạt hình có
câu hỏi 1: Em thấy cảnh gì trong tranh?, câu hỏi 2: Trong cảnh đó em thấy những
gì?, câu hỏi 3: có ai ở trong cảnh? Họ đang làm gì?
Chính vì những khó khăn, hạn chế trên mà giáo viên thêm phần ngại và lúng
túng khi dạy luyện nói cho học sinh. Hơn nữa, nội dung luyện nói còn được coi là
khó dạy, khó học. Dạy nói cho học sinh lớp 1 phải gắn với cả việc dạy đọc, dạy
viết, dạy nghe. Vì vậy khi dạy nội dung này người giáo viên phải có nhiều sáng
tạo, linh hoạt, biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học trong quá trình lên lớp, biết
điều chỉnh những nội dung cần thiết để giờ học đạt kết quả tốt.
4. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
4.1. Giúp học sinh phát triển lời nói
Để giúp học sinh phát triển lời nói, giáo viên cần biết vận dụng lý thuyết hội
thoại vào dạy luyện nói:
4.1.1. Phải tạo được nhu cầu hội thoại cho học sinh
- Việc tạo ra nhu cầu nói năng cho học sinh hết sức quan trọng. Khi có nhu

cầu biểu đạt, các em sẽ mạnh dạn, hứng thú, trình bày chân thực hơn những suy
nghĩ riêng của mình về đề tài đang được nói đến.
- Để tạo ra nhu cầu giao tiếp cho học sinh, giáo viên cần tạo ra những tình
huống giao tiếp giả định nhưng phải gần gũi và có sức hấp dẫn, kích thích nhu cầu nói
của các em . Khi đã hoà mình vào hoàn cảnh đã nhập vai giao tiếp thì khi ấy các em
sẽ thể hiện hết mình, muốn nói thực sự hết mình.
4.1.2. Phải tạo ra được hoàn cảnh giao tiếp tốt:
- Hoàn cảnh giao tiếp trong giờ Tiếng Việt chính là điều kiện lớp học trong
giờ luyện nói. Nó gồm: không khí lớp học, tư thế của giáo viên, các hoạt động
nghe của học sinh, trật tự lớp học và một số hoạt động khác có ảnh hưởng gián tiếp
đến việc nói năng của học sinh. Bởi vì học sinh không thể nói trong hoàn cảnh lớp
học ồn ào hoặc các em sẽ khó diễn đạt trước cặp mắt nghiêm khắc của giáo viên.
Các em sẽ tự tin hơn, phấn khởi hơn trước sự chú ý lắng nghe của các bạn, trước
ánh mắt trìu mến hoặc những lời động viên khích lệ của cô giáo.
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

13


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

- Khi học sinh đang nói giáo viên không nên ngắt lời một cách tuỳ tiện bởi
sự gián đoạn trong lời nói thường làm các em lúng túng, giáo viên chỉ nên sửa sai
hoặc uốn nắn khi các em đã kết thúc phần nói của mình.
4. 2. Rèn kĩ năng nói cho học sinh:
Để rèn kĩ năng nói và khả năng diễn đạt cho học sinh thì giáo viên cần phải
làm những việc sau:
4.2.1. Xác định và nắm rõ mục tiêu chính của chủ đề luyện nói

Chính chủ đề là điểm tựa, gợi ý cho phần luyện nói. Gợi ý sao cho tất cả học
sinh đều được nói, không đi quá xa với chủ đề. Chẳng hạn như chủ đề. “Nói lời
cảm ơn; Con ngoan trò giỏi; Giúp đỡ cha mẹ”…..nếu đi quá sâu sẽ lẫn sang tiết
Đạo đức. Để khắc phục điều này tôi chỉ định hướng các em câu hỏi gợi ý xoay
quanh vấn đề trọng tâm cần luyện nói.
Ví dụ:
Với chủ đề: Nói lời cảm ơn:
+ Em hãy kể cho cô và các bạn trong nhóm nghe về những lần mình đã cảm ơn ai
đó về điều gì?
Với chủ đề Giúp đỡ cha mẹ tôi hỏi:
+ Hai bạn nhỏ đã làm gì để giúp đỡ cha mẹ?
+ Em thường giúp đỡ cha mẹ vào những lúc nào?
+ Em đã giúp đỡ cha mẹ những việc gì? Hãy nói cho các bạn cùng nghe nhé!
Còn với chủ đề: Con ngoan, trò giỏi tôi có câu hỏi gợi ý:
+ Em đã làm được những việc gì để cố gắng là một người con ngoan trong gia
đình?
+ Em đã làm gì để cố gắng trở thành một trò giỏi ở trường học?
4.2.2. Nắm bắt thực tế về khả năng nói của từng em để đưa ra phương pháp,
hình thức dạy cho phù hợp.
Phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối tượng tuỳ nội
dung của từng bài. Tuỳ theo từng chủ đề mà tôi có định hướng cho học sinh khi
luyện nói, khi đặt câu hỏi để giúp các em biết cách nói cho sát nội dung bài và
nói một cách tự nhiên, chủ động không gượng ép. Tôi phải chuẩn bị và dự trù
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

14


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1

……………………………………………………………………..………………………..

thêm một số câu hỏi cho từng đối tượng, đi từ câu hỏi khái quát rồi mới gợi ý
bằng những câu hỏi nhỏ (Khi các em lúng túng sẽ dễ dàng có cơ sở theo định
hướng của cô để rèn nói.)
Ví dụ:
Khi tôi dạy bài 24. Chủ đề : Quà quê Tôi xây dựng hệ thống câu hỏi dành
cho các đối tượng như sau:
- Tranh vẽ gì? (tranh vẽ mẹ đi chợ về cho hai chị em quà.) - dành cho học sinh
trung bình - yếu.
- Quà của mẹ có những gì? (quà của mẹ có nhãn, mía, hồng) - dành cho học sinh
trung bình - yếu.
- Các em thử đoán xem bé đón mẹ hay đón quà? ( hai chị em rất vui, bé chìa hai
tay đón mẹ và cả quà mẹ cho nữa.) - Dành cho học sinh khá - giỏi.
Các em sẽ hào hứng và tham gia vào phần luyện nói một cách chủ động, tích
cực hơn. Nếu các em trả lời đúng nhưng chưa thành câu, giáo viên chú ý uốn nắn
sửa chữa ngay và cho các em nói lại để các em nhớ, tạo thành kĩ năng.
Cần lưu ý để tạo nên ấn tượng tốt cho các em khi giảng dạy nói chung và
đàm thoại nói riêng thì người giáo viên phải thực sự gương mẫu trong việc nói
năng, nói đủ ý, diễn đạt gãy gọn và trong quá trình rèn luyện cho học sinh qua
từng câu, từng bài nên kiên trì, không nóng vội mà quát nạt, giận dỗi hay trách
móc học sinh. Phải hết sức nhã nhặn với các đối tượng trong lớp tạo không khí
vui vẻ, phấn trấn giúp các em có cảm giác thoải mái thì hoạt động nói mới diễn ra
một cách tự nhiên.
Nên chú trọng tìm hiểu điểm tâm sinh lý, những khó khăn của học sinh trong
lớp để có sự sẻ chia, thông cảm, động viên các em nói nhiều và mạnh dạn hơn bắt
đầu từ những điều đơn giản nhất, dần dần tăng mức độ khó lên theo thời gian.
4.2.3. Phân các chủ đề thành nhiều nhóm để lựa chọn phương pháp và hình
thức khác thay đổi cho phù hợp với cá nhân, nhóm, đối thoại, độc thoại,…
Với những chủ đề gần gũi với học sinh như: Chủ đề: bố mẹ, ba má; Quà

quê; Nhà trẻ; Bé và bạn bè; Người bạn tốt; Bữa cơm, Hãy kể với cha mẹ hôm nay
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

15


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

ở lớp con đã ngoan thế nào?;…Giáo viên gợi mở cho học sinh nói qua vốn hiểu
biết thực tế của các em, lựa chọn những hình thức học tập, trò chơi v.v…
Chẳng hạn:
- Chủ đề nói về gia đình: “Bố mẹ - Ba má, Bà cháu”…có thể cho học sinh sắm vai
nhân vật thể hiện tình cảm của ông bà, bố mẹ đã yêu thương, quan tâm, chăm sóc
em hoặc những tình cảm, việc làm của em thể hiện sự hiếu thảo của một người
cháu, người con đối với ông bà, cha mẹ mình.
- Với chủ đề “Vó bè”: Cho học sinh quan sát thật kĩ bức tranh và giới thiệu trực
tiếp đó chính là vó bè. Phân biệt thêm hình ảnh chiếc vó và bè. Gợi ý để các em
nói được dụng cụ đó được đặt ở đâu? Dùng để làm gì?
Với một số chủ đề khó hơn, chưa thật phù hợp với thực tế địa phương (Ví
dụ bài 20, bài 22, bài 30, bài 34, bài 40, bài 54,…) Thì giáo viên cần hướng dẫn
học sinh nghe - nói một cách linh hoạt, khai thác những nội dung gần gũi với học
sinhvà ít nhiều liên quan đến chủ đề (không nhất thiết phải có trong tranh minh hoạ
ở sách giáo khoa) Ví dụ:
Bài 20: Luyện nói về âm thanh của một số sự vật (ù ù, vo vo, vù vù, ro ro, tu
tu) Trước hết cần khai thác vốn hiểu biết của các em về các sự vật vẽ trong tranh
(Em biết sự vật nàovẽ trong tranh? Khi chuyển động sự vật đó phát ra âm thanh
như thế nào?) Giáo viên cũng có thể mở rộng, liên hệ đến các sự vật khác không vẽ
trong tranh nhưng gần gũi với cuộc sống của các em. Ví dụ: Gió thổi vào rặng tre

nghe như thế nào? Tiếng sáo diều trên cao nghe ra sao? Tiếng mưa rơi trên mái
nhà thế nào? Em biết tiếng kêu của những con vật nào?...
Bài 34: Chủ đề Đồi núi, giáo viên có thể dùng tranh trong sách giáo khoa
hoặc tranh ảnh sưu tầm về cảnh đồi núi để giới thiệu và mở rộng hiểu biết cho học
sinh trước khi nêu câu hỏi cho học sinh trả lời, nêu nhận xét về sự vật được vẽ
trong tranh.
Bài 40: Chủ đề Ai chịu khó? Tranh vẽ có hình ảnh minh hoạ có thể chưa rõ
ý chủ đề (chó đuổi gà) song giáo viên chỉ cần dựa vào hình ảnh về người và con
vật để đặt câu hỏi gợi ý học sinh nói về khía cạnh “chịu khó” (Không khai thác nội
dung xa chủ đề). Ví dụ: Bác nông dân chịu khó là gì? Con trâu làm việc thế nào?
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

16


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

Con chim chịu khó làm gì? Chú mèo chịu khó làm gì để giúp ích cho con người?
Con chó chịu khó trông nhà giúp ai? Con gà chăm chỉ kiếm mồi thì gà có chịu khó
không?...
Với một số chủ đề chưa phù hợp thông tư 30:
Bài 65: chủ đề Điểm mười – sách Tiếng việt 1 tập 1; Trả lời câu hỏi theo
tranh trang 56 sách Tiếng Việt 1 tập 2; Hãy kể với cha mẹ hôm nay ở lớp con đã
ngoan thế nào trang 101 sách Tiếng Việt 1 tập hai. Đây là một phần mới vì thông
tư 30 hiện nay là không chấm điểm mà chỉ nhận xét. Vậy khi có chủ đề này giáo
viên phải giải thích cho học sinh biết được những năm học trước giáo viên hàng
ngày chấm điểm cho học sinh thì điểm 10 là số điểm cao nhất tương ứng với
những bạn nắm chắc kiến thức, thể hiện tốt kiến thức bài học. Bên cạnh đó giáo

viên có thể định hướng để học sinh nói ra những câu khen học sinh nắm kiến thức
và thể hiện tốt bài làm của mình mà hàng ngày giáo viên vẫn làm.
4.2.4. Chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ và phong phú:
- Hình ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu
- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để làm phương tiện giảng
dạy. Ví dụ khi dạy về chủ đề: Dế, cá cờ, bi ve, lá đa tôi có thể chuẩn bị sẵn những
vật thật đó để học sinh có thể quan sát trực tiếp tạo hứng thú cho các em. Từ đó gợi
ý các em có thể lấy những đồ dùng đó làm những trò chơi dân gian mà trẻ em xưa
vẫn chơi. Hoặc khi dạy chủ đề: Đèn dầu, đèn điện, đèn huỳnh quang, chủ đề: Rổ
rá, chủ đề: Chuối, bưởi, vú sữa… tôi cũng tiến hành tương tự .
- Tận dụng những tranh ảnh, đồ dùng mà học sinh có thể cùng sưu tầm được. Ví
dụ: tranh ảnh về lễ hội khi dạy về chủ đề Lễ hội, các đoạn video clip về gió, mây,
mưa, bão, lũ……
- Khi phương tiện dạy học đầy đủ, phong phú, sát với thực tế sẽ tạo cho các em hào
hứng, chủ động và tích cực tham gia vào quá trình luyện nói.
4.2.5. Lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp:
a. Gợi ý bằng hệ thống câu hỏi qua phương pháp đàm thoại. Trong quá trình
đàm thoại giữa giáo viên và học sinh dựa trên lời nói của học sinh giáo viên sẽ
chỉnh sửa câu nói sao cho rõ, gọn, đủ ý diễn đạt theo nội dung của chủ đề.
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

17


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

b. Sử dụng tranh ảnh, đồ dùng trực quan: Học sinh quan sát và diễn đạt
những gì đã đạt được quan sát khi nhìn tranh. Mỗi tình huống trong tranh là một

tình huống thể hiện chủ đề của bài. Khi học sinh đã quen với việc luyện nói, giáo
viên sẽ nâng dần hình thức trong quá trình dạy luyện nói.
c. Tổ chức các hoạt động trò chơi, tạo hứng thú, giúp các em mạnh dạn, tự
tin, tích cực tham gia trong quá trình luyện nói. Ví dụ như chủ đề: Nặn đồ chơi; Áo
choàng, áo len, áo sơ mi; Ghế đẩu, ghế xoay, ghế tựa; Phim hoạt hình …. học sinh
sẽ được tham gia chơi nặn hình bằng đất, tô màu, vẽ tranh, hoặc chọn các loại áo
thích hợp với thời tiết…
d. Tổ chức luyện nói theo hình thức cá nhân, nhóm đôi, nhóm bốn,…học
sinh sẽ tự nói cho nhau nghe, cùng trao đổi những nhận biết và bày tỏ cảm xúc của
mình về nội dung chủ đề.
e. Phương pháp quan sát động viên khen thưởng: Trong tiết dạy, tôi thường
chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, đặt câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia
nói. Đối với những em khá giỏi tôi sẽ khuyến khích, gợi mở bằng những câu hỏi
khái quát hơn để giúp các em tự tin, mạnh dạn trình bày ý kiến, cảm xúc của mình
một cách chân thành; tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở, động viên khen
thưởng kịp thời nhằm kích thích sự hứng thú, ham học hỏi của các em. Trong khi
dạy luyện nói tôi thường chú ý đến rèn kĩ năng nói to, rõ tiếng, nói thành câu, đủ ý
diễn đạt, câu nói giàu cảm xúc, ngữ điệu tự nhiên, chân thành.
4.2.6. Vận dụng triệt để thông tư 30 vào quá trình dạy luyện nói:
Tôi thường xuyên bám sát thông tư để nhận xét động viên các em một cách
kịp thời tạo hứng thú cho các em khi học luyện nói. Ví dụ: Với những em nhút
nhát chưa mạnh dạn nếu các em trình bày đúng chủ đề nhưng nói còn nhỏ thì tôi
có thể khen: Cô khen con nói đủ ý, đúng chủ đề nhưng nếu con nói to hơn nữa thì
sẽ rất hay. Hoặc với những em khá giỏi, tự tin khi nói tôi có thể khen: Cô khen con
nói đúng chủ đề, rõ ý, to rõ ràng nhưng nếu con biết kết hợp cử chỉ, điệu bộ trong
khi nói thì thật là tuyệt vời….

Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

18



Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

4.3. Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào dạy luyện nói trong
môn Tiếng Việt.
4.3.1. Vận dụng phương pháp đóng vai
- Phương pháp đóng vai là phương pháp dạy học trong đó giáo viên tổ chức
cho học sinh giải quyết một tình huống của nội dung học tập gắn liền với cuộc
sống thực tế bằng cách diễn xuất ngẫu hứng không cần luyện tập kịch bản trước.
- Phương pháp đóng vai nhằm giúp học sinh thể hiện tình huống giao tiếp
bằng cách đóng vai nhân vật giao tiếp, trau dồi trí tưởng tượng, rèn kỹ năng nói
trong hội thoại, biết thể hiện ngữ điệu, cử chỉ, hành động khi vào vai nhân vật.
Phương pháp này thường dùng khi dạy các bài nói kiểu tình huống giao tiếp, hoặc
trò chuyện, hỏi - đáp về một đề tài.
Ví dụ:

- Bài 31(Học vần): Bé tự giới thiệu
- Bài 60 (Học vần): Nói lời cảm ơn
- Bài: “Bác đưa thư - sách Tiếng Việt 1 tập hai trang 137”: Tập nói lời

chào hỏi của Minh:

+ Khi gặp bác đưa thư
+ Khi mời bác uống nước.

- Nhìn chung, vận dụng phương pháp đóng vai trong dạy luyện nói sẽ tạo
môi trường tự nhiên để rèn luyện kỹ năng nói, học sinh sẽ sáng tạo lời thoại của

mình cho đúng với nội dung bài nêu ra và học sinh nói một cách tự nhiên.
* Một số chú ý khi sử dụng phương pháp đóng vai:
+ Nội dung thực hành đóng vai phải vừa tầm với tất cả học sinh, trong đó tăng
độ khó với học sinh khá giỏi, giảm độ khó với học sinh yếu để tạo điều kiện cho các
em được tham gia đóng vai theo tình huống giao tiếp.
+ Khi tổ chức đóng vai, cần kết hợp với phương pháp kể chuyện, thảo luận …
để tạo điều kiện cho nhiều học sinh được tham gia. Giáo viên cần lưu ý học sinh chú
ý theo dõi, có thái độ đúng đắn và vỗ tay tán thưởng sau khi bạn thể hiện vai diễn.
+ Ngoài ra, giáo viên cần biến đổi tình huống giao tiếp đã cho để tạo ra
các bài tập tình huống giao tiếp mới phù hợp với từng đối tượng học sinh và
giúp học sinh tiến hành bài tập từ đó rèn luyện kỹ năng nói cho các em một cách
có hiệu quả.
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

19


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

Ví dụ: ở bài “Bác đưa thư”, cô giáo biến đổi tình huống giao tiếp như sau:
“Một bạn trong vai bác đưa thư đến bấm chuông, Minh đi ra” Cô mời một em
đóng vai bác đưa thư, một em đóng vai Minh. Như vậy, tình huống biến đổi ở chỗ:
không chỉ có lời nói của bé mà còn có cả lời nói của bác đưa thư đáp lại khi được
Minh chào hỏi và mời nước. Tình huống này có yêu cầu cao hơn, có nhiều em được
tham gia đóng vai hơn.
+ Sau khi học sinh đóng vai, giáo viên tổ chức cho nhận xét, đánh giá, rút
kinh nghiệm, khen ngợi những em thể hiện vai diễn tốt.
4.3.2. Bước đầu vận dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm theo mô hình

VNEN trong dạy học nội dung luyện nói ở lớp 1:
- Đặc trưng phương pháp dạy học hợp tác nhóm là học sinh trước hết phải
làm việc các nhân để có chính kiến riêng của mình, sau đó nói với nhau, đưa ra ý
kiến của mình và lắng nghe ý kiến của các bạn để hoàn thiện thêm ý kiến của mình
…. do vậy học sinh được tạo nhiều cơ hội hơn để diễn đạt, khám phá ý tưởng, mở
rộng suy nghĩ và rèn luyện kĩ năng nói; tự tìm tòi để phải đưa ra được ý kiến của
mình, tạo cơ hội để học hỏi từ các bạn, cũng từ đây các em có kĩ năng giao tiếp tốt
hơn. Việc học tập trong nhóm tăng cường tính tích cực, chủ động, linh hoạt hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học trong đó giáo
viên tạo điều kiện cho học sinh học tập theo từng nhóm nhằm luyện tập khả năng
giao tiếp bằng cách trao đổi, hợp tác, tranh luận, bàn bạc… với nhau để giải quyết
các vấn đề học tập và tìm ra được những tri thức, kỹ năng , kỹ xảo mới cho bản
thân. Qua thảo luận nhóm, ngôn ngữ và năng lực tư duy của học sinh trở nên linh
hoạt hơn, đồng thời còn giúp các em luyện tập tính tự giác, tính đoàn kết tập thể,
có sự mạnh dạn, tự tin trong học tập và giao tiếp.
- Các buổi học thảo luận nhóm bao giờ cũng rất sôi nổi. Những học sinh
nhút nhát, ít phát biểu trong lớp sẽ có môi trường tham gia xây dựng bài. Hơn thế
nữa, hầu hết các hoạt động nhóm đều mang cơ chế tự sửa lỗi và học sinh học lẫn
nhau, theo đó các lỗi sai được giải đáp trong bầu không khí thoải mái.
- Khi tổ chức học nhóm giáo viên cũng có cơ hội tận dụng những ý kiến và
kinh nghiệm của học sinh. Khi đó học sinh có lợi thế hơn khi làm việc độc lập, các
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

20


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..


em dễ nghĩ ra cách làm bài tập. Đồng thời khi học nhóm, mối quan hệ giữa các học
sinh được cải thiện, tạo cho lớp học bầu không khí tin cậy. Mọi người ai cũng thích
hoạt động giao tiếp xã hội, vì thế việc chia nhóm sẽ tạo một thái độ tích cực hơn
với hoạt động giảng dạy.
- Có nhiều cách để chia nhóm: nhóm ngẫu nhiên, nhóm cùng trình độ, nhóm
cùng sở thích….. giáo viên nên chọn chia nhóm sao cho phù hợp để phần luyện nói
diễn ra một cách tự nhiên, sôi nổi và hào hứng đối với các em.
* Một số chú ý khi tổ chức dạy học luyện nói theo phương pháp nhóm:
+ Các đề tài đưa ra thảo luận phải có tác dụng kích thích sự suy nghĩ, gây sự
tò mò, chú ý của học sinh. Vì nếu đề tài quá dễ thì học sinh chóng chán, thảo luận
không có hiệu quả, còn nếu quá khó học sinh không có ý kiến thì cuộc thảo luận sẽ
bế tắc.
+ Không quá lạm dụng hình thức thảo luận nhóm trong giờ dạy luyện nói vì
nếu kéo dài sẽ ít có tác dụng.
+ Trong lúc thảo luận, giáo viên cần cố gắng cho mọi học sinh đều được bày
tỏ quan điểm, ý kiến. Giáo viên nên quan sát để hỗ trợ khi học sinh cần, mặt khác
để có biện pháp khích lệ đối với những học sinh quá ít lời. Lúc ấy giáo viên có thể
nhẹ nhàng hỏi: “Nào bây giờ cô muốn nghe ý kiến của các bạn chưa nói” hay:
“Bạn nói rồi, bây giờ mời em cho ý kiến?”….
+ Sau khi thảo luận, các nhóm có thể giao lưu trình bày kết quả của nhóm
mình.Trưởng ban học tập sẽ lên điều khiển thảo luận của các nhóm. Khi có ý kiến
phản hồi từ các nhóm, trưởng ban học tập có thể tự giải quyết hoặc nếu kiến thức
quá khó thì trưởng ban học tập sẽ tập hợp ý kiến và nhờ sự trợ giúp của giáo viên.
Các em tự giao lưu trao đổi lẫn nhau sẽ làm cho phần luyện nói của các em được tự
nhiên hơn. Giáo viên cần chú ý đến câu hỏi có nhiều ý kiến.
+ Giáo viên nên để học sinh có nhận xét về bài nói của các nhóm, sau đó
mới đưa ra đánh giá của mình và có thể khen ngợi ý kiến đóng góp của các em,
động viên tinh thần làm việc của các nhóm.
Ví dụ 1: Bài luyện nói về chủ đề: “Giữ gìn sách vở” Sách Tiếng Việt 1 tập
một trang 165.

Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

21


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

- GV chia lớp thành các nhóm (nhóm đôi, ba, tư)
- Câu hỏi thảo luận:
+ Hãy chia sẻ cách giữ gìn sách vở của mình cho bạn. (Gợi ý: Bạn đã làm gì
để giữ gìn sách vở? Để sách vở luôn sạch, đẹp không bị quăn mép, long bìa thì bạn
cần làm gì?...)
- Từng cá nhân trình bày trong nhóm cách làm của mình, các thành viên
khác nhận xét góp ý bổ sung cho bạn rồi thống nhất cách làm. Nhóm trưởng lên
báo cáo kết quả làm việc (các thành viên trong nhóm luân phiên làm nhóm trưởng).
- Các nhóm sau khi thảo luận sẽ trình bày trước lớp dưới sự điều khiển của
trưởng ban học tập. Các nhóm sẽ giao lưu bổ sung ý kiến. Cuối cùng giáo viên nêu
ý kiến và đánh giá tinh thần làm việc của các nhóm.
Ví dụ 2: Bài luyện nói “Trò chuyện về trời mưa” sách Tiếng việt 1 tập hai trang 125.
- Tiến hành tương tự. Giáo viên cũng có thể phát phiếu học tập cho các
nhóm, trong đó có nêu các câu hỏi thảo luận:
+ Bạn thích trời nắng hay trời mưa? Vì sao?
+ Bạn thích trời mưa như thế nào?
+ Sau cơn mưa cây cối và cảnh vật như thế nào?
4.3.3.Vận dụng phương pháp thông qua trò chơi học tập trong dạy học nội dung
luyện nói ở lớp 1:
- Trò chơi là hoạt động của con người nhằm mục đích vui chơi, giải trí, thư
giãn sau những giờ làm việc căng thẳng. Thông qua trò chơi, người chơi còn có thể

được rèn luyện thể lực, các giác quan, sự thông minh, nhanh nhạy, sáng tạo, hoạt
bát và đặc biệt là được giao lưu, học hỏi với bạn bè, đồng đội. Đối với trẻ em thì
trò chơi có vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt, vì vậy nếu biết kết hợp hợp lý
giữa học tập và vui chơi thì sẽ tạo được hiệu quả cao trong học tập, tránh được hiện
tượng mệt mỏi, nhàm chán cho học sinh.
* Một số chú ý khi sử dụng phương pháp trò chơi trong giờ luyện nói lớp 1
- Nội dung của trò chơi phải gắn liền với nội dung tri thức, kỹ năng cần rèn
luyện cho học sinh trong giờ học đó.
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

22


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

Ví dụ: Bài luyện nói: “Nói về sen” (Tiếng Việt 1 tập hai - trang 92)
+ Giáo viên có thể đưa ra trò chơi “Thi nói về sen” giữa 2 đội chơi, mỗi đội
5 em. Hai đội sẽ gắp thăm giành quyền nói trước, mỗi em nói một câu về sen, hai
đội luân phiên nhau nói, câu sau không được trùng câu trước. Đội nào có câu nói
lặp lại hoặc dừng trước sẽ thua cuộc.
- Mỗi trò chơi đều phải có luật chơi. Trò chơi học tập cần có luật chơi đơn
giản, dễ nhớ, dễ thực hiện và thời gian chơi ngắn, phù hợp với trình độ của học
sinh. Luật cũng cần được phổ biến rõ ràng trước cuộc chơi.
- Tuy nhiên cũng không nên lạm dụng trò chơi quá nhiều trong giờ học, chỉ
nên chơi vào ít phút cuối của giờ học, khi xuất hiện yêu cầu củng cố kiến thức, kỹ
năng, khi học sinh đã có dấu hiệu mệt mỏi. Lúc đó trò chơi sẽ tạo sự hưng phấn để
kết thúc tiết học và tạo thư giãn cho các em bước vào tiết học tiếp theo.
- Trò chơi học tập trong giờ luyện nói có thể kết hợp các vận động như:

truyền điện, nói và viết lên bảng lớp….
Ví dụ: + Thi nói tiếp sức về đề tài trong bài: “Nói về các con vật mà em
biết” ( Tiếng Việt 1 tập hai - trang 149)
+ Hoặc thi tiếp sức (theo đội) điền vào chỗ chấm tên các con vật mà
em biết:
Ví dụ: Nhanh như…..
Dữ như……
Hiền như…….
Chạy như……..
Hót như……..
Đen như…..
Nhát như…..
+ Thi nói tiếp câu về đề tài sen: Nói tiếp vào các câu sau để được ý trọn vẹn
- Đầm sen rộng……
- Lá sen………
- Hoa sen…
- Nhị sen….
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

23


Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

- Hương sen…..
Ở mỗi câu trên có thể gọi nhiều em nói để tạo ra sự phong phú, đa dạng qua
đó học sinh thấy rằng có nhiều cách diễn đạt một ý hoặc cùng một sự vật có thể
được nhìn bằng nhiều góc độ khác nhau. Như vậy còn rèn được cho học sinh óc

sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú.
4.3.4. Vận dụng phương pháp dạy học vấn đáp vào dạy nội dung luyện nói ở lớp 1:
- Phương pháp vấn đáp (hỏi - đáp) chiếm một vị trí quan trọng ở bậc Tiểu
học nói chung và ở lớp 1 nói riêng. Nó được sử dụng rộng rãi trong quá trình dạy
học nhằm gợi mở cho học sinh làm sáng tỏ những vấn đề mới, rút ra những kết
luận cần thiết từ những điều đã học. Nó tạo điều kiện cho học sinh phát huy được
tính tích cực, độc lập nhận thức, phát triển hứng thú học tập và khát vọng tìm kiếm
vấn đề để giải quyết.
- Ở giai đoạn đầu (phần học âm), phương pháp hỏi đáp được dùng nhiều hơn
vì lúc này học sinh chưa có nhiều kinh nghiệm trong kỹ năng nói. Khi ấy các em
rất cần sự gợi mở, dẫn dắt dần dần của giáo viên, hướng các em vào việc trình bày
một vấn đề nào đó.
* Một số điều cần chú ý khi sử dụng phương pháp vấn đáp trong giờ dạy luyện
nói ở lớp 1:
+ Giáo viên cần xác định rõ mục đích, yêu cầu hỏi đáp để đưa ra hệ thống
câu hỏi chính và những câu hỏi phụ để gợi mở.
+ Các câu hỏi cần có mối liên hệ với nhau để trở thành đoạn hội thoại giữa
giáo viên và học sinh.
+ Câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, sát trình độ của học sinh.
+ Câu hỏi phải có tác dụng kích thích tính tích cực, độc lập tư duy, phát triển
hứng thú nhận thức của học sinh.
+ Giáo viên cần có thái độ bình tĩnh khi học sinh trả lời chưa đúng hoặc
thiếu chính xác, tránh thái độ nôn nóng, vội vàng cắt ngang ý kiến của học sinh khi
không thật cần thiết.
+ Không chỉ chú ý đến kết quả câu trả lời của học sinh mà phải chú ý đến cả
cách diễn đạt câu trả lời của các em. Từ đó cần sửa lỗi diễn đạt cho học sinh sao
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

24



Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học
luyện nói trong môn Tiếng Việt 1
……………………………………………………………………..………………………..

cho chính xác, rõ ràng, hợp logic. Giáo viên cần biết cách động viên, khuyến khích
học sinh trả lời, tập thành thói quen trả lời một cách đầy đủ, đúng ý, sáng tạo, tránh
trả lời rập khuôn, máy móc, không đủ ý, đủ câu.
+ Giáo viên cần tổng kết phần hỏi đáp bằng cách yêu cầu học sinh độc thoại,
nói một đoạn ngắn về chủ đề đó (thường là học sinh giỏi) để rèn kỹ năng độc thoại
cho các em.
Ví dụ: Bài luyện nói: “Bữa cơm” (Tiếng Việt 1 tập một - trang 127). Giáo
viên có thể tổ chức bằng phương pháp hỏi đáp như sau:
- Yêu cầu học sinh nêu chủ đề luyện nói.
- Yêu cầu học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa, giáo viên nêu câu
hỏi cho HS trả lời:
+ Tranh vẽ cảnh gì?
+ Có những ai đang ăn cơm?
+ Bữa cơm trong gia đình em có những ai? (nhiều học sinh trả lời)
+ Trong bữa cơm có những món gì?
+ Em cảm thấy thế nào khi được ăn cơm cùng gia đình.
Với học sinh khá giỏi có thể yêu cầu học sinh kể về một bữa cơm bán trú….
- Những câu hỏi đầu thường dành cho những học sinh yếu hoặc ít nói. Sau
mỗi câu trả lời giáo viên cần động viên, khuyến khích để học sinh tự tin, mạnh dạn.
Cuối cùng giáo viên yêu cầu một vài em tự nói một số câu về chủ đề “Bữa cơm”.
Đây chính là phần nâng cao, dành cho những học sinh khá, giỏi.
4.3.5. Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạy
luyện nói ở lớp 1:
- Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy
học mà trong đó giáo viên đặt ra những vấn đề của bài học thông qua các tình

huống có vấn đề. Từ đó thu hút được sự quan tâm tìm hiểu của học sinh, đòi hỏi
học sinh phải tích cực, chủ động suy nghĩ, giải quyết các vấn đề đặt ra để tìm kiếm
cho bản thân những kiến thức mới và cách học tập mới. Đây không phải là phương
pháp dạy học mới nhưng nhìn chung nhiều giáo viên chưa vận dụng thành thạo
phương pháp này hoặc hiệu quả sử dụng chưa cao.
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 – 2016

25


×